Thảo luận về một số kết quả nổi bật thực hiện chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) ở Việt Nam và trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
Chuyên mục: Quản trị - Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 17 (2021)
THẢO LUẬN VỀ MỘT SỐ KẾT QUẢ NỔI BẬT THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH MỖI XÃ
MỘT SẢN PHẨM (OCOP) Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
Đồng Văn Đạt
Tóm tắt
Bài viết được tác giả sử dụng phương pháp thu thập và phân tích thông tin thứ cấp từ Bộ Nông nghiệp
Phát triển nông thôn; Văn phòng điều phối Nông thôn mới Trung ương cung cấp. Chương trình mỗi xã
một sản phẩm giai đoạn 2018-2020, Việt Nam nói chung, tỉnh Thái Nguyên nói riêng đã đạt được những
thành tích nổi bật về số sản phẩm đạt tiêu chuẩn từ 3 sao trở lên, đạt 3.500 sản phẩm, tỉnh Thái Nguyên
có 76 sản phẩm; Chương trình OCOP thúc đẩy các địa phương phát huy lợi thế về các nguồn lực tạo ra
các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, khối lượng lớn thúc đẩy kinh tế nông thôn. Bên cạnh những kết quả
bước đầu, Chương trình OCOP cũng có một số hạn chế: Một số địa phương lúng túng trong cách làm;
nhiều chủ thể chưa hiểu rõ về định hướng, yêu cầu của Chương trình, các quy định pháp luật trong sản
xuất, phân phối sản phẩm. Một số khuyến nghị chính sách: Quy hoạch và phát triển vùng nguyên liệu; áp
dụng khoa học công nghệ; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ trực tiếp hướng dẫn Chương trình OCOP
cho chủ thể; tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; xây dựng và hoàn thiện hệ thống quản lý, giám sát sản
phẩm OCOP.
Từ khóa: Chương trình OCOP, Quyết định 490/QĐ-TTg ngày 07/5/2018, chủ thể OCOP, Việt Nam, Thái
Nguyên, Báo cáo số 39/BC-VPĐP.
DISCUSSION ON SOME OUTSTANDING RESULTS OF IMPLEMENTATION
OF THE ONE COMMUNE ONE PRODUCT PROGRAM (OCOP) IN VIETNAM AND
IN THAI NGUYEN PROVINCE
Abstract
The article collects and analyzes secondary information from the Ministry of Agriculture and Rural
Development, Central New Rural Coordination Office, etc. The one commune one product program in the
period of 2018-2020 in Vietnam in general, and Thai Nguyen province in particular has achieved
outstanding achievements in terms of the number of products with 3,500 products meeting the standards
of 3 stars or more. In which, Thai Nguyen province has 76 products. The OCOP program encourages
localities to take advantages of the resources to create high-value, high-volume products to promote the
rural economy. In addition to the initial results, the OCOP Program also has a number of limitations:
Some localities are confused in how to do it; many entities do not fully understand the orientation and
requirements of the Program, and legal regulations in production and distribution of products. Some
policy recommendations are: Planning and developing raw material areas, applying science and
technology, capacity building for the staff directly instructing the OCOP program, organizing production
and sale of products, completing the OCOP product management and monitoring system.
Keywords: OCOP program; Decision No. 490/QĐ-TTg dated May 7, 2018, OCOP entity, Vietnam, Thai
Nguyen, Report No. 39/BC-VPĐP.
JEL classification: O, O13.
vật đặc trưng nhất của làng, xã nơi các bạn sinh
sống [2, tr.80]. Thái Lan, đất nước đã thực hiện
được 20 năm nay, Chương trình OCOP cần được
thực hiện như là một phần và kéo dài cùng thời
gian của Chương trình xây dựng nông thôn mới
và gắn với phong trào khởi nghiệp quốc gia và các
địa phương. Khác với Nhật Bản, tại Thái Lan mô
hình OTOP (One Town One Product, hoặc One
Tambon One Product), có nghĩa là mỗi thị trấn
hay mỗi địa phương một sản phẩm, triển khai từ
trên xuống dưới, nghĩa là Chính phủ đóng vai trò
quan trọng từ ý tưởng phát triển sản phẩm, đào tạo
kiến thức, công nghệ, hỗ trợ tài chính cho đến tiếp
thị thông qua các hội chợ, quảng bá xúc tiến
thương mại trong và ngoài nước.
1. Đặt vấn đề
Xuất phát từ phong trào “Mỗi xã một sản
phẩm” được hình thành từ làng Oyama, tỉnh Oita,
Nhật Bản, vào năm 1961. Khi đó, người dân làng
này chỉ biết trồng lúa để làm lương thực. Ông
Yamada Harumi đã vận động các hộ gia đình ở địa
phương chuyển sang trồng mận và hạt dẻ, loại cây
phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu nơi đây. Kết quả,
mận và hạt dẻ đã trở thành đặc sản, giúp làng được
biết đến và mang về giá trị cao hơn gạo đến 40%.
Thống đốc Morihiko Hiramatsu chính thức mở
đầu cho chính sách về “Mỗi làng một sản phẩm”
(One village, One product - OVOP) bằng việc đối
thoại với các thị trưởng ở quận Oita vào năm
1979. Ông ấy đã nói rằng: Hãy khám phá, phát
triển và phổ biến rộng rãi cho mọi người biết sản
9
Chuyên mục: Quản trị - Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 17 (2021)
Tới thời điểm hiện nay, có nhiều quốc gia
trên thế giới đã và đang thực hiện Chương trình
Mỗi xã một sản phẩm, có tên gọi khác nhau
(OCOP, OVOP hay OTOP,…) có cách làm khác
nhau, nhưng điểm chung là phát huy nội lực để
phát triễn các sản phẩm, ngành nghề có thế mạnh,
tạo ra giá trị gia tăng cao ở khu vực nông thôn.
Tên gọi mỗi xã một sản phẩm không bị giới hạn
trong phạm vi đơn vị hành chính cấp xã mà được
hiểu rộng rãi hơn là cấp huyện, thị…
Ở Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Chương trình Mỗi xã một sản phẩm, giai đoạn
2018 – 2020 vào ngày 07/05/2018, Chương trình
OCOP nhanh chóng trở thành một phong trào
được nhiều tỉnh triển khai. Chương trình OCOP
có vai trò quan trọng, "hạt nhân" tạo ra sản phẩm
có giá trị gia tăng cao, khối lượng lớn thúc đẩy
phát triển kinh tế nông thôn” [7]. Sau ba năm thực
hiện, Chương trình OCOP ở Việt Nam nói chung
và tỉnh Thái Nguyên nói riêng đạt được một số kết
quả. Bên cạnh đó, Chương trình OCOP còn có
một số vấn đề cần giải quyết, thực sự coi nó là “hạt
nhân” thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn.
2. Kết quả Chương trình OCOP tại Việt Nam
và Thái nguyên
Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình mỗi xã
một sản phẩm giai đoạn 2018-2020, nước ta đạt
được nhưng thành tích đáng tự hào về số lượng
tỉnh, thành tham gia. Tới cuối năm 2020, Việt
Nam có 63/63 tỉnh, thành (100%) ban hành quyết
định phê duyệt đề án, kế hoạch triển khai chương
trình OCOP cấp tỉnh; số chủ thể là hợp tác xã
(HTX) và tổ hợp tác chiếm tỉ trọng lớn (40,72%
trong tồng số chủ thể tham gia), tạo ra một số
lượng lớn sản phẩm OCOP đạt tiêu chuẩn từ 3 sao
trở lên là 3.500 sản phẩm, chủ yếu là sản phẩm đạt
3 sao 2.261/3.500 (đạt tỷ lệ 64,60%).
Theo “Đề án Chương tình Mỗi xã một sản
phẩm, giai đoạn 2021 -2025” do Bộ Nông nghiệp
Phát triển Nông thôn công bố vào tháng 4/2021,
các địa phương đã tổ chức 66 hội chợ về sản phẩm
OCOP (cấp tỉnh, huyện) với trên 10.000 gian hàng;
142 trung tâm/điểm bán sản phẩm OCOP của 23
tỉnh được xây dựng và đưa vào hoạt động; 1.016
hợp đồng/bản ghi nhớ hợp tác giữa các chủ thể
OCOP và đơn vị thương mại được ký kết, trong
đó 354 chủ thể có sản phẩm được phân phối ổn
định trong các hệ thống siêu thị. Chương trình đã
hình thành được 393 chuỗi giá trị OCOP hoạt
động hiệu quả với vai trò tích cực của HTX và
doanh nghiệp (66,4% chủ thể OCOP ở miền núi
phía Bắc là hợp tác HTX, 54,2% chủ thể OCOP ở
Đông Nam Bộ là doanh nghiệp...[3].
2.1. Kết quả thực hiện Chương trình OCOP tại
Việt Nam
Sau hơn 2 năm thực hiện Quyết định
490/QĐ-TTg ngày 07/5/2018 của Thủ tướng
Bảng 1: Kết quả thực hiện Chương trình OCOP của Việt Nam (tính đến cuối năm 2020)
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Kết quả
1. Tỉnh/thành phố ban hành quyết định phê duyệt đề án, kế hoạch triển Tỉnh/thành phố
khai chương trình OCOP cấp tỉnh
63
2. Tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương tổ chức đánh giá, phân hạng cho Tỉnh/thành phố
các sản phẩm
54
3. Số cán bộ cơ sở, chủ thể và chuyên gia tư vấn được tập huấn tập trung
4. Số lượng sản phẩm OCOP được công nhận đạt 3 sao trở lên
Trong đó: sản phẩm đạt 3 sao
Sản phẩm đạt 4 sao
Sản phẩm tiềm năng đạt 5 sao
Lượt người
Sản phẩm
Sản phẩm
Sản phẩm
Sản phẩm
Chủ thể
33.000
3.500
2.261
1.164
75
5. Số chủ thể có sản phẩm được công nhận OCOP
Trong đó: Chủ thể là hợp tác xã
1.945
749
Chủ thể
Chủ thể là doanh nghiệp
Chủ thể
549
Chủ thể là cơ sở sản xuất
Chủ thể
604
Chủ thể là các tổ hợp tác
Chủ thể
43
Nguồn: Kỷ yếu các mô hình khởi nghiệp gắn với Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) năm 2020
Chương trình OCOP đã góp phần tạo việc làm
cho lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn,
đặc biệt là phát huy vai trò của phụ nữ và đồng bào
dân tộc thiểu số. Điển hình như, các chủ thể OCOP
của tỉnh Quảng Ninh đã tạo việc làm cho trên 3.800
lao động trực tiếp; các chủ thể OCOP của tỉnh Hà
Tĩnh tạo việc làm và thu nhập ổn định cho 2.196 lao
động... Chủ thể OCOP là nữ chiếm 39%, cao hơn tỷ
lệ nữ giữ vai trò điều hành các doanh nghiệp của Việt
Nam (25%), đặc biệt là ở khu vực miền núi như: Bắc
Trung Bộ với 50,6%, Tây Nguyên là 45,2% và miền
núi phía Bắc là 43,4% [3].
Sản phẩm OCOP đáp ứng các tiêu chuẩn, quy
chuẩn chất lượng, an toàn thực phẩm; có mẫu mã,
bao bì đa dạng và thân thiện với môi trường, phù
hợp yêu cầu của thị trường. Nhiều sản phẩm
OCOP được đổi mới, sáng tạo để nâng cao chất
lượng, đã tiếp cận thị trường xuất khẩu (như: miến
dong Tài Hoan của tỉnh Bắc Kạn, cà phê Bích
10
Chuyên mục: Quản trị - Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 17 (2021)
Thao của tỉnh Sơn La, đường thốt nốt Palmania
của tỉnh An Giang…) [3].
được xem là địa phương thực hiện khá thành công.
Tỉnh Bắc Kạn có 107 sản phẩm OCOP, bao gồm 99
sản phẩm đạt ba sao và tám sản phẩm đạt bốn sao.
Đặc biệt các sản phẩm chế biến sâu như: Trịnh Năng
Gừng, Trịnh Năng Curcumin, Vicumax - Nano
curcumin và 15 sản phẩm tham gia Chương trình
OCOP sản xuất theo chuỗi giá trị [4].
Bên cạnh những thành tích của Chương
trình OCOP của Việt Nam, vẫn còn một số điểm
cần khắc phục:
Theo ý kiến của Phó Thủ tướng Chính phủ
Trịnh Đình Dũng phát biểu tại Hội nghị toàn quốc
tổng kết Chương trình Mỗi xã một sản phẩm
(OCOP) giai đoạn 2018-2020 cho rằng: Chương
trình OCOP vẫn bộc lộ hạn chế, trước hết sự vào
cuộc của một số địa phương còn chậm, một số địa
phương có biểu hiện "chạy theo phong trào"
thành tích. Đây là điều cần chấn chỉnh vì chưa đi
vào thực chất, dựa vào lợi thế đặc trưng văn hoá,
dân tộc. Chưa thực sự quan tâm đến giải pháp hỗ
trợ cụ thể cho chương trình OCOP [7].
Các sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP đã gia
tăng giá trị, góp phần giúp các chủ thể tăng quy mô
sản xuất và doanh thu. Kết quả đánh giá của các địa
phương cho thấy: 60,7% chủ thể OCOP đạt từ 3 sao
trở lên có doanh thu tăng bình quân 17,6%/năm, giá
bán các sản phẩm sau khi được chính thức công
nhận OCOP tăng bình quân 12,2% [7].
Chương trình OCOP góp phần bảo tồn và phát
huy các làng nghề truyền thống, giá trị văn hóa để
phát triển kinh tế nôngthôn (khoảng5.400 làng nghề,
trong đó gần 2.000 làng nghề truyền thống) [3].
Trong giai đoạn 2018-2020, cả nước đã huy
động được 22.845 tỷ đồng triển khai Chương trình
OCOP, trong đó: Ngân sách Nhà nước hỗ trợ trực
tiếp là 608,5 tỷ đồng, chiếm 2,7% (Ngân sách
Trung ương chiếm 1,8%, ngân sách địa phương là
0,9%); Vốn tín dụng chiếm 76,6%; Vốn lồng ghép
từ các chương trình, dự án khác chiếm 3,9%... Đặc
biệt, nguồn vốn của các chủ thể tham gia triển khai
chương trình chiếm 16,5% [3].
Theo đánh giá Bộ Nông nghiệp Phát triển
Nông thôn: Chương trình OCOP là một chương
trình mới, liên quan đến nhiều lĩnh vực, đặc biệt là
yêu cầu khơi dậy tiềm năng, lợi thế của các địa
phương để phát triển kinh tế nông thôn, do đó giai
đoạn đầu triển khai, một số địa phương còn nhiều
lúng túng trong cách làm, xác định lợi thế, tiềm
năng và chủ thể sản xuất, mới chỉ tập trung vào
hoàn thiện các sản phẩm đã có, chưa quan tâm phát
triển sản phẩm mới gắn với vùng nguyên liệu, đặc
biệt là các làng nghề truyền thống; nguồn lực triển
khai Chương trình còn hạn chế, chủ yếu là lồng
ghép, trong khi một số cơ chế hỗ trợ chưa được cụ
thể hóa, chưa chú trọng đến phát triển chuỗi giá trị,
vùng nguyên liệu và cơ sở chế biến,... dẫn đến
những khó khăn trong quá trình triển khai ở một số
địa phương; Nhiều chủ thể chưa hiểu rõ về định
hướng, yêu cầu của Chương trình, đặc biệt là các
quy định của pháp luật trong sản xuất và phân phối
sản phẩm, do đó còn nhầm lẫn giữa chất lượng sản
phẩm với bao bì và nhãn mác [3].
Về xây dựng mạng lưới OCOP, Bộ Nông
nghiệp và PTNT đã phối hợp với các đơn vị liên
quan thúc đẩy phát triển mạng lưới kết nối các quốc
gia triển khai phong trào mỗi làng, mỗi xã một sản
phẩm iOCOP (ngày 17/4, tại Tp. Hồ Chí Minh,
trong khuôn khổ Diễn đàn quốc tế kết nối toàn cầu
mỗi xã một sản phẩm, mạng lưới liên kết hợp tác
toàn cầu mỗi xã một sản phẩm (iOCOP) đã chính
thức ra mắt với 15 thành viên đầu tiên gồm: Việt
Nam, Lào, Kenya, Australia, Nhật Bản, Columbia,
Thái Lan, Pakistan, Afganistan, Ấn Độ, Senegal,
Mexico, Chile, Madagasca và Campuchia) [1];
phối hợp với Bộ Ngoại giao thúc đẩy, đề xuất sáng
kiến “Phát triển sản phẩm ngành nghề nông thôn
theo mô hình mỗi xã, mỗi làng một sản phẩm trong
khối ASEAN”, sáng kiến đã được Hội nghị cấp cao
ASEAN 2020 chấp thuận và đưa vào kế hoạch triển
khai từ năm 2021 [3].
Quá trình triển khai Chương trình OCOP của
Việt Nam đã bước đầu đạt được kết quả đáng khích
lệ, khơi dậy và khai thác tiềm năng của địa phương
bao gồm nguồn lực tự nhiên, thế mạnh vùng miền,
đặc sản địa phương. Đặc biệt các sản phẩm hàng hóa
hay dịch vụ đạt tiêu chuẩn của Chương trình mang
lại giá trị kinh tế cao cho các chủ thể, tạo mối liên
kết chuỗi giá trị được mở rộng, phát triển, vững chắc.
Các tỉnh có kết quả thực hiện Chương trình OCOP
được kể đến: Quảng Ninh, triển khai Chương
trình từ năm 2013, từ chỗ có 48 sản phẩm ban đầu,
đến hết năm 2020 toàn tỉnh đã có 236 sản phẩm đạt
từ ba đến năm sao; tỉnh Bắc Kạn triển khai Chương
trình OCOP muộn hơn Quảng Ninh 5 năm, song lại
2.2. Kết quả Chương trình OCOP tại Thái Nguyên
Công tác chỉ đạo
Tỉnh uỷ, Hội đồng Nhân dân (HĐND) tỉnh
Thái Nguyên đã ban hành các Nghị quyết hỗ trợ
và phát triển nông nghiệp nói chung và sản phẩm
OCOP nói riêng (Nghị quyết số 10/NQ-TU ngày
21/10/2019 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát
triển nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên, giai đoạn 2019-
2025 và định hướng đến năm 2030; Nghị quyết số
05/2019/NQ-HĐND ngày 23/7/2019 của Hội
đồng nhân dân tỉnh Thái Nguyên về quy định
chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp,
11
Chuyên mục: Quản trị - Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 17 (2021)
nông thôn tỉnh Thái Nguyên; Nghị quyết số
33/2019/NQ-HĐND ngày 23/7/2019 của Hội
đồng nhân dân tỉnh Thái Nguyên về thông qua đề
án “Mỗi xã một sản phẩm” tỉnh Thái Nguyên giai
đoạn 2019 – 2025); Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái
Nguyên ban hành Quyết định số 3485/QĐ-UBND
về Đề án “Mỗi xã một sản phẩm” tỉnh Thái Nguyên,
giai đoạn 2019 – 2025 [8].
sản tốt trên quy mô toàn cầu của Tổ chức
Solidaridad - Hà Lan) [5; 6].
Do có sự chỉ đạo tích cực của UBND, các cơ
quan chức năng và sự tham gia của các chủ thể vào
Chương trình OCOP của tỉnh Thái Nguyên, sau 2
năm thực hiện, Chương trình đã đạt được một số
thành tích sau:
Kết quả thực hiện Chương trình
Hoạt động triển khai
Với thế mạnh về điều kiện tự nhiên, kinh
nghiệm sản xuất, Thái Nguyên có 76 sản phẩm đạt
3-4 sao, có đến 37 sản phẩm từ cây chè. Tác động
tích cực của Chương trình OCOP: Trở thành động
lực để phát triển kinh tế vùng nông thôn, duy trì,
phát huy thế mạnh sản phẩm của địa phương, tạo
ra những sản phẩm chất lượng cao, liên kết theo
chuỗi giá trị gắn với tiêu thụ sản phẩm, đáp ứng
nhu cầu thị trường, người tiêu dùng tin tưởng vào
nguồn gốc, chất lượng sản phẩm; duy trì, tôn vinh
những nghệ nhân gắn với các sản phẩm chè tại địa
phương; tạo ra nhiều việc làm, góp nâng cao thu
nhập cho người dân, phục vụ hiệu quả cho chương
trình Mục tiêu quốc gia (MTQG) xây dựng nông
thôn mới. Giá trị kinh tế của các sản phẩm được
nâng lên từ 20% trở lên nhờ đạt tiêu chí OCOP và
công tác xúc tiến thương mại. Doanh số bán hàng
của các đơn vị có sản phẩm đạt 3 sao, 4 sao tăng
từ 20% - 50% [8].
Hình thức tổ chức sản xuất sản phẩm theo
Chương trình OCOP đã có những sự thay đổi, đòi
hỏi liên kết như một tất yếu khách quan. Các chủ
thể sản xuất theo mô hình các hợp tác xã, với quy
mô sản xuất ngày càng tăng; vùng nguyên liệu
chuẩn hóa về quy trình chăm sóc, đạt tiêu chuẩn
quốc gia và hướng tới xuất khẩu (như: VietGap,
hữu cơ, an toàn sinh học,...) tạo chuỗi giá trị khép
kín, từ sản xuất nguyên liệu, thu hoạch, bảo quản,
chế biến, đóng gói, quảng bá thương hiệu, tiêu thụ
sản phẩm và quản trị quan hệ với khách hàng. Các
hợp tác xã sản xuất chè tiêu biểu: Các hợp tác xã
chè Hảo Đạt; Sơn Dung; Tâm trà thái, HTX chè
Trung du Tân Cương; Thái Minh; Tân
Hương,...Trong đó, Hợp tác xã Tâm Trà Thái, xã
Tân Cương, thành phố Thái Nguyên và Tân
Cương sử dụng mô hình trồng, sản xuất trà sạch,
an toàn theo tiêu chuẩn VietGap và tiêu chuẩn
UTZ (Tiêu chuẩn về sản xuất các sản phẩm nông
Bảng 2: Kết quả công tác triển khai, thực hiện Chương trình OCOP của tỉnh Thái Nguyên
(tính đến cuối năm 2020)
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Lớp
Kết quả
72
1. Tuyên truyền, tập huấn
Trong đó, lớp đào tạo riêng cho OCOP
Lớp
29
Lớp tập huấn lồng ghép
Lớp
43
Số lượng người tham gia
Lượt
Tin/bài
3.600
20
2. Tuyên truyền về Chương trình OCOP (phóng sự, phim tài liệu, chuyên
đề,…trên VTV1, VTV2, VTV16; Cổng thông tin điện tử Thái Nguyên,…)
3. Xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm (tại tỉnh)
4. Tư vấn và hỗ trợ phát triển, đăng ký xác lập, bảo hộ, thực thi quyền sở
hữu trí tuệ liên quan đến sản phẩm OCOP
Lần
Đơn vị
4
50
5. Kết quả đánh giá, phân hạng sản phẩm từ 3-4 sao
6. Doanh số tăng thểm của chủ thể đạt từ 3 sao, 4 sao
7. Giá trị tăng thêm sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP
Sản phẩm
76
20%-50%
>20%
%
%
Nguồn: Báo cáo số 39/BC-VPĐ.
Bên cạnh những thành tích đã đạt được, theo
Báo cáo số 39/BC-VPĐP, Chương trình OCOP
của tỉnh Thái Nguyên vẫn còn một số hạn chế:
Một số địa phương, đơn vị chưa nhận thức
đầy đủ về ý nghĩa, vai trò của Chương trình OCOP
với phát triển kinh tế của địa phương, chưa tích
cực trong triển khai thực hiện Chương trình nên
số lượng các chủ thể tham gia chu trình OCOP và
sản phẩm OCOP đạt 3 sao, 4 sao ở một số huyện
còn thấp: Phú Bình, 01 sản phẩm; Định Hóa, 01
sản phẩm; Phú Lương, 02 sản phẩm,…
OCOP các cấp chưa có kinh nghiệm; kiến thức về
Chương trình còn hạn chế, dẫn đến sự lúng túng
trong công tác hướng dẫn các tổ chức, cá nhân trên
địa bàn tham gia, triển khai thực hiện Chu trình
OCOP và lập hồ sơ ở cấp huyện, cấp xã còn hạn chế.
Quy mô sản xuất của một số đơn vị, chủ thể
tham gia chu trình OCOP chưa đáp ứng được nhu
cầu thị trường, một số sản phẩm chủ lực của địa
phương chưa xây dựng được thương hiệu; sản
phẩm tiêu thụ chủ yếu ở dạng thô, giá trị sản phẩm
chưa cao. Trình độ quản lý, xây dựng kế hoạch
sản xuất của nhiều chủ thể còn yếu, chưa thực sự
Cán bộ làm công tác thực hiện Chương trình
12
Chuyên mục: Quản trị - Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 17 (2021)
chú trọng khâu quảng bá xúc tiến thương mại cho
các sản phẩm.
3. Bàn luận về các kết quả thực hiện chương
trình OCOP ở Việt Nam, tỉnh Thái Nguyên và
một số khuyến nghị chính sách
nhiều lúng túng trong cách làm. Nhiều chủ thể
mới tập trung vào hoàn thiện sản phẩm đã có, chưa
quan tâm tới phát triển sản phẩm mới trên cơ sở
phát huy nguồn nguyên liệu tại chỗ.
Thứ hai, Nguồn lực hạn chế, ảnh hưởng tới áp
dụng khoa học công nghệ, hoạt động chế biến sản
phẩm, gây khó khăn thực hiện chuỗi liên kết giá trị.
Thứ ba, các chủ thể, các cơ quan liên quan ở
các địa phương có các sản phẩm đạt tiêu chuẩn
OCOP từ 3 sao trở lên, cần chú ý quy định của
pháp luật trong quản lý, giám sát sản xuất, phân
phối sản phẩm.
Thứ tư, ở tỉnh Thái Nguyên, một số địa phương,
đơn vị chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, vai trò của
Chương trình OCOP với phát triển kinh tế của địa
phương; cán bộ làm công tác thực hiện Chương trình
OCOP các cấp chưa có kinh nghiệm; kiến thức về
Chương trình còn hạn chế; Quy mô Cán bộ làm công
tác thực hiện Chương trình OCOP các cấp chưa có
kinh nghiệm; kiến thức về Chương trình còn hạn chế;
Quy mô sản xuất của một số đơn vị, chủ thể tham gia
chu trình OCOP còn nhỏ, sản phẩm chủ yếu dưới
dạng thô, chưa xây dựng được thương hiệu.
3.1. Các ý kiến bàn luận
Thực hiện Chương trình OCOP ở Việt Nam
nói chung, tỉnh Thái Nguyên nói riêng là một
nhiệm vụ quan trọng, góp phần khai thác lợi thế
các nguồn lực của địa phương, tạo ra các sản phẩm
hàng hóa mang tính đặc trưng vùng, miền;
Chương trình OCOP thúc đẩy các ngành nghề
truyền thống địa phương, giải quyết việc làm; tạo
liên kết chuỗi giá trị,…đóng vai trò là hạt nhân tạo
ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao, khối lượng lớn
thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn. Tuy nhiên,
vẫn còn một số điểm cần khắc phục, do Chương
trình OCOP là một chương trình mới được triển
khai, liên quan nhiều lĩnh vực, nhiều địa phương
còn lúng túng trong cách làm; nguồn lực cho
Chương trình còn hạn chế…vv.
Sau 3 năm thực hiện Chương trình OCOP, kết
quả thực hiện Chương trình OCOP tại Việt Nam
nói chung, tỉnh Thái Nguyên nói riêng đã đạt được
nhiều thành tích nổi bật:
3.2. Khuyến nghị chính sách
3.2.1. Khuyến nghị chính sách phạm vi quốc gia,
Thứ nhất, Các địa phương đã khai thác, phát
huy thế mạnh của địa phương, sản xuất ra 3.500 sản
phẩm, tỉnh Thái Nguyên có 76 sản phẩm OCOP
được công nhận đạt tiêu chuẩn đạt từ 3 sao trở lên.
Thứ hai, Chương trình đã hình thành được 393
chuỗi giá trị OCOP hoạt động hiệu quả với vai trò
tích cực của HTX và doanh nghiệp.
Thứ ba, Chương trình OCOP đã góp phần tạo
việc làm cho lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế
nông thôn, đặc biệt là phát huy vai trò của phụ nữ
và đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ tư, Sản phẩm OCOP đáp ứng các tiêu
chuẩn, quy chuẩn chất lượng, an toàn thực phẩm.
Các sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP đã gia tăng
giá trị, góp phần giúp các chủ thể tăng quy mô sản
xuất và doanh thu. Đối với tỉnh Thái Nguyên, giá
trị kinh tế của các sản phẩm được nâng lên từ 20%
trở lên nhờ đạt tiêu chí OCOP và công tác xúc tiến
thương mại. Doanh số bán hàng của các đơn vị có
sản phẩm đạt 3 sao, 4 sao tăng từ 20% - 50%.
Thứ năm, Chương trình OCOP góp phần bảo
tồn và phát huy các làng nghề truyền thống, giá trị
văn hóa để phát triển kinh tế nông thôn.
giai đoạn 2021 -2025
Một là, tổ chức sản xuất gắn với quy hoạch và
phát triển vùng nguyên liệu đặc trưngtại địa phương.
Mỗi địa phương phải đánh giá đúng đắn thế mạnh
điều kiện tự nhiên của vùng, tổ chức sản xuất theo
mối liên kết với sự tham gia của tổ chức kinh tế
HTX, doanh nghiệp. Cần nói thêm rằng: Chương
trình mỗi xã một sản phẩm không có nghĩa bị giới
hạn bởi đơn vị hành chính cấp xã, mà là phát huy lợi
thế nguồn lực của vùng (chè Thái Nguyên; cà phê
Tây Nguyên, các sản phẩm chế biến sâu như: Trịnh
Năng Gừng, Trịnh Năng Curcumin, Vicumax -
Nano curcumin của tỉnh Bắc Kạn; các sản phẩm
dược liệu tỉnh Hà Giang,…)
Hai là, tập trung nguồn lực, áp dụng khoa
học- công nghệ chuẩn hóa và phát triển sản phẩm
OCOP theo chuỗi giá trị, phù hợp với lợi thế về
điều kiện sản xuất và yêu cầu thị trường. Chuẩn
hóa sản phẩm gắn với lợi thế và điều kiện của từng
địa phương. Phát triển sản phẩm OCOP theo 6
nhóm sản phẩm, ưu tiên các sản phẩm nông
nghiệp, phi nông nghiệp, dịch vụ đặc sắc, truyền
thống và có lợi thế ở mỗi địa phương, theo hướng
phát huy nội lực.
Một số điểm hạn chế cần khắc phục
Thứ nhất, Chương trình OCOP là một
chương trình mới, liên quan đến nhiều lĩnh vực,
đặc biệt là yêu cầu khơi dậy tiềm năng, lợi thế của
các địa phương để phát triển kinh tế nông thôn, do
đó giai đoạn đầu triển khai, một số địa phương còn
Ba là, Xây dựng, hoàn thiện hệ thống quản lý,
giám sát sản phẩm OCOP
Tổ chức đánh giá, phân hạng sản phẩm
OCOP thường niên, tăng cường áp dụng công
nghệ, đơn giản hóa các hồ sơ, thủ tục trong tổ chức
13
Chuyên mục: Quản trị - Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 17 (2021)
đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP.
thực hiện kế hoạch bảo vệ môi trường; tránh việc
chỉ tập trung vào khâu hoàn thiện hồ sơ mà thiếu
quan tâm cải thiện chất lượng sản phẩm.
Xây dựng và triển khai hệ thống cơ sở dữ liệu
quốc gia quản lý và giám sát sản phẩm OCOP
đồng bộ và thống nhất nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả trong quản lý, giám sát, thúc đẩy kết nối
cung – cầu sản phẩm.
Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, giám sát việc
áp dụng chính sách, quy định về đánh giá, phân
hạng sản phẩm ở các địa phương, duy trì điều kiện
và chất lượng sản phẩm của các chủ thể, sản phẩm
OCOP sau khi được đánh giá, công nhận.
Đẩy mạnh hoạt động quảng bá, xúc tiến
thương mại, kết nối cung - cầu cho sản phẩm
OCOP thông qua các hoạt động hội chợ sản phẩm
OCOP thường niên, các hoạt động năm du lịch
quốc gia tại các địa phương. Các sản phẩm OCOP
được liên kết tiêu thụ tại các khu vực du lịch, hệ
thống nhà hàng cao cấp, các siêu thị,…
Thứ hai, hỗ trợ các hoạt động: Đăng ký ý
tưởng sản phẩm mới, các hoạt động quảng bá, giới
thiệu, xúc tiến thương mại sản phẩm đã có; phát
triển các sản phẩm chế biến sâu, công nghệ cao,
quy mô lớn, tính cộng đồng cao, giá trị gia tăng
lớn, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ,…
đảm bảo quy chuẩn chất lượng sản phẩm, thuộc
các ngành: ngành thực phẩm; hỗ trợ, tư vấn hình
thành các chủ thể HTX, tổ hợp tác, doanh
nghiệp,… nhất là các huyện có số lượng sản phẩm
tham gia Chương trình OCOP còn ít.
Thứ ba, chỉ đạo các xã, phường, thị trấn hướng
dẫn, các chủ thể tham gia chu trình OCOP đăng ký
ý tưởng sản phẩm mới và sản phẩm đã có với hệ
thống quản lý Chương trình OCOP cấp xã, cấp
huyện. Khuyến khích, ưu tiên hỗ trợ (nhóm: thực
phẩm tươi sống, thực phẩm chế biến, gia vị); ngành
đồ uống (nhóm đồ uống không cồn); ngành thảo
dược; ngành dịch vụ du lịch nông thôn và bán hàng.
Thứ tư, tăng cường công tác quản lý việc sử
dụng nhãn hiệu chứng nhận sản phẩm OCOP theo
Quyết định số 1162/QĐ-VPĐP-OCOP ngày
17/9/2020 của Văn phòng điều phối nông thôn
mới Trung ương về Ban hành Quy chế quản lý và
sử dụng nhãn hiệu chứng nhận sản phẩm OCOP
Việt Nam.
3.2.2. Một số giải pháp Chương trình OCOP tại
Thái Nguyên, giai đoạn 2021- 2025
Thứ nhất, công tác tuyên truyền, tập huấn
nhận thức ý nghĩa, vai trò của Chương trình OCOP
với phát triển kinh tế của địa phương tới cán bộ trực
tiếp triển khai, thực hiện Chương trình. Tập huấn
cho chủ thể tham gia Chương trình hiểu rõ chu
trình, nội dung và cách thức tham gia Chương trình
OCOP, lợi ích khi tham gia Chương trình OCOP,
và cách thức hoàn thiện nhiều thủ tục như các mẫu
xét nghiệm, các chứng nhận chất lượng sản phẩm,
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Xuân Anh. (17/04/2019). Ra mắt mạng lưới liên kết hợp tác toàn cầu iOCOP. Ban biên tập Kinh tế,
Thông tấn xã Việt Nam. Truy cập ngày 11/05/2021.
[2]. Ban chỉ đạo Trung ương các Chương trình mục tiêu Quốc gia, Văn phòng điều phối Nông thôn mới Trung
ương, Kỷ yếu các mô hình khởi nghiệp gắn với Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) năm 2020.
[3]. Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn (2021), Đề án Chương trình Mỗi xã một sản phẩm, giai đoạn
2021 -2025.
[4]. Sơn Hà. (12/01/2021). Hiệu quả từ chương trình OCOP ở các tỉnh Miền Bắc. Nhân Dân. Truy cập
[5]. Mananya - Bảo Hướng. (21/10/2019). OCOP - Nhìn từ cách làm của Thái Lan. Cổng thông tin điện
tử Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Truy cập 10/5/2021, từ
[6]. Thế Toàn. (13/11/2020). Nâng cao giá trị chè từ Chương trình OCOP. Đài Phát thanh – Truyền hình
Thái Nguyên. Truy cập 10/5/2021.
[7]. Thanh Trà. (24/3/2021), Sản phẩm OCOP khẳng định vị thế trên thị trường. Nhân Dân. Truy cập 10/5/2021,
[8]. Văn phòng Điều phối Chương trình Mục tiêu Quốc gia (MTQG) xây dựng nông thôn mới, tỉnh Thái
Nguyên, 2020. Báo cáo số 39/BC-VPĐP.
Thông tin tác giả:
Ngày nhận bài: 02/04/2021
Ngày nhận bản sửa: 25/05/2021
Ngày duyệt đăng: 30/05/2021
Đồng Văn Đạt
- Đơn vị công tác: Trường Đại học Kinh tế & QTKD
14
Bạn đang xem tài liệu "Thảo luận về một số kết quả nổi bật thực hiện chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) ở Việt Nam và trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- thao_luan_ve_mot_so_ket_qua_noi_bat_thuc_hien_chuong_trinh_m.pdf