Giáo trình môn Pháp luật
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt ra yêu cầu tăng cường giáo dục pháp
luật trong các trường dạy nghề thông qua các chương trình môn học, giáo trình, tài liệu giảng
dạy pháp luật, đảm bảo đúng tinh thần và nội dung Hiến pháp và pháp luật hiện hành.
Đổi mới việc dạy và học Pháp luật trong chương trình dạy nghề, góp phần thực hiện mục tiêu
giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên, nâng cao ý thức pháp luật, xây dựng tình cảm, niềm
tin, ý thức công dân của học sinh, sinh viên. Trên cơ sở đó giúp cho học sinh, sinh viên trong
các trường dạy nghề tạo lập thói quen ứng xử phù hợp và theo chuẩn mực pháp luật.
Thực hiện Quyết định 137/2009/QĐ-TTg ngày 2/12/2009 và Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày
12/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc đưa nội dung phòng, chống tham nhũng vào
chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nhằm xây dựng đạo đức xã hội, nâng cao nhận
thức, ý thức trách nhiệm cho cán bộ, công chức, sinh viên, học sinh về phòng, chống tham
nhũng, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Tiếp thu kiến nghị của các trường dạy nghề thuộc bộ, ngành cho Giáo trình Pháp luật (Dùng
cho hệ cao đẳng nghề, trung cấp nghề) - Nhà xuất bản Lao động - Xã hội năm 2011; Tổng cục
Dạy nghề đã tổ chức chỉnh sửa và bổ sung nội dung cho phù hợp với nhu cầu sử dụng của
giảng viên và học sinh, sinh viên các trường dạy nghề.
Giáo trình Pháp luật (Dùng cho hệ trung cấp nghề và cao đẳng nghề) gồm 9 bài với thời
lượng 30 tiết đối với hệ Cao đẳng nghề và 5 bài với thời lượng 15 tiết đối với hệ Trung cấp
nghề là tương đối phù hợp với đối tượng học sinh, sinh viên trong các trường nghề, đảm bảo
tính kế tiếp liên thông từ trung cấp nghề lên cao đẳng nghề. Các tác giả tham khảo và kế thừa
những ưu điểm nổi bật của các cuốn giáo trình đã xuất bản và cố gắng cập nhật những nội
dung mới trong các văn bản pháp luật vừa ban hành.
Tổng cục Dạy nghề xin trân trọng giới thiệu giáo trình Pháp luật với bạn đọc, hy vọng giáo
trình này giúp cho học sinh, sinh viên các trường trung cấp nghề, cao đẳng nghề hiểu biết và
nắm bắt được một cách có hệ thống những kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật nói
chung, về một số lĩnh vực pháp luật thiết yếu như: Lao động, Dạy nghề, Dân sự, Hình sự,
Hành chính, Hôn nhân gia đình, v.v.
Trong quá trình biên soạn giáo trình, mặc dù đã có nhiều cố gắng, song khó tránh khỏi những
thiếu sót cả về hình thức lẫn nội dung. Chúng tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp xây
dựng để bộ sách ngày càng hoàn thiện. Các ý kiến đóng góp xin gửi về Tổng cục Dạy nghề,
37B Nguyễn Bỉnh Khiêm - Hà Nội.
Xin chân thành cảm ơn!
TỔNG CỤC DẠY NGHỀ
BÀI 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1. Nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước
1.1. Nguồn gốc của nhà nước
Trong lịch sử phát triển của xã hội, đã có rất nhiều quan điểm và học thuyết khác nhau về
nguồn gốc ra đời của nhà nước. Nhưng do những nguyên nhân khác nhau mà các quan điểm và
học thuyết đó chưa thực sự giải thích đúng nguồn gốc của nhà nước.
Các nhà tư tưởng theo thuyết thần học cho rằng: Thượng đế là người sắp đặt trật tự xã hội, nhà
nước là do Thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung, do vậy, nhà nước là lực lượng siêu
nhiên, quyền lực nhà nước là vĩnh cửu và sự phục tùng quyền lực là cần thiết và tất yếu.
Thuyết gia trưởng cho rằng nhà nước ra đời là kết quả phát triển của gia đình và quyền gia
trưởng, là hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con người; vì vậy cũng như gia đình, nhà
nước tồn tại trong mọi xã hội, quyền lực nhà nước về bản chất cũng giống như quyền lực gia
trưởng của người đứng đầu gia đình (Aristote, Bodin, More...).
Thuyết bạo lực cho rằng nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo lực của thị tộc này
đối với một thị tộc khác, mà kết quả là thị tộc chiến thắng "nghĩ ra" một hệ thống cơ quan đặc
biệt. Nhà nước, để nô dịch kẻ chiến bại (đại biểu của thuyết này có Hume, Gumplowicz...)
Với quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lê nin đã chứng minh
một cách khoa học rằng nhà nước không phải là hiện tượng xã hội vĩnh cửu và bất biến. Nhà
nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định và chúng
luôn vận động, phát triển và sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát
triển của chúng không còn.
1.1.1. Xã hội cộng sản nguyên thủy và tổ chức thị tộc
Xã hội cộng sản nguyên thủy là xã hội chưa có giai cấp, chưa có nhà nước và pháp luật. Sự
phân chia giai cấp từ đó dẫn đến sự ra đời của nhà nước và pháp luật lại nảy sinh chính trong
quá trình phát triển và tan rã của xã hội đó.
Cơ sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên thủy được đặc trưng bằng chế độ sở hữu chung về tư
liệu sản xuất và sản phẩm lao động với trình độ hết sức thấp kém của lực lượng sản xuất. Công
cụ lao động thô sơ, con người chưa hiểu biết đúng đắn về thiên nhiên và về bản thân, năng suất
lao động rất thấp... Trong điều kiện đó, con người không thể sống riêng lẻ mà phải dựa vào
nhau để sống chung, lao động chung và thụ hưởng thành quả lao động chung. Không ai có tài
sản riêng, vì thế không có tình trạng người này chiếm đoạt tài sản của người kia, xã hội lúc này
chưa phân chia thành giai cấp và không có đấu tranh giai cấp.
Thị tộc là tế bào của xã hội cộng sản nguyên thủy, được hình thành trên cơ sở huyết thống.
Những điều kiện về kinh tế dẫn đến những điều kiện về xã hội, thể hiện mọi người trong thị tộc
đều tự do bình đẳng, không ai có đặc quyền đặc lợi đối với người khác trong thị tộc. Sự phân
công lao động là tự nhiên giữa đàn ông và đàn bà, giữa những người già và trẻ nhỏ để thực
hiện các loại công việc khác nhau chưa mang tính xã hội.
1.1.2. Quyền lực xã hội trong xã hội cộng sản nguyên thủy
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, quyền lực trong xã hội là quyền lực do toàn xã hội tổ
chức. Hệ thống quản lý còn rất đơn giản, lúc này quyền lực xã hội chưa tách khỏi xã hội mà
gắn liền với xã hội, hòa nhập với xã hội, phục vụ cho cả cộng đồng.
Quyền lực cao nhất trong thị tộc là Hội đồng thị tộc. Hội đồng thị tộc gồm những thành viên
lớn tuổi trong thị tộc. Hội đồng thị tộc có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của thị
tộc như tổ chức lao động sản xuất, tiến hành chiến tranh, tổ chức các nghi lễ tôn giáo, giải
quyết tranh chấp nội bộ... Các quyết định của hội đồng thị tộc thể hiện ý chí chung của tất cả
các thành viên và có tính bắt buộc chung. Mặc dù thị tộc chưa có bộ máy cưỡng chế đặc biệt
như cảnh sát, tòa án... nhưng quyền lực xã hội có hiệu lực rất cao và đã thể hiện tính cưỡng chế
mạnh mẽ.
Hội đồng thị tộc bầu ra những người đứng đầu thị tộc như tù trưởng, thủ lĩnh quân sự... để thực
hiện quyền lực và quản lý các công việc chung của thị tộc. Quyền lực của những người đứng
đầu thị tộc dựa trên cơ sở uy tín cá nhân, sự tín nhiệm, ủng hộ của các thành viên trong thị tộc.
Những người đứng đầu thị tộc không có một đặc quyền, đặc lợi nào, họ cùng lao động và
hưởng thụ như mọi thành viên khác và có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào nếu không được cộng
đồng ủng hộ.
Thị tộc là tổ chức tế bào cơ sở của xã hội cộng sản nguyên thủy, là một cộng đồng xã hội độc
lập. Nhưng cùng với sự phát triển của xã hội, do nhiều yếu tố tác động khác nhau, trong đó có
sự tác động của chế độ ngoại tộc hôn, các thị tộc đã mở rộng quan hệ với nhau, dẫn đến sự xuất
hiện các bào tộc và bộ lạc
Bào tộc là liên minh bao gồm nhiều thị tộc hợp lại, tổ chức quyền lực của bào tộc là hội đồng
bào tộc, là sự thể hiện tập trung quyền lực cao hơn thị tộc. Hội đồng bào tộc bao gồm các tù
trưởng, thủ lĩnh quân sự của các thị tộc, phần lớn công việc của bào tộc vẫn do hội nghị tất cả
các thành viên của bào tộc quyết định.
Bộ lạc bao gồm nhiều bào tộc, tổ chức quyền lực trong bộ lạc cũng dựa trên cơ sở những
nguyên tắc tương tự của tổ chức thị tộc và bào tộc nhưng đã thể hiện ở mức độ tập trung quyền
lực cao hơn. Tuy nhiên quyền lực vẫn mang tính xã hội, chưa mang tính giai cấp.
Như vậy, trong xã hội cộng sản nguyên thủy đã có quyền lực, nhưng đó là thứ quyền lực xã
hội, được tổ chức và thực hiện trên cơ sở những nguyên tắc dân chủ thực sự, phục vụ lợi ích
chung của cả cộng đồng.
1.1.3. Sự tan rã của tổ chức thị tộc và sự xuất hiện nhà nước
Lực lượng sản xuất phát triển không ngừng, công cụ lao động được cải tiến, con người ngày
càng nhận thức đúng đắn hơn về thế giới, đúc kết được nhiều kinh nghiệm trong lao động, đòi
hỏi từ sự phân công lao động tự nhiên phải được thay thế bằng phân công lao động xã hội.
Lịch sử đã trải qua ba lần phân công lao động xã hội, qua ba lần phân công lao động xã hội này
đã làm tan rã xã hội cộng sản nguyên thủy.
- Phân công lao động xã hội lần thứ nhất: chăn nuôi tách khỏi trồng trọt và làm xuất hiện chế
độ tư hữu.
Nhờ lao động, bản thân con người cũng phát triển và hoàn thiện. Hoạt động của con người
ngày càng phong phú, chủ động và tự giác hơn. Con người đã thuần dưỡng được động vật và
do đó đã làm xuất hiện một nghề mới - nghề thuần dưỡng và chăn nuôi động vật. Chăn nuôi
phát triển rất mạnh và dần dần trở thành một nghề độc lập tách ra khỏi ngành trồng trọt.
Phân công lao động xã hội lần thứ nhất đã tạo ra những biến đổi sâu sắc trong xã hội. Bên cạnh
ngành chăn nuôi, ngành trồng trọt cũng có những bước phát triển mới, năng suất lao động tăng
nhanh, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, do đó, đã xuất hiện những sản phẩm dư thừa. Đây
chính là mầm mống sinh ra chế độ tư hữu. Các tù trưởng, thủ lĩnh quân sự là những người có
khả năng chiếm đoạt những sản phẩm dư thừa đó. Gia súc là nguồn tài sản cơ bản để tích lũy
và trao đổi. Sự phát triển mạnh mẽ của nghề chăn nuôi và trồng trọt đặt ra nhu cầu về sức lao
động nên những tù binh trong chiến tranh được giữ lại làm nô lệ để bóc lột sức lao động.
Như vậy, sau lần phân công lao động xã hội thứ nhất, chế độ tư hữu đã xuất hiện, xã hội đã
phân chia thành người giàu, người nghèo. Mặt khác, chế độ tư hữu xuất hiện đã làm thay đổi
chế độ hôn nhân. Chế độ hôn nhân một vợ một chồng đã thay thế cho chế độ quần hôn. Đồng
thời với sự thay đổi đó, người chồng đã trở thành người chủ trong gia đình, gia đình cá thể đã
trở thành một lực lượng và đe dọa chế độ thị tộc
- Phân công lao động xã hội lần thứ hai: thủ công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp
Việc tìm ra kim loại, đặc biệt là sắt, và chế tạo ra các công cụ lao động bằng sắt đã tạo ra cho
con người khả năng có thể trồng trọt trên những diện tích rộng lớn. Nghề dệt, nghề chế tạo kim
loại, nghề thủ công khác dần dần được chuyên môn hóa làm cho sản phẩm phong phú hơn. Vì
vậy, dẫn đến sự phân công lao động lần thứ hai, thủ công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp. Xã
hội có nhiều ngành nghề phát triển nên càng cần sức lao động thì số lượng nô lệ làm việc ngày
càng tăng và trở thành một lực lượng xã hội. Sự phân công lao động lần thứ hai đã đẩy nhanh
quá trình phân hóa xã hội, làm cho sự phân biệt giữa kẻ giàu người nghèo, giữa chủ nô và nô lệ
ngày càng sâu sắc, mâu thuẫn giai cấp ngày càng tăng.
- Phân công lao động xã hội lân thứ ba: xuất hiện tầng lớp thương nhân và nghề thương mại
Nền sản xuất đã tách các ngành sản xuất riêng biệt với nhau, các nhu cầu trao đổi và sản xuất
hàng hóa ra đời, đồng thời thương nghiệp phát triển dẫn đến phân công lao động xã hội lần thứ
ba.
Sự phân công này đã làm nảy sinh giai cấp thương nhân, đẩy nhanh sự phân chia giai cấp, làm
cho sự tích tụ và tập trung của cải vào trong tay một số ít người giàu có, đồng thời thúc đẩy sự
bần cùng hóa của quần chúng và sự tăng nhanh của đám đông dân nghèo.
Như vậy, do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến xuất hiện những yếu tố mới làm đảo
lộn đời sống thị tộc, phá vỡ cuộc sống định cư của thị tộc. Tổ chức thị tộc dần dần không còn
phù hợp.
Về mặt xã hội, bên cạnh những nhu cầu và lợi ích mà thị tộc phải bảo vệ đã xuất hiện những
nhu cầu mới. Lợi ích mới đối lập với chế độ thị tộc về mọi phương diện của những tầng lớp
người khác nhau.
Với ba lần phân công lao động đã làm xuất hiện chế độ tư hữu dẫn đến xã hội đã phân chia
thành các giai cấp đối lập nhau luôn có mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt với nhau để bảo vệ lợi
ích của giai cấp mình. Xã hội mới này đòi hỏi phải có một tổ chức đủ sức dập tắt các cuộc
xung đột công khai giữa các giai cấp và giữ cho các cuộc xung đột giai cấp ấy trong vòng trật
tự có lợi cho những người có của và giữ địa vị thống trị. Tổ chức đó là Nhà nước.
Như vậy, nhà nước đã xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của một xã hội đã phát triển
đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã
hội mà là một lực lượng nảy sinh từ xã hội, một lực lượng tựa hồ đứng trên xã hội, có nhiệm
vụ làm dịu bớt sự xung đột, giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự.
1.2. Bản chất của nhà nước
Nhà nước được hiểu là bộ máy đặc biệt đảm bảo sự thống trị về kinh tế, để thực hiện quyền lực
về chính trị và thực hiện sự tác động về tư tưởng đối với quần chúng, ngoài ra nhà nước còn
phải giải quyết tất cả các vấn đề nảy sinh trong xã hội, nghĩa là phải thực hiện các chức năng
xã hội. Điều đó chứng tỏ rằng, nhà nước là một hiện tượng phức tạp và đa dạng, nó vừa mang
bản chất giai cấp vừa mang bản chất xã hội.
Nhà nước là một bộ máy bạo lực do giai cấp thống trị tổ chức ra để trấn áp các giai cấp khác.
Vì thế, nhà nước chính là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị. Giai cấp thống trị sử
dụng nhà nước để tổ chức và thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp mình.
Các kiểu nhà nước bóc lột có bản chất chung là sử dụng bộ máy để thực hiện nền chuyên chính
của giai cấp bóc lột. Các nhà nước này đều duy trì sự thống trị về chính trị, kinh tế, tư tưởng
của một thiểu số người bóc lột đối với đa số nhân dân lao động. Trái lại, nhà nước Xã hội chủ
nghĩa lại sử dụng bộ máy để bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chiếm
đa số trong xã hội, trấn áp những lực lượng thống trị cũ đã bị lật đổ và những phần tử chống
đối cách mạng. Quan trọng hơn, nó là bộ máy để tổ chức, xây dựng xã hội mới - xã hội chủ
nghĩa.
Tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của nhà nước. Tuy nhiên, với tư cách là bộ máy
thực thi quyền lực công cộng nhằm duy trì trật tự và sự ổn định của xã hội, nhà nước còn thể
hiện rõ nét tính xã hội của nó. Trong bất kỳ nhà nước nào, bên cạnh việc bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị, nhà nước cũng phải chú ý đến lợi ích chung của xã hội, giải quyết những vấn đề
mà đời sống xã hội đặt ra. Chẳng hạn: bảo đảm trật tự an toàn xã hội, xây dựng và thực hiện hệ
thống an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, chống thiên tai, dịch bệnh...
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ
cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện
mục đích bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong trong xã hội.
So với các tổ chức khác trong xã hội có giai cấp, nhà nước có một số đặc điểm riêng sau đây:
+ Nhà nước thiết lập một quyền lực công đặc biệt không hòa nhập với dân cư
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, quyền lực chưa tách khỏi xã hội mà gắn liền với xã hội,
hòa nhập với xã hội chưa có giai cấp nên chưa có nhà nước. Quyền lực đó do toàn xã hội tổ
chức ra, chưa mang tính giai cấp, phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng.
Khi xuất hiện nhà nước, quyền lực công cộng đặc biệt được thiết lập. Chủ thể của quyền lực
này là giai cấp thống trị. Để thực hiện quyền lực này, nhà nước hình thành một bộ máy cưỡng
chế để duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, bắt các giai cấp khác phải phục vụ
ý chí của giai cấp thống trị. Như vậy, quyền lực công cộng đặc biệt này đã tách khỏi xã hội,
mang tính giai cấp sâu sắc và chỉ phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị.
+ Nhà nước có lãnh thổ và phân chia dân cư theo lãnh thổ thành các đơn vị hành chính
Lãnh thổ, dân cư là trong các yếu tố cấu thành quốc gia. Mọi nhà nước đều có lãnh thổ riêng
của mình để cai trị hay quản lý và chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính (tỉnh, huyện, xã).
Việc phân chia này bảo đảm cho hoạt động quản lý của nhà nước tập trung, thống nhất. Người
dân có mối quan hệ với Nhà nước bằng chế định quốc tịch, chế định này xác lập sự phụ thuộc
của công dân vào một nhà nước nhất định và ngược lại nhà nước phải có những nghĩa vụ nhất
định đối với công dân của mình.
+ Nhà nước có chủ quyền quốc gia
Chủ quyền quốc gia là quyền tối cao của nhà nước về đối nội và độc lập về đối ngoại. Mọi cá
nhân, tổ chức sống trên lãnh thổ của nước sở tại đều phải tuân thủ pháp luật của nhà nước đó.
Nhà nước là người đại diện chính thức về mặt pháp lý cho toàn xã hội về đối nội và đối ngoại.
Chủ quyền quốc gia thể hiện quyền độc lập tự quyết của nhà nước về chính sách đối nội và đối
ngoại không phụ thuộc vào bất kỳ một quốc gia nào khác. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính
gắn với nhà nước.
+ Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật
Pháp luật do nhà nước ban hành có tính chất bắt buộc chung và được nhà nước bảo đảm thực
hiện với các biện pháp tổ chức, cưỡng chế, thuyết phục. Nhà nước là tổ chức duy nhất có
quyền ban hành pháp luật và áp dụng pháp luật để quản lý xã hội.
+ Nhà nước quy định và tiến hành thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc
Nhà nước xây dựng một chính sách thuế công bằng, hợp lý để bảo đảm cho sự phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, giải quyết các công việc chung của toàn xã hội.
Nhà nước nào cũng thu thuế để bảo đảm vận hành bộ máy nhà nước, các tổ chức khác không
có quyền thu thuế mà chỉ thu phí.
1.3. Chức năng của nhà nước
Chức năng của nhà nước được thể hiện thông qua những phương diện, những mặt hoạt động cơ
bản của nhà nước, phản ánh bản chất của nhà nước, được xác định tùy thuộc vào đặc điểm tình
hình trong nước và quốc tế, nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước trong từng
giai đoạn.
Chức năng của nhà nước do các cơ quan nhà nước bộ phận hợp thành bộ máy nhà nước thực
hiện. Căn cứ vào những phương diện hoạt động của nhà nước, các chức năng của nhà nước
được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại
- Chức năng đối nội là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ đất
nước như: bảo đảm trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống đối chế độ, bảo vệ và phát triển
chế độ kinh tế, văn hóa...
- Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các nhà nước, các dân
tộc, quốc gia khác như: thiết lập mối quan hệ với các quốc gia khác, phòng thủ đất nước, chống
sự xâm lược từ bên ngoài...
Các chức năng đối nội và đối ngoại có mối quan hệ mật thiết với nhau, nếu thực hiện tốt chức
năng đối nội thì sẽ tạo thuận lợi cho việc thực hiện tốt chức năng đối ngoại và ngược lại, thực
hiện thành công hay thất bại chức năng đối ngoại sẽ ảnh hưởng tốt hoặc cản trở việc thực hiện
chức năng đối nội.
2. Nguồn gốc, bản chất và vai trò của pháp luật
2.1. Nguồn gốc của pháp luật
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, lịch sử phát triển của xã hội loài người trải qua 5
hình thái kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, không phải bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào cũng có
pháp luật. Xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có nhà nước và vì vậy chưa có pháp luật. Việc
điều chỉnh các hành vi xử sự của con người trong xã hội chủ yếu bằng các quy phạm xã hội
gồm tập quán và các tín điều tôn giáo.
Các quy phạm xã hội này có đặc điểm cơ bản là: thể hiện ý chí phù hợp với lợi ích của toàn thị
tộc, bộ lạc; chúng đều điều chỉnh cách xử sự của những con người liên kết với nhau theo tinh
thần hợp tác cộng đồng; chúng được thực hiện một cách tự nguyện và theo thói quen của mỗi
thành viên trong thị tộc, bộ lạc. Các quy phạm xã hội trong xã hội cộng sản nguyên thủy điều
chỉnh được những quan hệ xã hội bởi lẽ chúng phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế - xã
hội của một xã hội chưa có tư hữu và giai cấp
Khi chế độ tư hữu ra đời, xã hội phân chia giai cấp thì các quy tắc tập quán thể hiện ý chí
chung của mọi người không còn phù hợp nữa. Trong điều kiện lịch sử mới này, tầng lớp có của
đã lợi dụng địa vị xã hội của mình tìm cách giữ lại những tập quán có lợi, vận dụng và biến đổi
nội dung các tập quán sao cho phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, nhằm bảo vệ mục đích
củng cố và bảo vệ trật tự xã hội mà chúng mong muốn. Bằng sự thừa nhận của nhà nước, các
tập quán đã trở thành các quy tắc xử sự chung, đó là quy phạm pháp luật.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của sự phân công lao động và người lao động
ngày càng tăng đã xuất hiện nhiều mối quan hệ phát sinh trong xã hội đòi hỏi nhà nước phải có
những quy phạm mới để điều chỉnh. Vì vậy, hoạt động xây dựng pháp luật đã được tiến hành
vào thời kỳ sớm nhất sau khi nhà nước ra đời. Hệ thống pháp luật được hình thành dần cùng
với sự phát triển của các nhà nước và hoạt động xây dựng pháp luật của các cơ quan trung
ương. Như vậy, pháp luật ra đời cùng với nhà nước, không tách rời nhà nước và đều là sản
phẩm của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo
thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ
xã hội.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa (XHCN) là hệ thống các quy tắc xử sự thể hiện ý chí của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng do nhà nước XHCN ban hành và
được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước trên cơ sở giáo dục, thuyết
phục mọi người tôn trọng thực hiện.
2.2. Bản chất của pháp luật
Học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật đã lý giải một cách khoa học về bản chất của
pháp luật và những mối quan hệ của nó với các hiện tượng khác trong xã hội có giai cấp.
Bản chất của pháp luật thể hiện ở chỗ nó luôn mang tính giai cấp chứ không có pháp luật tự
nhiên hay pháp luật không mang tính giai cấp. Biểu hiện đầu tiên là thông qua con đường nhà
nước, ý chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật. Sau đó cũng thông qua tổ chức quyền
lực đặc biệt này, pháp luật được đảm bảo thực hiện đối với tất cả mọi đối tượng
Mặt khác, tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội là
nhằm hướng các quan hệ xã hội phát triển theo một trật tự nhất định, phù hợp với ý chí của giai
cấp thống trị nhằm bảo vệ, củng cố địa vị của giai cấp thống trị.
Bên cạnh tính giai cấp, pháp luật còn mang tính xã hội. Pháp luật do nhà nước, đại diện chính
thức cho toàn xã hội ban hành. Vì vậy, ở chừng mực nào đó pháp luật còn thể hiện ý chí và lợi
ích của các giai cấp, các tầng lớp khác nhau trong xã hội.
Thực tiễn chỉ ra rằng các quy phạm pháp luật là kết quả của sự "chọn lọc tự nhiên" trong xã
hội. Trong cuộc sống hàng ngày các cá nhân và tổ chức xã hội có quan hệ với nhau rất đa dạng
và được thể hiện trong các hành vi xử sự khác nhau.
Xã hội, thông qua nhà nước, ghi nhận những cách xử sự "hợp lý", "khách quan", nghĩa là
những cách xử sự được số đông chấp nhận, phù hợp với lợi ích của số đông trong xã hội. Cách
xử sự này được nhà nước thể chế hóa thành những quy phạm pháp luật. Những quy phạm pháp
luật này là thước đo hành vi con người, là công cụ nhận thức và điều chỉnh các quan hệ xã hội,
hướng chúng vận động phát triển phù hợp với các quy luật phát triển khách quan của đời sống
xã hội.
2.3. Vai trò của pháp luật
Với bản chất và đặc điểm của mình, pháp luật có vai trò rất lớn trong đời sống xã hội, thể hiện
chủ yếu ở các mặt sau:
- Pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước
Pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, nhà nước đảm bảo cho pháp luật được áp
dụng và phát huy hiệu lực trong đời sống xã hội. Nhưng ngược lại, pháp luật là cơ sở cho sự
tồn tại của nhà nước, hay nói cách khác nó là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường vai trò
của nhà nước. Thông qua pháp luật, cơ cấu tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, chức
năng, thẩm quyền cũng như phương pháp tổ chức và hoạt động của mỗi cơ quan nhà nước
được xác định để tạo ra một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập và thực thi quyền lực của
nhà nước.
Mặt khác, pháp luật còn xác định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các công chức nhà
nước, tránh hiện tượng lạm quyền, bao biện, vô trách nhiệm của đội ngũ này khi thực thi công
quyền. Một hệ thống pháp luật hoàn thiện còn tạo ra cơ sở cho việc củng cố, hoàn thiện bộ máy
nhà nước, ngăn chặn tình trạng trùng lặp, chồng chéo và quản lý kém hiệu quả của nhà nước.
- Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội
Quản lý mọi mặt đời sống xã hội là chức năng của nhà nước, để thực hiện chức năng này nhà
nước có thể sử dụng nhiều biện pháp, phương tiện, nhưng pháp luật là phương tiện quan trọng
nhất. Pháp luật sẽ thể chế hóa các chính sách, đường lối của giai cấp thống trị và bảo đảm cho
đường lối, chính sách đó đi vào cuộc sống một cách nhanh nhất, đồng bộ và hiệu quả nhất, trên
quy mô rộng lớn nhất. Mặt khác, thông qua pháp luật, nhà nước kiểm tra, giám sát mọi hoạt
động của tất cả các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Đặc biệt trong quản lý kinh tế, pháp luật giữ vai trò rất quan trọng thông qua việc xác lập các
mối quan hệ cần thiết như hoạch định chính sách kinh tế, xác định chỉ tiêu kế hoạch, quy định
chế độ tài chính, tiền tệ, thuế...
Do vậy, một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện sẽ là đảm bảo cho nhà nước phát huy hiệu
lực quản lý của mình đối với mọi mặt đời sống xã hội.
- Pháp luật góp phần tạo dựng mối quan hệ mới
Không chỉ phản ánh thực tiễn, pháp luật còn có tính định hướng cho các mối quan hệ xã hội.
Pháp luật sẽ điều chỉnh kịp thời những tình huống (sự kiện) cụ thể, điển hình tồn tại và tái diễn
thường xuyên ở những thời điểm cụ thể trong xã hội, nhưng đồng thời nó còn điều chỉnh cả
những thay đổi mang tính quy luật của cuộc sống. Điều này phụ thuộc vào khả năng tiên liệu
trước của các nhà lập pháp, có như vậy pháp luật mới đảm bảo tính khoa học, tính ổn định
trước sự phát triển không ngừng của cuộc sống. Vai trò này cũng xuất phát từ bản chất giai cấp
của pháp luật nhằm đảm bảo điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với ý chí của
giai cấp thống trị, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội.
- Pháp luật tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập mối quan hệ bang giao giữa các quốc
gia.
Đối ngoại là một trong hai chức năng của nhà nước, chức năng này chỉ được bảo đảm khi mỗi
nhà nước (quốc gia) có sự ổn định về mọi mặt. Trước hết là sự ổn định về chính trị thể hiện
trong đường lối, chủ trương, chính sách của giai cấp, tầng lớp cầm quyền, từ đó tạo ra cơ sở
cho sự ổn định của pháp luật khi thể chế hóa các đường lối, chủ trương, chính sách này tạo lập
niềm tin tạo lập mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia. Trong đó phải kể đến những quy
định điều chỉnh quan hệ giữa các tổ chức, cá nhân trong nước và cả những mối quan hệ với các
tổ chức, cá nhân nước ngoài và giữa các nước với nhau.
Chính vì lẽ đó, pháp luật của mỗi quốc gia chỉ có thể hoàn thiện khi vừa phản ánh đúng thực
tiễn của quốc gia mình để tạo lập môi trường ổn định trong nước, vừa mang tính tương đồng
với pháp luật của các quốc gia khác, tạo cơ sở cho mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia
trên thế giới. Đặc biệt trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa, quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới
hiện nay, vai trò của pháp luật càng có ý nghĩa to lớn trong quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế
cũng như các lĩnh vực khác của một quốc gia.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Anh (chị) hãy phân tích nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước.
2. Anh (chị) hãy phân tích nguồn gốc, bản chất và vai trò của pháp luật.
BÀI 2
NHÀ NƯỚC VÀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.1. Bản chất, chức năng nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN)
1.1.1. Bản chất nhà nước CHXHCNVN
Nhà nước CHXHCNVN là kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa, là nhà nước kiểu mới có bản chất
khác hẳn với các nhà nước bóc lột. Cũng như mọi nhà nước đều là công cụ thống trị của một
giai cấp, nhà nước ta là công cụ thống trị của giai cấp công nhân, là sự thống trị của đa số nhân
dân lao động đối với thiểu số giai cấp bóc lột đã bị đánh đổ nhưng vẫn tìm trăm phương nghìn
kế để khôi phục địa vị thống trị của nó. Nó khác hẳn với sự thống trị của giai cấp bóc lột trong
nhà nước bóc lột, là sự thống trị của thiểu số đối với đa số nhân dân lao động để bảo vệ lợi ích
của chúng.
Sự thống trị của giai cấp công nhân là nhằm mục đích giải phóng giai cấp mình và tất cả mọi
người lao động.
Bản chất của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định tại điều 2 Hiến
pháp năm 2013: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức". Như vậy tính nhân
dân và quyền lực nhân dân là nét cơ bản xuyên suốt, thể hiện bản chất của nhà nước
CHXHCNVN
Những đặc trưng cơ bản của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
*Tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân mà nòng cốt là liên minh công nông và tầng lớp trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với tư cách là chủ thể cao nhất của quyền lực
nhà nước, nhân dân thực hiện quyền lực dưới những hình thức khác nhau, trong đó hình thức
cơ bản nhất là nhân dân thông qua bầu cử để lập ra các cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của mình.
* Nhà nước CHXHCNVN là một nhà nước dân chủ thực sự và rộng rãi
Bản chất dân chủ XHCN của nhà nước CHXHCNVN thể hiện một cách toàn diện trên mọi lĩnh
vực.
+ Trong lĩnh vực kinh tế: nhà nước thực hiện chủ trương tự do, bình đẳng về kinh tế, phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, cho phép mọi đơn vị kinh tế đều có thể hoạt động theo cơ
chế tự chủ trong sản xuất kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau và bình đẳng trước pháp
luật, coi trọng lợi ích kinh tế của người lao động, đồng thời kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá
nhân với lợi ích tập thể và lợi ích xã hội.
+ Trong lĩnh vực chính trị: xác lập và thực hiện cơ chế dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp,
tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội đóng góp ý kiến về
vấn đề đường lối, chính sách, các dự thảo văn bản pháp luật, đảm bảo cho dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra.
+ Trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và xã hội: nhà nước thực hiện chủ trương tự do tư tưởng và
giải phóng tinh thần, phát huy mọi khả năng của con người, quy định một cách toàn diện quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, học hành, lao động, nghỉ ngơi, tín ngưỡng... và đảm
bảo cho mọi người được hưởng quyền đó.
* Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam
Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc thể hiện dưới 4 hình thức cơ bản
sau đây:
+ Xây dựng một cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thiết lập và củng cố đại đoàn kết dân tộc
+ Toàn bộ hệ thống chính trị bao gồm các tổ chức Đảng, Công đoàn, Nhà nước, Mặt trận tổ
quốc... đều coi việc thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc, xây dựng Nhà nước Việt Nam thống
nhất là mục tiêu chung, là nguyên tắc hoạt động của tổ chức mình.
+ Nhà nước luôn ưu tiên dân tộc ít người, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện để các
dân tộc giúp đỡ nhau cùng tồn tại và phát triển trên cơ sở hợp tác đoàn kết vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
+ Chú ý hoàn cảnh của mỗi địa phương để xây dựng bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam, đầy
đủ tính phong phú mà vẫn nhất quán, thống nhất.
* Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Mọi hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội đều phải đặt trong khuôn khổ
pháp luật. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang xây dựng một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh đồng bộ nhằm điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội. Quyền lực nhà nước
là thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
* Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện tính xã hội rộng rãi
Nhà nước đã quan tâm giải quyết vấn đề của toàn xã hội như: xây dựng các công trình phúc lợi
xã hội, đầu tư cho việc phòng chống thiên tai, giải quyết các vấn đề bức xúc như chăm sóc sức
khỏe nhân dân, giải quyết việc làm, giúp đỡ người già cô đơn, trẻ mồ côi, phòng và chống các
tệ nạn xã hội...
* Nhà nước thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị
Chính sách và hoạt động đối ngoại của Nhà nước CHXHCN Việt Nam thể hiện khát vọng hòa
bình của nhân dân Việt Nam, thể hiện mong muốn hợp tác trên tinh thần hòa bình, hữu nghị và
cùng có lợi với tất cả các quốc gia, với phương châm Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước trên thế giới; thể hiện đường lối đối ngoại mở cửa của nhà nước Việt Nam.
1.1.2. Chức năng của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam
Chức năng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là những phương diện hoạt động cơ
bản của Nhà nước, phản ánh bản chất giai cấp, ý nghĩa xã hội, mục đích, nhiệm vụ của Nhà
nước trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Xác định căn cứ vào phạm vi hoạt động của nhà nước, các chức năng nhà nước được chia
thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
a. Chức năng đối nội
* Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế
Đây là chức năng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không chỉ
là tổ chức của quyền lực chính trị mà còn là chủ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, trực tiếp
tổ chức và quản lý nền kinh tế đất nước. Nội dung của hoạt động tổ chức và quản lý kinh tế của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất; tiến hành công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm... thiết lập
từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa... phát huy mạnh mẽ vai trò then chốt của khoa
học và công nghệ; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác đầu tư, kinh tế đối ngoại.
* Chức năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
Thực hiện chức năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội, nhà nước quan tâm xây dựng các lực lượng an ninh, các cơ quan bảo vệ pháp luật (công
an nhân dân, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân...) thực sự trở thành công cụ sắc bén,
tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân. Bên cạnh việc xây dựng
các lực lượng có nhiệm vụ trực tiếp bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phải huy
động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sức mạnh của toàn dân và các lực
lượng vũ trang trong cuộc đấu tranh này.
* Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ
Nhà nước xây dựng hệ thống các cơ quan tổ chức quản lý văn hóa, văn học - nghệ thuật, khoa
học, giáo dục thể thao, các phương tiện thông tin đại chúng; đào tạo đội ngũ cán bộ có phẩm
chất chính trị, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đồng thời xây dựng hệ thống cơ sở vật chất
tương xứng với yêu cầu thực tế của các lĩnh vực công tác đó. Hệ thống các trường học, cơ quan
nghiên cứu, nhà in, xuất bản, báo chí, truyền hình, truyền thanh, điện ảnh, sân khấu, bảo tàng,
thư viện dần được kiện toàn và đổi mới phương thức hoạt động nâng cao chất lượng phục vụ.
* Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
Đây là chức năng quan trọng liên quan trực tiếp đến việc thực hiện các chức năng khác của nhà
nước. Pháp luật là phương tiện quan trọng để nhà nước tổ chức thực hiện có hiệu quả tất cả các
chức năng của mình. Nhà nước không ngừng hoàn thiện công tác xây dựng pháp luật, tổ chức
thực hiện pháp luật, kiểm tra giám sát việc tuân thủ pháp luật của toàn xã hội; đồng thời tăng
cường củng cố các cơ quan bảo vệ pháp luật, bảo đảm xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi
vi phạm pháp luật. Đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ và nhân dân,
đẩy mạnh các hoạt động phòng ngừa vi phạm pháp luật.
* Chức năng thực hiện, bảo vệ và phát huy các quyền tự do, dân chủ của nhân dân
Nhà nước thể chế hóa quyền tự do, dân chủ của nhân dân trên các lĩnh vực đời sống xã hội, xây
dựng các thiết chế, công cụ có hiệu lực bảo đảm thực hiện các quyền tự do, dân chủ đó trên
thực tế. Trong hoạt động của mình, nhà nước có mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý
kiến của nhân dân và đấu tranh không khoan nhượng, trừng trị kịp thời mọi hành vi vi phạm
quyền tự do dân chủ của nhân dân.
b. Các chức năng đối ngoại
* Chức năng bảo vệ Tổ quốc
Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại; kết hợp kinh tế với
quốc phòng và an ninh; quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại. Xây dựng Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại... Đầu tư
thích đáng cho công nghiệp quốc phòng, trang thiết bị hiện đại cho quân đội, công an...
* Chức năng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động
tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương
Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích
quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới.
1.2. Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.2.1. Khái niệm bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước là tổ chức quyền lực, đại diện cho nhân dân thống nhất quản lý mọi mặt đời sống xã
hội. Để thực hiện được nhiệm vụ đó với phạm vi rộng lớn trên toàn lãnh thổ, đòi hỏi phải lập ra
hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Các cơ quan nhà nước này có cơ
cấu tổ chức và phương thức hoạt động phù hợp với tính chất của các chức năng, nhiệm vụ mà
nhà nước giao. Tuy có sự khác nhau về tên gọi, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động,
nhưng tất cả các cơ quan nhà nước đều có chung một mục đích là thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vậy có thể hiểu: Bộ máy nhà nước là tổng thể các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa
phương được tổ chức theo những nguyên tắc chung, thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ
để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
1.2.2. Các loại cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
+ Hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước: Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Cơ quan quyền lực nhà nước là cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra, nhân danh nhân dân để
thực hiện và thực thi một cách thống nhất quyền lực, phải chịu trách nhiệm và phải báo cáo
trước nhân dân về mọi hoạt động của mình. Tất cả các cơ quan khác của bộ máy nhà nước đều
do cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp thành lập ra và đều chịu sự giám sát
của các cơ quan quyền lực nhà nước. Cơ quan quyền lực nhà nước gồm Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và
lập pháp. Quốc hội có nhiệm vụ quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại,
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc
hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Thành phần của
Quốc hội gồm có: Chủ tịch Quốc hội, các Phó chủ tịch Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội
và các đại biểu Quốc hội
Nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm; Quốc hội hoạt động thông qua các kỳ họp; mỗi năm họp 2
kỳ do Ủy ban thường vụ Quốc hội triệu tập.
Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra, phải chịu trách nhiệm trước nhân dân
địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ quyết định các chủ
trương, biện pháp quan trọng để xây dựng và phát triển địa phương; giám sát việc thực hiện
Nghị quyết của Ủy ban nhân dân, việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân ở địa phương.
Nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân các cấp tương tự như nhiệm kỳ Quốc hội.
+ Chủ tịch nước: là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước về đối nội và đối ngoại. Chủ
tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội, phải báo cáo công tác trước Quốc
hội, nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
+ Hệ thống cơ quan quản lý còn gọi là cơ quan chấp hành, điều hành, hoặc cơ quan hành chính
nhà nước. Ở Việt Nam, hệ thống cơ quan quản lý gồm: Chính phủ, Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, sở, phòng, ban thuộc Ủy ban
nhân dân các cấp.
Chính phủ là cơ quan quản lý nhà nước cao nhất, có thẩm quyền chung.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phòng, an ninh...
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo
công tác trước Quốc hội.
Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác, ngoài
Thủ tướng Chính phủ, các thành viên khác không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội.
Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội, khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ
tiếp tục làm việc cho đến khi Quốc hội mới thành lập Chính phủ mới.
Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương, là cơ quan có thẩm quyền
chung, thực hiện sự quản lý thống nhất mọi mặt đời sống xã hội ở địa phương. Tổ chức của Ủy
ban nhân dân được phân theo 3 cấp: cấp tỉnh và thành phố trung ương, cấp huyện, quận, thị xã
và cấp xã, phường, thị trấn.
Ủy ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước cơ quan quản lý cấp trên và
Hội đồng nhân dân cùng cấp
Ủy ban nhân dân các cấp thành lập nên các sở, phòng, ban chuyên môn ở địa phương. Các cơ
quan này có nhiệm vụ thực hiện chức năng quản lý chuyên môn trong phạm vi lãnh thổ địa
phương và trực thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp và cơ quan quản lý chuyên ngành cấp trên.
+ Hệ thống cơ quan xét xử
Đây là cơ quan có tính đặc thù, chúng trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước, chịu trách
nhiệm báo cáo trước cơ quan quyền lực nhà nước, nhưng hoạt động độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật.
Hệ thống cơ quan xét xử ở Việt Nam gồm có:
- Hệ thống tòa án nhân dân bao gồm:
+ Tòa án nhân dân Tối cao;
+ Tòa án nhân dân ở địa phương
Tòa án nhân dân ở địa phương gồm có: Tòa án nhân dân cấp tỉnh và các cấp tương đương, Tòa
án nhân dân cấp huyện và các cấp tương đương
- Hệ thống Tòa án quân sự bao gồm:
+ Tòa án quân sự Trung ương;
+ Tòa án quân sự Quân khu; Tòa án quân sự Khu vực và Quân chủng
Nhiệm vụ, thẩm quyền, chức năng của tòa án nhân dân các cấp được quy định cụ thể trong luật
Tổ chức và hoạt động tòa án nhân dân.
Hệ thống cơ quan kiểm sát ở Việt Nam gồm có:
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Viện kiểm sát nhân dân địa phương gồm có: Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và các cấp
tương đương, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và các cấp tương đương
- Hệ thống Viện kiểm sát quân sự gồm có: Viện kiểm sát quân sự trung ương, Viện kiểm sát
quân sự quân khu và Viện kiểm sát quân sự khu vực và quân chủng
Chức năng của viện kiểm sát là thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tố tụng
nhằm đảm bảo cho hoạt động tố tụng đúng pháp luật.
1.3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa là những nguyên lý,
những tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, khách quan và khoa học, phù hợp với bản chất của nhà nước
xã hội chủ nghĩa, tạo thành cơ sở cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và toàn
thể bộ máy nhà nước.
Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam được thể
hiện cụ thể sau:
1.3.1. Nguyên tắc đảm bảo quyền lực nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước
Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, nhân dân trở thành chủ thể của quyền lực nhà nước, nhân dân tổ chức,
thực hiện và kiểm tra hoạt động bộ máy nhà nước.
Điều 28 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã
hội". Nhân dân lao động tham gia vào tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước bằng nhiều
hình thức phong phú như: bầu cử, ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước, tham gia thảo
luận, đóng góp ý kiến vào dự án luật, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và nhân
viên cơ quan nhà nước, tham gia hoạt động xét xử của tòa án...
1.3.2. Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Sự lãnh đạo của Đảng giữ vai trò quyết định đối với việc xác định phương hướng hoạt động
của nhà nước xã hội chủ nghĩa, là điều kiện quyết định để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.
Sự lãnh đạo của Đảng là sự lãnh đạo chính trị thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương,
phương hướng lớn; những vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy và thông qua nhà nước chúng
được thể chế hóa thành pháp luật. Đảng giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước thông
qua các Đảng viên và tổ chức Đảng trong các cơ quan đó; tuyên truyền, vận động quần chúng
trong các cơ quan nhà nước và thông qua vai trò tiền phong, gương mẫu của mỗi Đảng viên, tổ
chức Đảng trong các cơ quan nhà nước.
Đây là nguyên tắc đã được Điều 4 Hiến pháp 2013 khẳng định: "Đảng Cộng sản Việt Nam -
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
là lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội"
1.3.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện trên các mặt tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà
nước.
Cơ quan nhà nước ở trung ương quyết định những vấn đề cơ bản, quan trọng về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội... trên phạm vi toàn quốc.
Cơ quan nhà nước địa phương quyết định những vấn đề thuộc phạm vi địa phương mình một
cách độc lập, cơ quan nhà nước trung ương có quyền kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ
quan địa phương, thậm chí có thể đình chỉ, hủy bỏ quyết định của cơ quan cấp dưới, đồng thời
cũng tạo điều kiện cho các cơ quan địa phương phát huy quyền chủ động sáng tạo khi giải
quyết các công việc, nhiệm vụ của mình.
Các quyết định, chủ trương của cấp trên phải thông báo kịp thời cho cấp dưới, các hoạt động
của cấp dưới phải báo cáo kịp thời và đầy đủ cho cấp trên, nhằm đảm bảo sự kiểm tra của cấp
trên đối với cấp dưới khi thi hành nhiệm vụ.
1.3.4. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc này yêu cầu việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà
nước đều phải nghiêm chỉnh và triệt để tôn trọng pháp luật, tăng cường kiểm tra giám sát và xử
lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật. Điều 12 Hiến pháp 2013 đã quy định cụ thể: "Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa".
Đây là nguyên tắc có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước tuân theo ý chí của nhân dân, làm cho bộ máy nhà nước hoạt động đồng bộ,
nhịp nhàng, phát huy được hiệu lực quản lý nhà nước.
1.3.5. Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc
Nguyên tắc này được biểu hiện ở những điểm cơ bản về chính trị, về văn hóa giáo dục, kinh tế.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện chính sách đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm
cấm các hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Tất cả các dân tộc đều có quyền dùng tiếng nói, chữ
viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục tập quán, truyền thống văn hóa tốt
đẹp của dân tộc mình. Tất cả các dân tộc đều có quyền và nghĩa vụ tham gia vào việc tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước, có quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
2. Hệ thống pháp luật Việt Nam
Để điều chỉnh kịp thời các quan hệ xã hội phát sinh trong mọi lĩnh vực cuộc sống, bất kỳ nhà
nước nào cũng phải ban hành một số lượng rất lớn các văn bản, được biểu thị dưới hình thức
khác nhau. Các văn bản này không phải được sắp xếp một cách ngẫu nhiên, thiếu trật tự, mà
chúng được tồn tại một cách có hệ thống, trong đó các quy phạm pháp luật gắn bó hữu cơ và
tác động qua lại chặt chẽ với nhau.
Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với
nhau, được phân định thành chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn
bản pháp luật do nhà nước ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức nhất định
2.1. Các thành tố của hệ thống pháp luật
2.1.1. Quy phạm pháp luật
Trong hệ thống pháp luật của một nhà nước, quy phạm pháp luật là phần tử nhỏ nhất, tạo nên
hệ thống pháp luật. Mỗi quy phạm pháp luật điều chỉnh một loại quan hệ xã hội nhất định, sự
phong phú, đa dạng của các mối quan hệ xã hội đã tạo nên sự khác nhau giữa các quy phạm
pháp luật. Nhà nước muốn hướng các quan hệ xã hội theo một trật tự nhất định, phù hợp với ý
chí, nguyện vọng và lợi ích giai cấp mình. Ngoài việc thừa nhận và sử dụng các quy phạm xã
hội (như quy phạm đạo đức, phong tục tập quán, tín ngưỡng...) để duy trì trật tự xã hội, đòi hỏi
nhà nước phải ban hành và sử dụng các quy phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ xã hội.
Quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành và có phạm vi tác động trên toàn lãnh thổ, các cơ
quan nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, mọi công dân đều phải tuân thủ, không phân biệt
vị trí địa lý, trình độ văn hóa, dân tộc, địa vị xã hội... Do vậy, quy phạm pháp luật phải được
trình bày một cách cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu.
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận để điều chỉnh quan hệ xã hội theo những định hướng và nhằm đạt được những mục
đích nhất định.
Thông thường một quy phạm pháp luật đòi hỏi phải quy định đầy đủ những phần sau:
+ Ai (hoặc tổ chức nào)? Khi nào? Trong điều kiện hoàn cảnh nào?
+ Phải làm gì? Làm như thế nào?
+ Phải gánh chịu hậu quả như thế nào nếu không thực hiện đúng mệnh lệnh của Nhà nước.
Dựa vào những đòi hỏi trên, chúng ta có thể chia quy phạm pháp luật thành các bộ phận sau:
Giả định là phần mô tả những tình huống thực tế, những hoàn cảnh cụ thể chịu sự tác động
điều chỉnh của quy phạm pháp luật. Giả định thường nói về thời gian, địa điểm, các chủ thể và
các hoàn cảnh thực tế mà trong đó mệnh lệnh của quy phạm được thực hiện.
Chẳng hạn, Điều 95 Luật Khiếu nại, tố cáo 1998 quy định: "Cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thành tích trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, người tố cáo có công trong việc ngăn ngừa
thiệt hại cho nhà nước, tổ chức, cá nhân thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật".
Phần giả định của quy phạm này là: "Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo, người tố cáo có công trong việc ngăn ngừa thiệt hại cho nhà nước, tổ
chức, cá nhân".
Những điều kiện, hoàn cảnh chủ thể được nêu ở phần giả định phải rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu và
phải dự kiến tới mức tối đa những điều kiện hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống mà pháp
luật cần phải điều chỉnh. Có dự kiến được như vậy thì mới tránh được các "khe hở, lỗ hổng"
trong pháp luật
Quy định là phần trung tâm của quy phạm pháp luật nêu lên những cách xử sự mà các chủ thể
có thể hoặc buộc phải thực hiện gắn với những hoàn cảnh đã nêu ở phần giả định của quy
phạm pháp luật. Nói cách khác, khi xảy ra những hoàn cảnh, điều kiện đã nêu ở phần giả định
của quy phạm pháp luật thì nhà nước đưa ra những chỉ dẫn có tính chất mệnh lệnh (các cách xử
sự) để các chủ thể thực hiện.
Phần quy định của quy phạm pháp luật được coi là phần cốt lõi của quy phạm, nó thể hiện ý
chí và lợi ích của nhà nước, xã hội và cá nhân con người trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội
nhất định.
Phần quy định của quy phạm pháp luật thường được nêu ở dạng mệnh lệnh như: cấm, không
được, phải, thì, được... mức độ chính xác, chặt chẽ, rõ ràng của các mệnh lệnh, chỉ dẫn được
nêu trong phần quy định của quy phạm pháp luật là một trong những bảo đảm nguyên tắc pháp
chế trong hoạt động của các chủ thể pháp luật.
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình môn Pháp luật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
giao_trinh_mon_phap_luat.doc