Hoàn thiện các quy định của pháp luật về điều kiện, hồ sơ của người nhận con nuôi

THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN,  
HỒ SƠ CỦA NGƯỜI NHẬN CON NUÔI  
ThS. Nguyễn Thị Hải Yến*  
*ThS. Phong Quản lý khoa học và Hợp tac quốc tế, Trường Đại học Kiểm sat Hà Nội  
Tóm tắt:  
Thông tin bài viết:  
Nuôi con nuôi là vấn đề nhân đạo sâu sắc, thể hiện tình yêu thương, tinh  
thần trách nhiệm cao cả giữa con người với con người. Luật Nuôi con  
nuôi năm 2010 quy định khá cụ thể về điều kiện, hồ sơ của người nhận  
con nuôi. Tuy nhiên, một số quy định về điều kiện, hồ sơ của người nhận  
con nuôi còn hạn chế, bất cập. Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân  
tích một số hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật về điều  
kiện, hồ sơ của người nhận con nuôi, và đề xuất hướng hoàn thiện.  
Từ khóa: Luật Nuôi con nuôi  
năm 2010, nuôi con nuôi, điều  
kiện người nhận con nuôi  
Lịch sử bài viết:  
Nhận bài  
Biên tập  
Duyệt bài  
: 20/8/2021  
: 12/9/2021  
: 15/9/2021  
Abstract:  
Article Infomation:  
Adoption is a deeply humanitarian matter, showing love and great  
responsibility between people. The Law on Adoption of 2010 stipulates  
specific provisions on the conditions and dossiers of the adopters.  
However, a number of provisions on the conditions and dossiers of the  
adopters contain shortcomings and inadequacies. Within the scope of this  
article, the author gives out an analysis of a number of shortcomings and  
inadequacies in the legal provisions on conditions and dossiers of the  
adopters, and proposes recommendations for further improvements.  
Keywords: The Law onAdoption  
of 2010; child adoption; the  
conditions of the adopters.  
Article History:  
Received  
Edited  
: 20 Aug. 2021  
: 12 Sep. 2021  
: 15 Sep. 2021  
Approved  
1. Các quy định của pháp luật về điều  
kiện, hồ sơ của người nhận con nuôi  
Nuôi con nuôi là vấn đề nhân đạo sâu  
sắc, thể hiện tình yêu thương, tinh thần  
trách nhiệm cao cả và mối quan hệ tương  
thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau giữa con  
người với con người. Nhìn chung, nuôi  
con nuôi là một trong những quan hệ góp  
phần củng cố và thúc đẩy sự phát triển xã  
hội. Để tạo cơ sở cho sự phát triển lành  
mạnh của quan hệ nuôi con nuôi và bảo  
đảm quản lý nhà nước về nuôi con nuôi,  
ngày 17/6/2010, tại Kỳ họp thứ 7, Quốc  
hội khóa XII đã thông qua Luật Nuôi  
con nuôi có hiệu lực thi hành từ ngày  
01/01/2011 (Luật Nuôi con nuôi).  
Theo quy định của Điều 14 Luật Nuôi  
con nuôi năm 2010, người nhận con nuôi  
phải có đủ các điều kiện: i) Có năng lực  
hành vi dân sự đầy đủ; ii) Hơn con nuôi  
từ 20 tuổi trở lên; iii) Có điều kiện về sức  
khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm  
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; iv) Có  
tư cách đạo đức tốt. Trong trường hợp cha  
dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận  
con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô,  
cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con  
nuôi thì chỉ cần thỏa mãn đồng thời hai  
Số 18(442) - T9/2021  
51  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
điều kiện là “có năng lực hành vi dân sự  
đầy đủ” “có tư cách đạo đức tốt”.  
Bên cạnh những yêu cầu về điều kiện  
đối với người nhận con nuôi, Luật Nuôi  
con nuôi cũng quy định những trường  
hợp không được nhận con nuôi. Điều đó  
có nghĩa là, có những người tuy thỏa mãn  
điều kiện nuôi con nuôi nhưng nếu rơi vào  
những trường hợp loại trừ thì cũng không  
được nhận con nuôi. Cụ thể, những người  
không được nhận con nuôi bao gồm: a)  
Người đang bị hạn chế một số quyền của  
cha, mẹ đối với con chưa thành niên; b)  
Người đang chấp hành quyết định xử lý  
hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa  
bệnh; c) Người đang chấp hành hình phạt  
tù; d) Người chưa được xóa án tích về một  
trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng,  
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người  
khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha  
mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công  
nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc  
chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm  
pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt  
trẻ em.  
Theo quy định của Điều 17 Luật Nuôi  
con nuôi, để nhận nuôi con nuôi, người  
nhận con nuôi phải gửi hồ sơ đến cơ quan  
nhà nước có thẩm quyền, hồ sơ của người  
nhận con nuôi gồm có: i) Đơn xin nhận  
con nuôi; ii) Bản sao Hộ chiếu, Giấy  
chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ có giá  
trị thay thế; iii) Phiếu lý lịch tư pháp; iv)  
Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân;  
v) Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế  
cấp huyện trở lên cấp; văn bản xác nhận  
hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều  
kiện kinh tế do Ủy ban nhân dân cấp xã  
nơi người nhận con nuôi thường trú cấp.  
Trường hợp cha dượng nhận con riêng  
của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng  
làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác  
ruột nhận cháu làm con nuôi thì không cần  
Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp  
huyện trở lên cấp; văn bản xác nhận hoàn  
cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện  
kinh tế do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi  
người nhận con nuôi thường trú cấp.  
Thực tiễn thi hành Luật Nuôi con nuôi  
cho thấy, quy định của Luật về điều kiện,  
hồ sơ người nhận con nuôi còn một số bất  
cập sau đây :  
Thứ nhất, về điều kiện người nhận nuôi  
“có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở  
bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo  
dục con nuôi”  
Trên thực tế, đối với điều kiện về sức  
khỏe thì có thể căn cứ vào xác nhận của  
cơ quan y tế, đối với điều kiện về chỗ ở thì  
có thể căn cứ vào nơi đăng ký thường trú,  
tạm trú hoặc nơi sinh sống thực tế. Tuy  
nhiên, đối với nhiều kiện về kinh tế của  
người nhận nuôi thì không có tiêu chí cụ  
thể để đánh giá. Mặt khác, mặt bằng thu  
nhập cũng như mức sống mỗi địa phương  
có sự khác nhau giữa đồng bằng, trung du,  
miền núi, vùng cao, hải đảo; ví dụ, với  
mức thu nhập là 5 triệu đồng/tháng thì ở  
khu vực đô thị sẽ không đủ điều kiện để  
nhận con nuôi nhưng ở khu vực nông thôn  
với mức thu nhập này thì có thể đáp ứng  
được. Do đó, việc xác định điều kiện kinh  
tế của người nhận nuôi tại các địa phương  
chưa được thực hiện một cách thống nhất.  
Công tác kiểm tra việc giải quyết nuôi  
con nuôi của cơ quan quản lý nhà nước  
về nuôi con nuôi cho thấy, việc đánh giá  
điều kiện kinh tế của người nhận con nuôi  
có phần tùy tiện, chưa thống nhất giữa các  
địa phương do không có tiêu chí cụ thể để  
đánh giá; nhiều hồ sơ đăng ký nuôi con  
nuôi trong nước do Ủy ban nhân dân cấp  
52  
Số 18(442) - T9/2021  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
xã (UBND) giải quyết chỉ có bản tự khai  
về hoàn cảnh gia đình mà không có xác  
nhận của cơ quan có thẩm quyền hoặc có  
trường hợp người nhận con nuôi không có  
thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế không  
bằng người cho con nuôi nhưng vẫn được  
nhận con nuôi dẫn đến việc giải quyết  
nuôi con nuôi không đúng quy định của  
pháp luật1.  
danh dự của người khác; ngược đãi hoặc  
hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con,  
cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ  
dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa  
thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán,  
đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.  
Cách hiểu thứ ba cho rằng, “có tư  
cách đạo đức tốt” là một khái niệm rộng,  
người không thuộc trường hợp quy định  
tại khoản 2 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi  
năm 2010 chỉ là một trong những trường  
hợp được xem là “có tư cách đạo đức tốt”  
và người nhận con nuôi “có tư cách đạo  
đức tốt” phải được hiểu bao gồm cả những  
người không thuộc một trong các trường  
hợp có các hành vi bị nghiêm cấm theo  
quy định của Luật Nuôi con nuôi2.  
Thứ hai, về điều kiện người nhận nuôi  
“có tư cách đạo đức tốt”  
Hiện nay, Luật Nuôi con nuôi và các  
văn bản hướng dẫn thi hành không giải  
thích thế nào là “có tư cách đạo đức tốt”.  
Điều này dẫn đến các địa phương hiểu  
theo các cách khác nhau khi giải quyết  
thủ tục đăng ký nuôi con nuôi:  
Cách hiểu thứ nhất, người nhận con  
nuôi “có tư cách đạo đức tốt” là người  
được xác nhận “không có án tích” (thể  
hiện thông qua Phiếu lý lịch tư pháp và  
phiếu này là giấy tờ pháp lý xác nhận  
người nhận con nuôi “có tư cách đạo  
đức tốt”).  
Với cách hiểu khác nhau như trên đã  
dẫn đến thực trạng và mỗi địa phương vận  
dụng quy định của pháp luật theo cách  
riêng, không bảo đảm sự thống nhất trên  
phạm vi cả nước.  
Thứ ba, về các trường hợp không được  
nhận con nuôi  
Cách hiểu thứ hai, người nhận con nuôi  
“có tư cách đạo đức tốt” là người không  
thuộc trường hợp quy định tại khoản 2  
Điều 14 Luật Nuôi con nuôi, tức là những  
người không đang bị hạn chế một số quyền  
của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;  
không đang chấp hành quyết định xử lý  
hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa  
bệnh (nay là cơ sở cai nghiện); không  
đang chấp hành hình phạt tù; đã được  
xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm  
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,  
Luật Nuôi con nuôi quy định một trong  
những nguyên tắc giải quyết việc nuôi  
con nuôi là: “Việc nuôi con nuôi phải bảo  
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người  
được nhận làm con nuôi và người nhận  
con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không  
phân biệt nam nữ, không trái pháp luật  
và đạo đức xã hội”3. Đồng thời, điểm d  
khoản 2 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi chỉ  
giới hạn về các trường hợp không được  
nhận con nuôi đối với những người bị kết  
án và chưa được xóa án tích về các tội  
1 Nguyễn Thanh Hà (2020), “Một số bất cập qua kiểm tra công tác nuôi con nuôi trong nước”, Tạp chí Dân  
chủ và pháp luật, (số chuyên đề tháng 1).  
2 Nguyễn Thị Minh Phượng (2019), “Phiếu lý lịch tư pháp theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp và quy định  
của Luật Nuôi con nuôi về điều kiện, hồ sơ đối với người nhận con nuôi trong nước”, Tạp chí Nghề luật, (1).  
3 Khoản 2 Điều 4 Luật Nuôi con nuôi năm 2010.  
Số 18(442) - T9/2021  
53  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
phạm sau đây: cố ý xâm phạm tính mạng,  
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người  
khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha  
mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công  
nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc  
chứa chấp người chưa thành niên vi phạm  
pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt  
trẻ em. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy,  
ngoài các tội danh kể trên còn có một  
số tội phạm khác theo quy định của Bộ  
luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung  
năm 2017 (BLHS năm 2015) cũng có ảnh  
hưởng rất lớn tư cách đạo đức, tâm sinh lý  
của người nhận nuôi con nuôi như: Tội tổ  
chức tảo hôn (Điều 183); Tội tổ chức sử  
dụng trái phép chất ma túy (điểm c khoản 2,  
điểm d khoản 3 Điều 255); Tội vi phạm  
quy định về sử dụng người lao động dưới  
16 tuổi (Điều 296); Tội mua dâm người  
dưới 18 tuổi (Điều 329)4… Có thể thấy  
rằng, những người phạm một trong các tội  
trên đây đã có sự xâm phạm đến sức khỏe,  
danh dự, nhân phẩm, quyền lợi hợp pháp  
của trẻ em ở những mức độ nhất định. Do  
vậy, nếu để cho các trường hợp này nhận  
nuôi con nuôi sẽ dẫn đến hệ quả là không  
bảo đảm được lợi ích chính đáng của trẻ  
em được nhận nuôi.  
lịch tư pháp cấp có giá trị chứng minh cá  
nhân có hay không có án tích; bị cấm hay  
không bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành  
lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã  
trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã  
bị Tòa án tuyên bố phá sản5. Phiếu lý lịch  
tư pháp được chia làm hai loại là Phiếu  
lý lịch tư pháp số 1 và Phiếu lý lịch tư  
pháp số 2. Trong đó, Phiếu lý lịch tư pháp  
số 1 cấp cho công dân Việt Nam, người  
nước ngoài đã hoặc đang cư trú tại Việt  
Nam có quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch  
tư pháp của mình; cơ quan nhà nước, tổ  
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội  
có quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp  
để phục vụ công tác quản lý nhân sự, hoạt  
động đăng ký kinh doanh, thành lập, quản  
lý doanh nghiệp, hợp tác xã. Phiếu lý lịch  
tư pháp số 2 cấp cho Cơ quan tiến hành tố  
tụng có quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư  
pháp để phục vụ công tác điều tra, truy tố,  
xét xử và cấp theo yêu cầu của cá nhân để  
người đó biết được nội dung về lý lịch tư  
pháp của mình6.  
Theo quy định hiện hành, nội dung ghi  
trong Phiếu lý lịch tư pháp số 1 và Phiếu  
lý lịch tư pháp số 2 là khác nhau. Phiếu  
lý lịch tư pháp số 1 chỉ ghi những án tích  
chưa được xóa (những án tích đã được xóa  
không ghi), không ghi thông tin về cấm  
đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý  
doanh nghiệp, hợp tác xã nếu cá nhân, cơ  
quan, tổ chức không có yêu cầu. Phiếu lý  
lịch tư pháp số 2 ghi đầy đủ thông tin của  
cá nhân, bao gồm các thông tin về án tích  
(đối với người đã bị kết án thì ghi đầy đủ  
án tích đã được xóa, thời điểm được xóa  
Thứ tư, về thành phần hồ sơ của người  
nhận con nuôi  
Thực tế thi hành Luật Nuôi con nuôi  
cho thấy, trong hồ sơ của người nhận con  
nuôi, Phiếu lý lịch tư pháp của người nhận  
con nuôi là vấn đề phát sinh nhiều vướng  
mắc. Theo quy định của Luật Lý lịch tư  
pháp năm 2009, Phiếu lý lịch tư pháp là  
phiếu do cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý  
4 Nguyễn Thị Minh Phượng (2019), “Phiếu lý lịch tư pháp theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp và quy định  
của Luật Nuôi con nuôi về điều kiện, hồ sơ đối với người nhận con nuôi trong nước”, Tạp chí Nghề luật, (1).  
5 Khoản 4 Điều 2 Luật Lý lịch tư pháp năm 2009.  
6 Điều 41 Luật Lý lịch tư pháp năm 2009.  
54  
Số 18(442) - T9/2021  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
án tích, án tích chưa được xóa, ngày, tháng,  
năm tuyên án, số bản án, Toà án đã tuyên  
bản án, tội danh, điều khoản luật được áp  
dụng, hình phạt chính, hình phạt bổ sung,  
nghĩa vụ dân sự trong bản án hình sự, án  
phí, tình trạng thi hành án) và thông tin về  
việc cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập,  
quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã7.  
kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi  
dưỡng, giáo dục con nuôi” theo hướng,  
căn cứ vào vùng miền, mức thu nhập bình  
quân tại từng địa phương để quy định các  
điều kiện cụ thể về kinh tế của người nhận  
con nuôi nhằm để áp dụng thống nhất trên  
phạm vi cả nước, tránh sự tùy tiện trong  
việc xác định điều kiện của người nhận  
con nuôi như hiện nay.  
Luật Nuôi con nuôi chỉ quy định chung  
là người nhận con nuôi phải có Phiếu lý  
lịch tư pháp mà không quy định cụ thể là  
Phiếu lý lịch tư pháp số 1 hay Phiếu lý lịch  
tư pháp số 2. Trong khi đó, theo quy định  
của Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 thì cá  
nhân có quyền yêu cầu Sở Tư pháp cấp cả  
hai loại Phiếu lý lịch tư pháp. Tuy nhiên,  
căn cứ quy định của Luật Lý lịch tư pháp  
năm 2009, có thể hiểu trường hợp này là  
yêu cầu về Phiếu lý lịch tư pháp số 1. Mặc  
dù Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 quy  
định, Phiếu lý lịch tư pháp số 2 cấp theo  
yêu cầu của cá nhân để người đó biết được  
nội dung về lý lịch tư pháp của mình. Tuy  
nhiên, thực tiễn giải quyết thủ tục đăng ký  
nuôi con nuôi cho thấy, vẫn còn tình trạng  
UBND xã yêu cầu người nhận con nuôi  
cung cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2. Điều  
này gây ảnh hưởng đến quyền bí mật cá  
nhân của người nhận con nuôi.  
- Điểm d khoản 1 Điều 14 Luật Nuôi  
con nuôi: “Có tư cách đạo đức tốt” theo  
hướng, xác định người nhận con nuôi  
không thuộc các trường hợp bị nghiêm  
cấm nhận con nuôi theo quy định của  
Điều 13, khoản 2 Điều 14 Luật Nuôi con  
nuôi và bổ sung thêm một số tội danh liên  
quan đến xâm phạm trẻ em mà chưa được  
xóa án tích. Theo đó, cần tiến hành rà soát  
các tội phạm quy định trong Luật Nuôi con  
nuôi với quy định của BLHS năm 2015 để  
bổ sung một số tội danh chưa được quy  
định nhưng có tính chất xâm phạm đến  
quyền lợi hợp pháp của trẻ em, trong đó,  
đặc biệt lưu ý đối với các tội phạm có  
liên quan đến người chưa thành niên chưa  
được xóa án tích.  
Thứ hai, sửa đổi khoản 3 Điều 17 Luật  
Nuôi con nuôi theo hướng quy định rõ nội  
dung Phiếu lý lịch tư pháp nhằm xác nhận  
về tình trạng không có án tích của người  
nhận con nuôi. Theo đó, khoản 3 Điều 17  
được sửa đổi như sau “3. Phiếu lý lịch tư  
pháp xác nhận về tình trạng không có án  
tích của người nhận con nuôi”.  
2. Kiến nghị  
Để khắc phục những hạn chế, bất cập  
trong các quy định của pháp luật về điều  
kiện và hồ sơ người nhận con nuôi, tác giả  
đề xuất một số kiến nghị như sau:  
Thứ nhất, ban hành văn bản hướng dẫn  
xác định điều kiện người nhận con nuôi  
quy định tại:  
- Điểm c khoản 1 Điều 14 Luật Nuôi  
con nuôi: “Có điều kiện về sức khỏe,  
Thứ ba, đẩy mạnh thực hiện các biện  
pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật  
về nuôi con nuôi tại địa phương để nâng  
cao ý thức chấp hành pháp luật của  
người dân.  
7 Điều 43 Luật Lý lịch tư pháp năm 2009.  
Số 18(442) - T9/2021  
55  
pdf 5 trang Thùy Anh 18/05/2022 440
Bạn đang xem tài liệu "Hoàn thiện các quy định của pháp luật về điều kiện, hồ sơ của người nhận con nuôi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfhoan_thien_cac_quy_dinh_cua_phap_luat_ve_dieu_kien_ho_so_cua.pdf