Tham nhũng chính sách: Nhận diện thực trạng
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 1/2021
THAM NHŨNG CHÍNH SÁCH:
NHẬN DIỆN THỰC TRẠNG
TRƯƠNG NGỌC NAM
PHẠM HƯƠNG TRÀ
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Tóm tắt: Theo kết quả khảo sát, tham nhũng chính sách được thể
hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau và được người trả lời khẳng định tính
chất nguy hiểm của loại tham nhũng nguy hiểm nhưng khó phát hiện này.
Cũng giống như tham nhũng, tham nhũng chính sách được cho chỉ có thể
xuất hiện ở nhóm có chức vụ, quyền hạn và thường diễn ra ở những lĩnh
vực liên quan đến tài nguyên, môi trường, đất đai... hơn là xảy ra với
những chính sách an sinh xã hội. Nguyên nhân của tham nhũng chính
sách được chỉ ra trong nghiên cứu khá đa dạng, nhưng nhóm nguyên
nhân chính nằm ở sự tồn tại của cơ chế xin - cho, mối quan hệ giữa nhóm
chính trị có thế lực với các nhóm kinh tế không được kiểm soát và sự
chưa nghiêm minh của pháp luật trong xử lý các vụ việc tham nhũng.
Abstract: Research findings reveal that policy corruption was
expressed itself in various aspects and characterised as being dangerous
but difficult to be detected. Like corruption, policy corruption is supposed
to be occurred at the high ranking position group and often happen in
areas related to natural resources, environment, land more than that of
social security policies. The reasons of policy corruption identified in the
survey are varied, but the main reason lies in the existence of ask-and-
given mechanism, the relationship between the influential political group
and the uncontrolled economic groups and the unstrictly law in handling
of corruption cases.
82
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 1/2021
ham nhũng chính sách bao gồm nhiều hành vi khó nhận biết khác nhau
được thực hiện nhờ vào những “mối quan hệ ngầm”, những hoạt động
(1)
“bên lề” hoặc dùng vị trí chính trị, ảnh hưởng chính trị để can thiệp
vào việc có hoặc không đưa ra một quyết định mang tính chính trị như một chính
sách, đạo luật, hiệp định, hiệp ước, thỏa thuận... một cách thiên vị nhằm mục
đích vụ lợi.
Để phục vụ nghiên cứu của đề tài thuộc chương trình khoa học “Nghiên
cứu các luận cứ khoa học để đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững chế độ
chính trị ở Việt Nam”, nhóm tác giả đã khảo sát 1.200 cán bộ, công chức các cấp
từ Trung ương tới cơ sở và người dân của 6 tỉnh: Hà Nội, Hà Giang, Đà Nẵng,
Khánh Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ năm 2017.
1. Biểu hiện tham nhũng chính sách
Hơn 1/2 người trong số 1.200 người được khảo sát khẳng định tham nhũng
chính sách được thể hiện là “Chính sách tạo ra lợi thế rõ ràng nghiêng về một số
nhóm nhất định trong xã hội” chiếm 57,4%. Một tỷ lệ không nhỏ 43,6% cũng chỉ
ra biểu hiện của tham nhũng chính sách là do có tình trạng đánh giá, định giá tài
sản công không đúng thực tế hoặc nhằm biến tài sản công thành tài sản tư. Cách
thức vận động chính sách có ẩn chứa hành vi hối lộ hoặc một bộ phận cố tình làm
sai lệch chính sách so với ban đầu nhằm trục lợi là hai phương án tiếp theo mà
người trả lời cho rằng đó là biểu hiện của tham nhũng chính sách với tỷ lệ tương
ứng là 36,7% và 30,3%. Thậm chí, có một số người được hỏi còn cho rằng, các
chính sách được xây dựng, ban hành không có khả năng thực thi 9,5%. Như vậy,
về cơ bản người trả lời đều nhận thức được sự đa dạng của biểu hiện tham nhũng
chính sách và là loại tham nhũng cực kỳ nguy hiểm. Nó bao gồm nhiều hành vi
khó nhận biết khác nhau được thực hiện nhờ vào những “mối quan hệ ngầm”,
những hoạt động “bên lề”(2) hoặc dùng vị trí chính trị, ảnh hưởng chính trị để can
thiệp vào việc có hoặc không đưa ra một quyết định mang tính chính trị như một
83
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 1/2021
chính sách, đạo luật, hiệp định, hiệp ước, thỏa thuận... một cách thiên vị nhằm
mục đích vụ lợi.
Trong quá trình khảo sát, người trả lời ít nhiều đều cho rằng, tham nhũng
chính sách đều xuất hiện ở cả 4 giai đoạn xây dựng chính sách. Tuy nhiên, tỷ lệ
lớn người được hỏi cho rằng, ở giai đoạn 3 - giai đoạn triển khai chính sách chính
là khâu mà hiện tượng tham nhũng chính sách thường xảy ra nhiều nhất chiếm
563%. Lý giải cho điều này là bởi, ở giai đoạn này, các nguồn lực (chủ yếu là kinh
tế) của Nhà nước được huy động để thực hiện chính sách. Những kẻ tham nhũng
sẽ câu kết với nhau để “đấu thầu”, “chỉ định thầu”, “xin-cho”, “lại quà”, “bôi
trơn”... và hậu quả của nó là nhiều máy móc đã qua sử dụng được nhập khẩu
nhưng không thể sử dụng ở Việt Nam, nhiều công trình xây dựng bị rút lõi dẫn
đến chất lượng không đảm bảo, nhiều chủ đầu tư và nhà thầu cấu kết…(3).
Có 24,9% xác định có tham nhũng chính sách ở giai đoạn hoạch định chính
sách và sự thể hiện với những hình thức rất tinh vi. Nhóm lợi ích có thể “chèn”
các câu chữ vào văn bản quy phạm pháp luật, nhất là những câu chữ liên quan đến
lợi ích của họ. Họ có thể thêm các thủ tục, các loại “giấy phép con” sao cho họ có
nhiều kẽ hở nhất để có thể lợi dụng được. Thậm chí, chúng nhân danh sự “chặt
chẽ” trong quản lý nhà nước, nhân danh “an ninh quốc gia”, nhân danh “lợi ích
nhân dân”...
Thực tế, ở Việt Nam cũng đã có tiến hành khảo sát, lấy ý kiến của người
dân bằng nhiều hình thức khác nhau như thông qua cuộc họp tiếp xúc cử tri, đăng
tải trên các phương tiện truyền thông đại chúng,... thậm chí có hẳn trang web dự
thảo online với mục đích là nơi để cử tri cùng các đại biểu Quốc hội xây dựng
luật. Theo đó, nếu thông tin được tiếp nhận, xử lý khách quan, bình đẳng thì cơ
sở xây dựng chính sách cũng đáp ứng nhu cầu của xã hội tốt hơn. Tuy nhiên, trên
thực tế những nhóm có thế mạnh (thường là về tài chính hoặc địa vị xã hội) tìm
nhiều cách, nhiều nguồn khác nhau để “cài” thông tin nhằm làm cho các cơ quan
84
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 1/2021
chức năng (được giao nhiệm vụ xây dựng chính sách) quan tâm hơn đến vấn đề
của họ. Và như vậy, những nhóm yếu thế như nông dân, người ở khu vực nông
thôn, nhóm ở nơi ít có cơ hội tiếp cận với các phương tiện truyền thông đại chúng
hiện đại (Internet)... sẽ khó có thể đưa ra được tiếng nói của mình. Cũng có thể vì
điều này mà có tới 15,4% người được hỏi trả lời tham nhũng chính sách xuất hiện
cả ở giai đoạn đưa ra các cơ sở xây dựng chính sách.
2. Tham nhũng chính sách và mức độ biểu hiện trong các lĩnh vực kinh
tế - xã hội
Tham nhũng chính sách này thường diễn ra ở những lĩnh vực liên quan đến
tài nguyên, môi trường, đất đai... hơn là xảy ra với những chính sách an sinh xã
hội. Kết quả phân tích cho thấy, cả hai lĩnh vực đầu tư, xây dựng và tài nguyên,
môi trường đều là những lĩnh vực được cho là ở mức độ phổ biến (đều có tỷ lệ
trên 97% những người trả lời là có xảy ra). Cụ thể, có 70,4% người trả lời mức độ
rất phổ biến về tham nhũng chính sách trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường, tỷ
lệ này ở lĩnh vực đầu tư, xây dựng là 64,1%. Đây cũng là hai lĩnh vực được cho
là có mức độ tổn hại tới cộng đồng - xã hội nhiều nhất, với tỷ lệ tương ứng 92,6%
(65,4% tổn hại rất nghiêm trọng, 30,7% tổn hại nghiêm trọng), và 94% (49,6%
tổn hại rất nghiêm trọng).
Nhằm minh chứng cho những con số trên, trong bài viết đăng trên trang
thông tin điện tử tổng hợp của Ban Nội chính Trung ương cũng đã nêu 6 lĩnh vực
có nguy cơ xảy ra tham nhũng nhiều nhất trong đó có kể tới lĩnh vực đầu tư, xây
dựng cơ bản có đoạn viết… Các nhà thầu thỏa thuận với nhau trong đấu thầu để
một nhà thầu trúng thầu thì làm hồ sơ đầy đủ và tốt hơn, còn các nhà thầu khác
cùng tham gia đấu thầu gói thầu. Giá bỏ thầu của nhà thầu trúng thầu thường sát
giá trần còn các nhà thầu khác thì bỏ giá rất cao hoặc cố ý vi phạm các điều của
hồ sơ mời thầu để bị loại ra. Có dự án dự toán duyệt sai về giá trị nhưng các nhà
thầu vẫn bỏ sát giá được duyệt sai ấy...”(4). Hay trong vấn đề về tài nguyên, “bóng
85
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 1/2021
dáng lợi ích nhóm cũng là vấn đề mà nhiều người đặt ra trong vụ tranh cãi giữa
Đà Nẵng với Bộ Tài nguyên và Môi trường về nguồn nước sông Vu Gia sau khi
có thủy điện Đăk Mi 4. Cho dù Bộ Tài nguyên và Môi trường khẳng định rằng họ
khách quan và không đứng về lợi ích bên nào song việc 1,7 triệu dân ở hạ du thiếu
nước suốt 3 năm qua kể từ khi thủy điện này đi vào hoạt động đã khiến Đà Nẵng
“đe” sẽ khởi kiện cơ quan quản lý nhà nước”(5). Theo báo cáo của Bộ Tư pháp,
chỉ trong 10 tháng đầu năm 2014, các bộ, cơ quan, địa phương đã kiểm tra và phát
hiện 9.017 văn bản (chiếm tỷ lệ 22%) có dấu hiệu vi phạm các điều kiện về tính
hợp hiến, hợp pháp(6). Cũng theo số liệu tổng hợp của Thanh tra Chính phủ, từ
năm 2003 đến năm 2010, các cơ quan hành chính nhà nước các cấp đã tiếp nhận
và xử lý trên 1,2 triệu đơn thư khiếu nại, tố cáo. Đơn thư khiếu nại, tố cáo liên
quan đến đất đai bình quân hàng năm chiếm 69,79%. Nội dung khiếu nại, tố cáo
đối với các quyết định hành chính trong quản lý đất đai chủ yếu tập trung: khiếu
nại các quyết định hành chính về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chiếm
khoảng 70%; về giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;
về cấp, thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất(7).
Tham nhũng chính sách được cho chỉ có thể xuất hiện ở nhóm có chức vụ,
quyền hạn - nơi mà tiệm cận gần nhất với việc cho ra đời các chính sách xã hội.
Trong thực tế, chính sách của Đảng và Nhà nước ta hiện nay bao gồm cả một hệ
thống văn bản pháp quy từ Hiến pháp đến các Luật, Nghị quyết của Quốc hội, của
Chính phủ đến thông tư của các bộ đều do một hệ thống cơ quan có thẩm quyền
soạn thảo. Số liệu phân tích cho thấy nhóm được cho là dễ có cơ hội tham nhũng
chính sách nhất chính là “những người có chức quyền” (chiếm 99,8% số người
được hỏi), đứng thứ hai là nhóm “những người trực tiếp thực hiện chính sách tại
địa phương, đơn vị” (98,3%). Điều này một lần nữa khẳng định lý do tại sao người
trả lời chọn giai đoạn triển khai chính sách là khâu mà tham nhũng chính sách
thường xảy ra nhất. Ở vị trí thứ 3 là nhóm kiểm toán và những người tham gia xây
dựng chính sách (đều có tỷ lệ 97,1%). Theo đánh giá của người được hỏi, nhóm
86
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 1/2021
báo chí truyền thông và ủy ban kiểm tra là hai nhóm có nguy cơ thấp nhất có cơ
hội tham nhũng chính sách.
3. Nguyên nhân của tham nhũng chính sách
Có rất nhiều nguyên nhân lý giải về tình trạng này, có nguyên nhân do sự
sơ hở của tổ chức bộ máy, do sự thiếu đồng bộ và đầy đủ, thậm chí còn nhiều “kẽ
hở” của hệ thống chính sách, pháp luật. Có nguyên nhân thuộc về công tác kiểm
tra, giám sát còn thiếu chặt chẽ, chưa ngang tầm nhiệm vụ. Có nguyên nhân do
đấu tranh và xử lý những hành vi tham nhũng chưa kịp thời, chưa thường xuyên,
chưa nghiêm,...
Trong số 15 nguyên nhân mà nhóm nghiên cứu đưa ra được gộp thành 4
nhóm nguyên nhân sau:
- Nhóm nguyên nhân có tỷ lệ người được hỏi trả lời nhiều nhất (3 nguyên
nhân) đều đề cập đến mối quan hệ “ngầm” - nguyên nhân chính dẫn tới tham
nhũng chính sách (cơ chế xin - cho còn tồn tại, mối quan hệ giữa nhóm chính trị
có thế lực với các nhóm kinh tế không được kiểm soát và sự chưa nghiêm minh
của pháp luật trong xử lý các vụ việc tham nhũng).
- Nhóm nguyên nhân thứ hai (3 nguyên nhân có tỷ lệ gần tương đương nhau
trên dưới 30%) cho thấy rào cản chính từ hệ thống luật pháp cũng như cơ chế xây
đựng chính sách, cơ chế kiểm soát quyền lực.
- Nhóm nguyên nhân thứ ba nghiêng nhiều về tính công khai minh bạch,
công tác thanh kiểm tra giám sát chưa phát huy, hạn chế về thông tin.
- Nhóm nguyên nhân thứ tư chiếm tỷ lệ ít nhất (dưới 9%) tập trung chính
liên quan tới tính khoa học, cách thức truyền thông, sự ảnh hưởng của phân hóa
giàu nghèo trong xã hội.
Nhìn nhận ở góc độ này có thể thấy rõ sự nan giải trong việc đưa ra các giải
pháp, bởi lẽ tình trạng tham nhũng này nằm ẩn sâu trong hệ thống chính trị, không
87
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 1/2021
phải ngày một ngày hai có thể nhận ra. Bên cạnh đó, chính bản thân cơ chế cũ vẫn
còn tồn tại nên việc tạo dựng cơ chế mới không hề dễ dàng. Mặc dù, trình độ nhận
thức của người dân cũng như điều kiện, cơ hội tiếp cận với thông tin ngày nay tốt
hơn nhưng bản thân người dân cũng không chủ động cũng như cũng không biết
đến các trang thông tin.
Nhìn vào những câu hỏi xem nhiều nhất được đăng tải trên cổng thông tin
điện tử Chính phủ về giải đáp chính sách online phản ánh phần nào nhu cầu của
người dân, họ quan tâm nhiều hơn tới những chính sách ảnh hưởng trực tiếp tới
cuộc sống hơn là những chính sách mang tầm vĩ mô(8).
Phân tích về nguyên nhân chiếm tỷ lệ lớn nhất, 51,8% cho rằng, đó là do
cơ chế xin - cho còn phổ biến. Hiện nay, cụm từ “cơ chế xin cho” không còn là
điều mới mẻ với công chúng đặc biệt là người dân ở khu vực đô thị - nơi tập trung
nhiều các phương tiện truyền thông đại chúng. Khi đánh cụm từ “cơ chế xin cho”
trên Google (ngày 26.7.2017) cho kết quả trong vòng 0,47 giây có 138.000 bài
viết liên quan. Nó còn bị coi là vấn nạn, cũng không phải ngẫu nhiên mà tại phiên
họp thường kỳ của Chính phủ tháng 4.2016, cũng là phiên họp đầu tiên kể từ khi
Chính phủ mới kiện toàn (diễn ra trong 2 ngày 4 và 5.5.2016), Thủ tướng Nguyên
Xuân Phúc đã khẳng định: Chính phủ mới kiện toàn sẽ chuyển phương thức chỉ
đạo điều hành từ mệnh lệnh hành chính sang Chính phủ kiến tạo và phục vụ. Với
việc phải phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng thị trường, hạn
chế và tiến tới xóa bỏ cơ chế xin - cho...(9). Vậy, cơ chế này liên quan gì tới nguyên
nhân tham nhũng chính sách? Có thể nói, “người” có khả năng “cho” được trong
mối quan hệ này phải là những người có địa vị xã hội, có tầm ảnh hưởng nhất
định, thậm chí là quyết định tới việc ra đời của chính sách cũng như khả năng
tham vấn nhằm điều chỉnh được câu chữ, ngữ nghĩa trong chính sách. “Người” có
khả năng “xin” vừa là những người có thể tiếp cận nhanh nhất với những chính
sách (có thể chưa thành văn) chuẩn bị được ban hành, các văn bản dưới luật, vừa
là những người có khả năng về tài chính hoặc quyền uy để tìm cách tiếp cận nhằm
88
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 1/2021
làm cho các cơ quan chức năng quan tâm hơn tới vấn đề của họ. Cả hai nhóm này
có điểm chung là họ phải là những người thông minh (theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa
bóng) để “gài” những câu, ý nhằm có lợi cho một nhóm xã hội nhất định (không
phải là nhân dân) khi chính sách được triển khai. Điểm này dẫn tới nguyên nhân
có tỷ lệ cao thứ 3 (35,3%) là do sự quan hệ giữa nhóm chính trị có thế lực và các
nhóm kinh tế không được kiểm soát chặt chẽ.
Mặc dù, trong báo cáo trình bày tại Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện
Luật Phòng, chống tham nhũng (2006-2016) Tổng Thanh tra Chính phủ Phan Văn
Sáu khẳng định, qua 10 năm thi hành, Luật Phòng, chống tham nhũng đã thúc đẩy
sự chuyển biến rõ nét trên hầu hết các lĩnh vực quản lý nhà nước, góp phần tích
cực xây dựng xã hội công khai, minh bạch, dân chủ, củng cố và giữ vững niềm
tin của nhân dân. Hệ thống bộ máy nhà nước, thể chế, chính sách được hoàn thiện
hơn cùng với việc mở rộng công khai, minh bạch, thực hiện trách nhiệm giải trình,
tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm(10), nhưng nguyên nhân do “Tham
nhũng không bị xử lý nghiêm và tài sản tham nhũng không thu hồi được” được
người trả lời cho rằng, đó là yếu tố khiến cho tham nhũng chính sách tồn tại. Thêm
vào đó, cho tới hiện tại, chưa có một thống kê chính thức nào về những thiệt hại
do tham nhũng chính sách gây ra hoặc bị xử lý do tội tham nhũng chính sách.
Điều này một lần nữa khẳng định tính phức tạp của vấn đề.
Việc tìm ra câu trả lời cho việc không thể giám bớt/ loại bỏ được tham
nhũng nói chung, lợi ích nhóm và tham nhũng chính sách nói riêng không phải là
chưa được đặt ra. Tuy nhiên, cái khó nằm ở chỗ bản thân Pháp luật, chính sách,
cơ chế, còn lỏng lẻo, nhiều sơ hở nên dễ lợi dụng tham ô, thao túng... (chiếm
60,6%) lại là lý do mấu chốt khiến tình trạng lợi ích nhóm, tham nhũng chính sách
còn tồn tại. Vòng luẩn quẩn này cho thấy phần nào hoặc là sự hạn chế về trình độ
hoặc là sự thiếu đồng bộ hoặc sự coi thường pháp luật của những nhóm được giao
nhiệm vụ xây dựng chính sách, luật pháp. Cùng với lý do này, người được hỏi còn
cung cấp thêm những lý do khác cũng được họ cho là tác nhân khiến tình trạng
89
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 1/2021
tham nhũng chính sách vẫn hiện hữu. Hai yếu tố tiếp theo nằm ở khâu triển khai
và xử lý khi những hành vi tham nhũng bị phát giác đó là Thiếu cơ chế công khai,
minh bạch đối với những vấn đề có liên quan đến lợi ích, quyền lực (đấu thầu,
tuyển dụng, bổ nhiệm, làm luật....) (chiếm 54,4%) và Chế tài xử phạt chưa đủ
mạnh, biện pháp thiếu kiên quyết, triệt để, thiếu hiệu quả (46,4%).
Điều này cũng phù hợp với nhận định của Tổng thanh tra Chính phủ trong
Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng. Đó là thể
chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh vực vẫn còn bất cập;
công khai, minh bạch còn hạn chế. Việc tự kiểm tra, phát hiện tham nhũng hiệu
quả thấp. Một số quy định của pháp luật liên quan tới việc phát hiện, xử lý tham
nhũng không hợp lý, gây khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện. Hiệu quả
phát hiện vụ việc tham nhũng qua thanh tra, kiểm tra, kiểm toán còn chưa cao;
các cơ quan chức năng vào cuộc chưa quyết liệt, thẩm quyền của các cơ quan này
còn hạn chế, không đủ để làm rõ hành vi tham nhũng trong trường hợp đã phát
hiện dấu hiệu tiêu cực, tham nhũng(11).
Những lý do như khó khăn trong việc thu thập chứng cứ, thủ tục pháp lý
cũng như việc có nhiều cơ quan có liên quan tới hoạt động điều tra tham nhũng
được cho là những kinh nghiệm chưa hiệu quả trong phòng chống lợi ích nhóm
và tham nhũng chính sách nhưng đối với người được hỏi đây lại là những nguyên
nhân không được đánh giá cao. Nói cách khác, đây không phải là nhân tố chính
ảnh hưởng tới việc không thực hiện được mục tiêu giảm bớt lợi ích nhóm và tham
nhũng chính sách.
Tham nhũng chính sách là khái niệm mới, chưa được đề cập chính thức
trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam. Tuy nhiên, sự xuất hiện của
những câu từ với hàm ý tương tự đã xuất hiện từ lâu. Chính vì vậy, biểu hiện của
tham nhũng chính sách trên thực tế khá đa dạng nhưng đa số khẳng định tham
nhũng chính sách chính là Chính sách tạo ra lợi thế rõ ràng nghiêng về một số
90
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ SỐ 1/2021
nhóm nhất định trong xã hội. Tham nhũng chính sách cũng len lỏi vào tất cả các
giai đoạn, các khâu của quá trình xây dựng chính sách, nhưng giai đoạn triển khai
chính sách được cho là khâu mà hiện tượng tham nhũng chính sách thường xảy ra
nhiều nhất.
Hiện tượng này có thể xảy ra trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội với
các mức độ và tác hại tới cộng đồng - xã hội khác nhau nhưng tập trung chính
trong hai lĩnh vực đầu tư, xây dựng và tài nguyên, môi trường. Có thể nói, tham
nhũng chính sách và lợi ích nhóm ở Việt Nam đang có sự gắn kết chặt chẽ và len
lỏi vào nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, làm cản trở tới việc định hướng phát triển
xã hội của nước ta
⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯
(1) Vương Tuấn Anh, 2014, Tham nhũng chính sách là loại tham nhũng cực kỳ nguy
sach-la-loai-tham-nhung-cuc-ky-nguy-hiem, truy cập ngày 20.7.2017
tham- nhung-cuc-ky-nguy-hiem
nhung-291483/
doi/20l306/nhung-linh-vuc-thuong-xay-ra-tham-nhung-291483/
nuoc/tham-nhung-chinh-sach-20140225231632928.htm
hong-lam- chinh-sach.htm
(7) Hữu Tuấn, Giải quyết từ gốc các mân thuẫn về đất đai, đăng trên Báo Đầu tư online
ngày 6.11.2013
bo-co-che-xin-cho- 473447, truy cập ngày 20.7.2017
(10), (11) Thanh Loan, 2016, Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống
Detail.aspx?ItemID=480, truy cập ngày 26.7.2017
Nguồn: : Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông - 2017 - số 10 - tr.12-16
91
Bạn đang xem tài liệu "Tham nhũng chính sách: Nhận diện thực trạng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tham_nhung_chinh_sach_nhan_dien_thuc_trang.pdf