Pháp luật về tình trạng khẩn cấp ở một số nước châu Âu và kinh nghiệm cho Việt Nam

KINH NGHIỆM QUỐC TẾ  
PHÁP LUẬT VỀ TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP Ở MỘT SỐ NƯỚC CHÂU ÂU  
VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM  
Vũ Công Giao*  
Nguyễn Anh Đức**  
* PGS.TS. Khoa Luât Đại học Quốc gia Hà Nội.  
**NCS. Khoa Luât Đại học Quốc gia Hà Nội.  
Thông tin bài viết:  
Tóm tắt:  
Tình trạng khẩn cấp là những tình huống bất thường và bất lợi có nguyên  
nhân từ con người hoặc tự nhiên, mà có thể xảy ra ở bất kỳ quốc gia nào,  
gây ra những hậu quả to lớn về chính trị, kinh tế, xã hội cho người dân  
và nhà nước. Để đối phó hiệu quả với tình trạng khẩn cấp, pháp luật cần  
có quy định đầy đủ và hợp lý, đặc biệt là về sự cân xứng giữa các biện  
pháp mà nhà nước có thể và cần phải thực hiện để khắc phục hậu quả của  
tình trạng khẩn cấp, với các quyền và tự do cơ bản của con người. Trong  
phạm vi bài viết này, các tác giả trình bày, phân tích các quy định về tình  
trạng khẩn cấp trong pháp luật ở một số nước châu Âu và đưa ra các gợi  
mở cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này.  
Từ khóa: Tình trạng khẩn cấp,  
pháp luật về tình trạng khẩn  
cấp, quyền con người, châu Âu,  
Việt Nam.  
Lịch sử bài viết:  
Nhận bài  
Biên tập  
Duyệt bài  
: 03/8/2021  
: 15/9/2021  
: 18/9/2021  
Article Infomation:  
Abstract:  
State of emergency is an abnormal and adverse situation which is man-  
made or natural disaster. State of emergency may occur in any country,  
causing serious political, economic, and social consequences for the  
people and the state. To effectively deal with the state of emergencies,  
the law needs to have adequate and reasonable provisions, especially on  
the balance between the measures that the state can and should take to  
overcome the consequences of the emergency, with basic human rights  
and fundamental freedoms. This paper analyzes the legal regulations on  
the state of emergency of some European countries, and on that basis,  
suggests some reference values for the improvement of regulations on  
the state of emergency in Vietnamese law.  
Keywords: State of emergency,  
law on the state of emergency,  
human rights, Europe, Vietnam  
Article History:  
Received  
Edited  
: 03 Aug. 2021  
: 15 Sep. 2021  
: 18 Sep. 2021  
Approved  
1. Lịch sử và các nội dung của pháp luật  
về tình trạng khẩn cấp ở một số nước  
châu Âu  
mức độ (hoàn cảnh) khẩn cấp khác nhau.  
Chẳng hạn, Hiến pháp Bồ Đào Nha phân  
biệt giữa “tình trạng bị bao vây” và “tình  
trạng khẩn cấp” mà khái niệm thứ hai được  
xem là ít nghiêm trọng hơn. Hiến pháp Ba  
Lan lại phân biệt theo các mối đe dọa từ  
Trong Hiến pháp các quốc gia, thuật ngữ  
“tình trạng khẩn cấp” được sử dụng dưới  
nhiều dạng thức nhằm phân biệt giữa các  
56  
Số 18(442) - T9/2021  
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ  
quốc gia bên ngoài (tình trạng thiết quân  
luật), từ bất ổn nội địa (tình trạng khẩn cấp)  
hoặc từ tự nhiên (tình trạng thiên tai)1.  
- Vương quốc Anh  
đe dọa gây thiệt hại tới đời sống bình yên  
của con người (human welfare) hay tới môi  
trường ở từng khu vực hay trên toàn quốc,  
hay chiến tranh hoặc chủ nghĩa khủng bố là  
mối đe dọa lớn tới đất nước5. Thiệt hại cho  
đời sống bình yên con người hay cho môi  
trường được định nghĩa chi tiết bao gồm sự  
mất mát thực tế và tiềm tàng về sinh mạng,  
ốm đau hay thương tật, vô gia cư, thiệt hại  
về tài sản, sự gián đoạn trong cung ứng  
các hàng hóa cơ bản hay dịch vụ sức khỏe,  
sự gián đoạn trong hệ thống thông tin hay  
giao thông, hoặc trong trường hợp về môi  
trường, ô nhiễm đất đai, nguồn nước hay  
không khí với các chất sinh học, hóa học  
hoặc phóng xạ hay sự phá vỡ hay phá hủy  
đời sống động thực vật. Đây là định nghĩa  
rất rộng về tình trạng khẩn cấp6.  
Tình trạng khẩn cấp được Nữ hoàng  
tuyên bố theo đề nghị của Chính phủ. Trong  
trường hợp quy trình như vậy không thể  
được tuân theo, Thủ tướng hay bất kỳ bộ  
trưởng có thể quyết định về các quy định  
khẩn cấp7. Quyết định này phải được Nghị  
viện Anh phê chuẩn sau 7 ngày; trường hợp  
Nghị viện thông qua, Quyết định về tình  
trạng khẩn cấp sẽ hết hiệu lực8.  
Ở nước Anh vào cuối thế kỷ 19, giữa  
lúc bạo loạn, Chính phủ đã phải ban hành  
một sắc lệnh đặc biệt: Peace Preservation  
Acts (Sắc lệnh Duy trì Hoà bình), sau đó  
được Quốc hội Anh biểu quyết thành luật  
vào năm 1920, với tên gọi được thay đổi  
thành Luật Quyền lực trong tình trạng  
khẩn cấp (Emergency Power Acts)2 có hiệu  
lực đến năm 2004. Văn bản luật này cho  
phép Chính phủ tuyên bố tình trạng khẩn  
cấp trong trường hợp xảy ra đình công trên  
diện rộng hay bạo loạn làm tê liệt các hoạt  
động xã hội thông thường hoặc gây rối  
loạn an ninh. Bên cạnh đó, văn bản luật  
này cũng cho phép Chính phủ sử dụng tất  
cả các biện pháp cần thiết để vãn hồi trật  
tự công cộng3.  
Hiện nay, Luật Dự phòng dân sự năm  
2004 (Civil Contingencies Act of 2004)4  
đã thay thế các văn bản luật khẩn cấp ra  
đời trước đó. Luật Dự phòng dân sự năm  
2004 định nghĩa tình trạng khẩn cấp rất rõ  
ràng, bao gồm các sự kiện hay tình huống  
1
Elliot Bulmer, Emergency Powers: International IDEA Constitution - Building Primer 18, International  
IDEA, p.17.  
2
ukpga_19200055_en.pdf.  
3 Bùi Đức Mãn, Lịch sử nước Anh, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, năm 2002, tr.140.  
4 Civil Contingencies Act 2004, http://www.opsi.gov.uk/acts/acts2004/20040036.htm. Relevant in this context  
is mainly Part 2 of that Act, entitled “Emergency Powers”, theo Anna Khakee (2009), p.27.  
5
Anna Khakee (2009), Securing Democracy? A Comparative Analysis of Emergency Powers in Europe,  
Geneva Centre for the Democratic Control of Armed Forces, Policy Paper – №30, p.27.  
6
Các nhà phân tích chỉ trích “Triple Lock”, nhưng nhấn mạnh rằng nó không rõ ràng sinh ra từ đạo luật,  
và rằng 3 điều kiện đều không cần phải được quyết định một cách khách quan. Walker, Clive and James  
Broderick (2006). The Civil Contingencies Act 2004 Risk, Resilience and the Law in the United Kingdom  
Oxford University Press. pp.154, 158 and 160, theo Anna Khakee (2009), p.27.  
7 Điều 20, Civil Contingencies Act 2004.  
8 Điều 27(1), Civil Contingencies Act 2004.  
Số 18(442) - T9/2021  
57  
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ  
- Thụy Sĩ 9  
tình huống khủng hoảng nghiêm trọng như  
chiến tranh hay thảm họa tự nhiên trên diện  
rộng, điều khiến các cơ quan cao nhất, đặc  
biệt là Quốc hội không thể hoạt động bình  
thường13. Theo học thuyết này, Quốc hội,  
nếu có thể được triệu tập, sẽ quyết định về  
tình trạng khẩn cấp và về việc chuyển giao  
quyền lực cho Chính phủ liên bang. Nếu  
Quốc hội không thể được triệu tập, Chính  
phủ liên bang có thể tự tuyên bố tình trạng  
khẩn cấp và ban hành các quyết định cần  
thiết, kể cả các quyết định trái Hiến pháp  
(unconstitutional)14. Tuy nhiên, quyết định  
của Chính phủ liên bang về tình trạng khẩn  
cấp bị giới hạn về thời gian, thời hạn thông  
thường là 01 năm15.  
Hiến pháp Thụy Sĩ không định nghĩa về  
tình trạng khẩn cấp mà sử dụng các thuật  
ngữ như: “các mối đe dọa nghiêm trọng tới  
an ninh trong nước”, “tình trạng ngoại lệ”,  
“tình trạng khẩn cấp”, “thảm họa” và “sự  
can thiệp đe dọa nghiêm trọng tới trật tự  
công cộng, an ninh bên trong và bên ngoài”.  
Trước đây, các văn bản luật của Thụy Sĩ có  
quy định về tình trạng khẩn cấp, nhưng vào  
năm 2003, Quốc hội Thụy Sĩ đã bãi bỏ quy  
định có liên quan trong 23 văn bản luật,  
với lý do là chúng đã cũ và mất mục đích  
(purposeless – sans objet),10 việc đưa ra một  
quy định mới về tình trạng khẩn cấp trên cơ  
sở Hiến pháp sẽ là “tốn công sức, vô nghĩa  
và hàm chứa rủi ro”,11 một quy định như  
vậy có nguy cơ làm chậm quá trình ra quyết  
định trong các tình huống mà cần phải đưa  
ra các biện pháp một cách nhanh chóng và  
có mối quan ngại rằng, các quy tắc thành  
văn liên quan tới tình trạng khẩn cấp sẽ  
khiến chính quyền ít e dè hơn trong việc sử  
dụng chúng trong các tình huống ngoại lệ12.  
Như vậy, Thụy Sĩ đã vận dụng học thuyết  
về sự cần thiết (droit de nécessité). Học  
thuyết này có thể được áp dụng trong các  
- Cộng hòa Liên bang Đức16  
Điều 48 Hiến pháp Weimar 1919 trao cho  
Tổng thống Đức thẩm quyền rộng lớn trong  
việc ban hành tình trạng khẩn cấp, trong đó  
có quyền ban hành quy định hạn chế hay  
đình chỉ một số quyền cơ bản của con người  
và sử dụng các lực lượng vũ trang. Trong  
những năm trước và trong Chiến tranh thế  
giới thứ II, Điều 48 Hiến pháp Weimar đã  
được viện dẫn tới 250 lần,17 và trong năm  
1933, Hitler đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp  
9 Anna Khakee (2009), p.19.  
10 “Une nouvelle réglementation du droit de nécessité ne s’impose pas” Communiqués, Federal Department of  
160.html, theo Anna Khakee (2009), p.19.  
11 Anna Khakee (2009), p.19.  
12 Anna Khakee (2009), p.19.  
13  
Bellanger, Franꢀois (2001). “Droit de nécessité et état d’exception” in Daniel Thꢁrer, Jean F. Aubert  
Jꢂrg P. Mꢁller och Oliver Diggelmann (Eds.), Verfassungsrecht der Schweiz, pp.1268-9; “Une nouvelle  
réglementation...” opt cit, theo Anna Khakee (2009), p.19.  
14 Venice Commission opt cit “Concept of public emergency”, Bellanger, Franꢀois opt cit p.1269, theo Anna  
Khakee (2009), p.19.  
15 Hiến pháp Thụy Sĩ, các điều 140 (1)(c), 141(1)(b), 165, và 185.  
16 Anna Khakee (2009), pp.20-21.  
17 Scheppele, Kim opt cit., p. 1008, theo Anna Khakee (2009), p.20.  
58  
Số 18(442) - T9/2021  
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ  
kéo dài tới hết cuộc chiến vào năm 194518.  
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhà  
nước Đức rất cẩn trọng trong việc đưa  
ra bất kỳ quy định Hiến pháp nào về tình  
trạng khẩn cấp.  
Hạ viện và Thượng viện Đức, sự thay thế  
2 viện bởi Ủy ban Hỗn hợp để đảm bảo sự  
giám sát tối thiểu của nghị viện trong những  
thời điểm khủng hoảng nghiêm trọng khi  
không thể triệu tập cả 2 viện, sự duy trì hoạt  
động của Tòa án Công lý liên bang như là  
tòa cao nhất cho kháng cáo, v.v..  
Các tu chính án (amendments) với Luật  
cơ bản của Đức (Hiến pháp Đức) đều rất chi  
tiết. Chúng kết hợp các nội dung của biện  
pháp khẩn cấp mà ít hiến pháp của nước  
khác đề cập tới, ví dụ như các nhiệm vụ  
nhất định có thể chuyển giao cho lực lượng  
vũ trang trong thời gian áp dụng tình trạng  
khẩn cấp, việc chuyển giao quyền lập pháp  
nhất định và các quyền kiểm soát lực lượng  
cảnh sát từ cấp bang tới cơ quan liên bang,  
các quy tắc liên quan tới tài chính trong tình  
trạng khẩn cấp, việc ban hành tuyên bố tình  
trạng phòng vệ...  
Trong bối cảnh châu Âu, tính chất độc  
đáo của nước Đức thể hiện ở chỗ, quy định  
hiến pháp vô cùng chi tiết, khiến các đạo  
luật bổ sung của Liên bang hầu như không  
còn cần thiết19. Những quy định này cũng  
cho phép tạo một cơ chế bảo vệ từ xa, nhằm  
đảm bảo sự liên tục của hệ thống dân chủ,  
với vai trò cốt yếu của nghị viện trong  
việc tuyên bố và chấm dứt tình trạng khẩn  
cấp, các quyền hiến định liên quan tới các  
hoạt động tiếp theo của Tòa án hiến pháp,  
18  
- Na Uy20  
Hiến pháp Na Uy, tương tự như của Thụy  
Sĩ, đề cập rất ít tới tình trạng khẩn cấp. Tuy  
nhiên, ngược lại với Thụy Sĩ, Na Uy có  
một Đạo luật Dự phòng (Beredskapsloven)  
chứa các quy định về quyền ra quyết định  
và phân chia quyền lực trong tình huống  
khủng hoảng nghiêm trọng như chiến  
tranh hay có sự đe dọa chiến tranh21. Đạo  
luật Dự phòng quy định rằng, nếu Nghị  
viện (Storting) không thể hoạt động bình  
thường do chiến tranh, Nhà Vua (thực tế là  
Chính phủ) được trao quyền đưa ra tất cả  
các quyết định mà được xem là cần thiết để  
bảo vệ lợi ích quốc gia. Nghị viện sẽ được  
thông báo về các quyết định đó sớm nhất  
có thể, và ngay lập tức sau phiên họp tiếp  
theo của nghị viện, các quyết định đó sẽ tự  
động bị hủy bỏ. Trong thời chiến hay khi  
đất nước đối diện với chiến tranh cận kề  
hay mối nguy hại tới an ninh, chủ quyền  
quốc gia, Nhà Vua có quyền ban hành các  
Schweiger, Gaꢃlle (2005). “Die Notstandsverfassung” Studienarbeit GRIN Verlag fꢁr akademische Texte,  
Dokument Nr. V56999, Chapter. 1; Benda, Ernst “Notstandsverfassung” Bundeszentrale fꢁr politische  
Jakab, András (2006). “Luật hiếp pháp Đức và học thuyết về tình trạng khẩn cấp - German Constitutional Law  
and Doctrine on State of Emergency – Paradigms and Dilemmas of a Traditional (Continental) Discourse”  
German Law Journal Nr. 5, 1 May, theo Anna Khakee (2009), p.20.  
19 Do đó, chỉ có 1 loạt các luật công nghệ về cung cấp năng lượng và điện, giao thông đường không, đường  
sắt và đường biển, dịch vụ bưu chính v.v.. (Notstandsgesetze, http://www.rechtliches.de/Gesetze_17.html)  
cũng như các quy định về hoạt động của nghị viện và Ủy ban Hỗn hợp trong thời gian biện pháp khẩn  
cấp. (Geschꢄftsordnung fꢁr das Verfahren nach Artikel 115 d des Grundgesetzes, Geschꢄftsordnung fꢁr den  
Gemeinsamen Ausschuss), theo Anna Khakee (2009), p.21.  
20 Anna Khakee (2009), pp.21-22.  
lovdata.no/all/hl-19501215-007.html, theo Anna Khakee (2009), p.21.  
Số 18(442) - T9/2021  
59  
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ  
quy định mang tính bắt buộc để đảm bảo  
an ninh quốc gia, trật tự và sự thịnh vượng  
của cộng đồng, các nhu yếu phẩm, và việc  
phòng vệ quân sự và dân sự. Những quy  
định như vậy có thể trái với các đạo luật  
hiện hành, nhưng Nghị viện cần được thông  
báo về chúng sớm nhất có thể và sẽ ngay lập  
tức được triệu tập. Nghị viện có thể hủy bỏ  
các quy định như vậy, nhưng nếu họ chọn  
cách không hủy bỏ thì các quy định đó cần  
được chuyển thành đạo luật theo trình tự lập  
pháp của nghị viện. Đạo luật đó cũng chứa  
các quy định cụ thể áp dụng cho các khu  
vực mà Nhà nước mất khả năng kiểm soát  
do chiến tranh hay do những khủng hoảng  
nghiêm trọng khác. Luật hình sự cũng có  
thể thay đổi trong những tình huống chiến  
tranh, có sự đe dọa chiến tranh, hay khi an  
ninh và chủ quyển quốc gia bị đe dọa. Tuy  
nhiên, đạo luật không đề cập tới các quyền  
và tự do nào được bảo đảm trong các tình  
trạng như vậy, hay liệu nó có bao gồm các  
điều khoản cụ thể với mục đích bảo vệ sự  
sống còn của trật tự hiến pháp hay không.  
Mặc dù Đạo luật Dự phòng trao cho  
Chính phủ quyền lực to lớn trong thời  
gian khủng hoảng, Na Uy vẫn sử dụng học  
thuyết về sự cần thiết. Theo học thuyết này,  
“tình trạng khẩn cấp hợp pháp hóa hành vi  
mà trong các trường hợp thông thường sẽ là  
vi phạm hiến pháp”22. Học thuyết về sự cần  
thiết chỉ có thể được dùng trong tình trạng  
khẩn cấp nghiêm trọng, khi mà các lợi ích  
cốt lõi của quốc gia sẽ bị xâm hại nếu chỉ  
gắn chặt với các biện pháp thông thường.  
Nói chung, ở đây ngụ ý rằng quyền lực của  
Chính phủ có thể được mở rộng, trong khi  
quyền lực của nghị viện bị giảm sút hoặc  
thậm chí là bị triệt tiêu, và những quy tắc  
thông thường cho việc ra quyết định của  
Chính phủ là không cần thiết phải tuân theo.  
Các vi phạm hiến pháp và vi phạm Đạo luật  
Dự phòng là được phép23. Do đó, có thể  
thấy cơ chế của Na Uy về biện pháp khẩn  
cấp là sự lai ghép 2 mặt: một mặt, hệ thống  
quy định hợp pháp, dành cho Nghị viện vai  
trò quan trọng trong giám sát hành động  
của Chính phủ trong tình trạng khẩn cấp; và  
mặt khác, trong bối cảnh khủng hoảng cực  
kỳ nghiêm trọng, học thuyết về sự cần thiết  
cho phép tập trung gần như toàn bộ quyền  
lực nhà nước vào tay Chính phủ.  
- Cộng hoà Pháp24  
Ngược lại với Na Uy và Thụy Sĩ, Pháp  
không sử dụng học thuyết về sự cần thiết,  
nhưng những quyền lực đặc biệt của Tổng  
thống (presidential pouvoirs exceptionnels)  
lại rất rộng và ít được quy định cụ thể, cho  
nên trên thực tế, chúng tương tự như học  
thuyết về sự cần thiết. Điểm khác biệt quan  
trọng là những quyền lực to lớn này của  
Tổng thống không nằm ngoài Hiến pháp,  
mà được quy định bởi Điều 16 Hiến pháp  
Cộng hoà Pháp năm 195825.  
Theo Hiến pháp Cộng hoà Pháp năm  
1958, Tổng thống, sau khi hỏi ý kiến chính  
thức của Thủ tướng, Chủ tịch hai Viện và  
Hội đồng Hiến pháp, có thể áp dụng các biện  
pháp đối phó với tình trạng khẩn cấp mà đe  
dọa nghiêm trọng, trực tiếp hay làm đình trệ  
22. Andenæs, Johs. och Arne Fliflet (2006). Statsforfatningen i Norge, 10. utg. Oslo: Universitetsforlaget, p.  
502, bản dịch của Anna Khakee, theo Anna Khakee (2009), p.22.  
23 Andenæs och Fliflet, opt cit., pp.503-6, theo Anna Khakee (2009), p.22.  
24 Anna Khakee (2009), pp.22-24.  
25 Để có cái nhìn toàn diện về cách thức xếp loại cơ chế của Pháp về quyền lực khẩn cấp, xem Saint-Bonnet, Franꢀois  
(2001). L’Etat d’exception Paris: Presses Universitaires de France, pp. 5-28, theo Anna Khakee (2009), p.22.  
60  
Số 18(442) - T9/2021  
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ  
những định chế của chính thể Cộng hòa,  
nền độc lập của quốc gia, sự toàn vẹn lãnh  
thổ hay việc thi hành các hiệp ước quốc  
tế và sự điều hành của các cơ quan công  
quyền do Hiến pháp quy định”. Tổng thống  
có nghĩa vụ tuyên bố tình trạng khẩn cấp  
và thông báo với quốc dân các biện pháp sẽ  
được áp dụng bởi các chủ thể công quyền  
để đối phó với tình trạng khẩn cấp26.  
và trong các trường hợp mà thẩm quyền  
quân sự suy yếu; và tăng thêm quyền kiểm  
soát, ví dụ như quyền được khám xét nơi  
ở của người dân bất kể ngày hay đêm. Tất  
cả các quyền khác vẫn được trao cho các  
cơ quan dân sự, và các quyền hiến định  
và quyền tự do khác của con người vẫn có  
hiệu lực.  
Luật về tình trạng khẩn cấp quy định  
rằng tình trạng khẩn cấp có thể được tuyên  
bố bởi Chính phủ cho toàn bộ hay một phần  
của lãnh thổ quốc gia (bao gồm những bộ  
phận không thuộc chính quốc) trong trường  
hợp nguy hiểm trực tiếp do các vụ tấn công  
nghiêm trọng vào trật tự xã hội hay trong  
tình huống thiên tai. Tình trạng khẩn cấp  
có nhiều điểm giống với tình trạng phong  
tỏa (trên phương diện tuyên bố, kéo dài,  
và những hạn chế trong những quyền tự  
do nhất định); điểm khác biệt là trong tình  
trạng khẩn cấp thì không có quyền hạn nào  
được tự động chuyển giao cho các cơ quan  
quân sự29.  
Tình trạng phong tỏa và tình trạng khẩn  
cấp trao cho Chính phủ (hay các cơ quan  
quân sự trong tình trạng phong tỏa) quyền  
hạn quan trọng, nhưng quyền đó cũng bị  
giới hạn. Ngược lại, quyền hạn đặc biệt  
(pouvoirs exceptionnels), được quy định  
tại đoạn 16 Hiến pháp Pháp, về cơ bản trao  
cho Tổng thống đặc quyền (carte blanche)  
về lập pháp và hành pháp30. Nếu có mối đe  
dọa nghiêm trọng và trực tiếp tới các thể  
Pháp luật của Pháp quy định 3 cấp độ  
của tình trạng khẩn cấp. Ngoài quyền  
lực đặc biệt, còn có tình trạng phong tỏa  
(a state of siege) được quy định trong  
đoạn 36 Hiến pháp và Luật Quốc phòng  
(Defence Law),27 và tình trạng khẩn cấp  
(state of emergency), quy định trong Loi  
instituant un état d’urgence of 1955 (đạo  
luật này có trước Hiến pháp)28. Tình trạng  
phong tỏa được tuyên bố khi có mối đe  
dọa trực tiếp do chiến tranh từ bên ngoài (a  
foreign war - guerre étrangère) hay do cuộc  
nổi dậy vũ trang. Quyết định được đưa ra  
bởi Chính phủ, nhưng bất kỳ sự kéo dài  
nào trên 12 ngày cũng phải được cho phép  
bởi Nghị viện. Tác động chủ yếu của tình  
trạng phong tỏa là để chuyển giao một số  
quyền lực nhất định từ các cơ quan dân sự  
tới các thể chế quân sự. Những quyền này  
bao gồm: thẩm quyền về cảnh sát và trách  
nhiệm bảo đảm trật tự công cộng (bao gồm  
các quyết định về hạn chế quyền tự do hội  
họp và áp dụng quyền kiểm duyệt báo chí);  
các quyền tư pháp trong các vụ án hình sự  
26 Tuyển tập Hiến pháp các nước trên thế giới, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010.  
27 Code de la défense, parti 2, livre I titre II http://www.defense.gouv.fr/defense/content/download/86693/  
779255/file/ code_defense_legislatif_2007.pdf, theo Anna Khakee (2009), p.22.  
28  
loidu3avril1955EtatDUrgence.pdf, theo Anna Khakee (2009), p.23.  
29 Thénault, Sylvie (2007). ”Létat d’urgence (1955-2005): de l’Algérie coloniale à la France contemporaine”  
Mouvement social P 8° 1233 n°218, pp.63-78, theo Anna Khakee (2009), p.23.  
30 Ackerman opt cit., pp.1038-9; footnote 19, theo Anna Khakee (2009), p.24.  
Số 18(442) - T9/2021  
61  
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ  
chế của nước Pháp, tới sự độc lập, toàn vẹn  
lãnh thổ hoặc việc thực hiện các cam kết  
quốc tế của Pháp, và các cơ quan chính phủ  
theo Hiến pháp không thể hoạt động bình  
thường, Tổng thống có thể quyết định sử  
dụng quyền hạn đặc biệt. Nhưng trước khi  
đưa ra quyết định trên, Tổng thống phải  
tham vấn Thủ tướng Chính phủ cũng như  
Chủ tịch của 2 Viện, và Tòa án Hiến pháp.  
Tóm lại, cơ chế của Pháp kết hợp 2 mô  
hình rất khác biệt về quyền hạn khẩn cấp:  
một mặt, những tình trạng khẩn cấp và tình  
trạng phong tỏa được quy định tương đối tốt  
xét về sự kiểm tra và cân bằng quyền lực,  
và về việc đảm bảo các quyền con người, và  
mặt khác, trong những khủng hoảng nghiêm  
trọng, cho phép Tổng thống có những quyền  
hạn đặc biệt và rất lớn mà không được quy  
định cụ thể nhưng không có bất kỳ cơ chế  
đối lập thực sự nào để cân bằng.  
và sự thiếu hụt trong việc cung ứng các nhu  
yếu phẩm; (ii) Tình trạng khẩn cấp được  
tuyên bố khi hệ thống chính trị hoặc trật tự  
công cộng bị phá vỡ nghiêm trọng, và (iii)  
Tình trạng phong tỏa trong tình huống thực  
hay nguy cơ có bạo loạn hay các hành vi vũ  
trang trực tiếp chống lại chủ quyền, độc lập,  
toàn vẹn và trật tự hiến pháp của quốc gia.  
Trong các tình huống nêu trên, tình trạng  
khẩn cấp tác động tới những quyền và tự  
do cá nhân ở mức độ rộng hơn. Đạo luật cơ  
bản quy định cụ thể mức độ mà các quyền  
và tự do có thể bị hạn chế trong tình trạng  
khẩn cấp, trong đó bao gồm khả năng và  
điều kiện được khám xét nhà ở; kiểm duyệt  
báo chí; và việc hạn chế quyền tự do hội  
họp, v.v..  
Tóm lại, cơ chế pháp lý về tình trạng  
khẩn cấp của Tây Ban Nha được quy định  
tương đối chặt chẽ, tập trung vào việc bảo  
đảm các quyền con người và duy trì vai trò  
của Nghị viện thậm chí trong thời gian áp  
dụng biện pháp khẩn cấp. Song hệ thống  
của Tây Ban Nha không chặt chẽ như hệ  
thống của Đức khi xét tới cơ chế bảo vệ các  
thể chế dân sự.  
- Tây Ban Nha  
Hiến pháp Tây Ban Nha có những quy  
định tương đối chi tiết về việc tuyên bố và  
kéo dài 3 loại biện pháp khẩn cấp đó là: tình  
trạng báo động, tình trạng khẩn cấp, và tình  
trạng phong tỏa (estado de alarma, estado  
de excepción và estado de sitio). Nhưng  
khác với Đức, quy định của Hiến pháp Tây  
Ban Nha không toàn diện, và 3 tình huống  
khẩn cấp được quy định cụ thể hơn trong  
một đạo luật cơ bản là Ley Orgánica năm  
1981. Đạo luật này giải thích chi tiết các  
trường hợp mà theo đó thiết lập nên 3 dạng  
biện pháp khẩn cấp khác nhau đó là: (i)  
Tình trạng báo động được tuyên bố ở một  
phần hay toàn quốc trong các tình huống  
thiên tai hoặc tai nạn như động đất, lũ lụt  
hay hỏa hoạn trên diện rộng; bệnh dịch; sự  
gián đoạn trong các dịch vụ công thiết yếu;  
- Phần Lan31  
Phần Lan giống Anh ở các điểm chung  
cơ bản đó là: Cả hai nước đưa ra rất ít hoặc  
không có quy tắc hiến định nào về tình trạng  
khẩn cấp. Nước Anh với lý do đơn giản là  
vì không có một bản Hiến pháp thành văn,  
nhưng Phần Lan thì có Hiến pháp nhưng  
cũng không có quy định về tình trạng khẩn  
cấp. Thay vào đó, Phần Lan có những đạo  
luật với những nội dung chi tiết về các biện  
pháp khẩn cấp.  
Hai đạo luật của Phần Lan gần đây là  
đạo luật Dự phòng (Contingency Law)  
31 Anna Khakee (2009), pp.26-27.  
62  
Số 18(442) - T9/2021  
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ  
và đạo luật về tình trạng phòng vệ (Law  
on the State of Defence),32 đưa ra các quy  
định rất chi tiết để áp dụng trong các tình  
huống khẩn cấp. Hai đạo luật quy định hai  
hình thức và hai cấp độ của biện pháp khẩn  
cấp. Thứ nhất là “các tình trạng ngoại lệ”  
(exceptional circumstances), và thứ hai  
là tình trạng phòng vệ. Điều này có nghĩa  
là trong tình trạng phòng vệ, đạo luật Dự  
phòng (điều chỉnh các tình trạng ngoại lệ)  
cũng sẽ được áp dụng, trừ khi đạo luật về  
tình trạng phòng vệ có quy định khác. “Các  
tình trạng ngoại lệ” được giải thích khá chi  
tiết. Chúng bao gồm chiến tranh và tình  
trạng sau xung đột, nguy cơ chiến tranh (nội  
chiến hay mang tính quốc tế), mối đe dọa  
nghiêm trọng tới đời sống và nền kinh tế  
quốc gia, các tai nạn nghiêm trọng… Tình  
trạng phòng vệ có thể được đưa ra trong  
trường hợp bạo động hoặc chiến tranh trực  
tiếp xảy ra tại Phần Lan.  
Xét tổng quát, các quy định của pháp  
luật về tình trạng khẩn cấp của Phần Lan  
rất chi tiết, kết hợp những danh mục dài các  
biện pháp cụ thể mà Chính phủ có thể áp  
dụng và những điều khoản liên quan tới các  
quyền con người không thể bị hạn chế trong  
trong tình trạng khẩn cấp.  
2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam  
Từ việc nghiên cứu các quy định của  
pháp luật về tình trạng khẩn cấp ở một số  
quốc gia châu Âu nêu trên, có thể rút ra một  
số giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện  
pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.  
Điều này là hợp lý để có thể nhanh chóng  
hóa giải những nguy cơ đe dọa đến sự tồn  
vong của quốc gia. Tuy nhiên, nó cũng tạo  
ra rủi ro lớn về sự lạm quyền của nhánh  
hành pháp. Vì vậy, trong việc hoàn thiện  
pháp luật về tình trạng khẩn cấp, cần chú  
trọng xây dựng, củng cố cơ chế giám sát,  
kiềm chế quyền lực của nhánh hành pháp.  
Ngay cả ở những quốc gia cho phép nhánh  
hành pháp thực hiện những biện pháp vượt  
khỏi khuôn khổ thông thường của Hiến  
pháp trong tình trạng khẩn cấp, các luật  
hoặc quyết sách đặc biệt đó vẫn phải chịu  
giới hạn bởi những nguyên tắc chung về  
hạn chế quyền con người hoặc hạn định  
về thời gian đã được Hiến pháp xác quyết.  
Một số biện pháp có thể được cân nhắc  
như sau:  
Thứ nhất, để phòng ngừa, ngăn chặn sự  
lạm quyền của nhánh hành pháp trong bối  
cảnh khẩn cấp, cần xác lập các quy tắc hiến  
định và luật định rõ ràng về thẩm quyền,  
điều kiện, nội dung, phạm vi… của việc  
tuyên bố và thực thi các biện pháp ứng phó  
tình trạng khẩn cấp. Đặc biệt, cần quy định  
rõ các nguyên tắc hạn chế quyền con người  
trong tình trạng khẩn cấp, cùng với các  
quyền có thể bị hạn chế, các quyền không  
thể bị hạn chế, cũng như cách thức hạn chế  
quyền con người. Cũng cần lưu ý là những  
hạn chế về quyền con người không được đi  
ngược với bản chất pháp lý của quyền ấy  
và không được gây ảnh hưởng đến việc thụ  
hưởng các quyền và tự do khác mà không bị  
hạn chế bởi tình trạng khẩn cấp.  
Về cơ bản, có thể khẳng định rằng, trong  
tình trạng khẩn cấp, nhánh hành pháp của  
Nhà nước thường được ưu tiên trao quyền  
hành động so với các nhánh quyền lực khác.  
32  
Thứ hai, cần xác lập các cơ chế (thiết  
chế và thể chế) ngăn chặn và xử lý hành  
động lạm quyền vi phạm nhân quyền trong  
Số 18(442) - T9/2021  
63  
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ  
hợp đều cần gắn với vai trò của Quốc hội.  
Nếu không thể triệu tập họp Quốc hội để  
bàn về việc tuyên bố áp dụng biện pháp  
khẩn cấp thì có thể xây dựng một cơ chế  
dự phòng với sự tham gia của nhiều cơ  
quan (ví dụ như Ủy ban thường vụ Quốc  
hội, Chính phủ, Chủ tịch nước, ..). Cơ chế  
này sẽ thích hợp hơn việc cho phép cơ quan  
hành pháp mặc nhiên đưa ra quyết định của  
riêng mình.  
- Cần quy định phải có sự cho phép của  
Quốc hội mới có thể kéo dài thời hạn của  
biện pháp khẩn cấp. Điều này giúp Quốc  
hội có khả năng thường xuyên và công khai  
cân nhắc tính cần thiết của việc duy trì tình  
trạng khẩn cấp. Bên cạnh đó, cũng cần quy  
định về một quy trình lập pháp nhanh hơn  
trong tình trạng khẩn cấp, nhằm phòng ngừa  
việc viện dẫn tình trạng khẩn cấp để bỏ qua  
quyền ra quyết định của Quốc hội;  
- Cần có quy định bắt buộc triệu tập  
Quốc hội ngay sau khi tuyên bố tình trạng  
khẩn cấp, và kéo dài nhiệm kỳ Quốc hội cho  
tới khi tình trạng khẩn cấp kết thúc. Thêm  
vào đó, cần có cơ chế đảm bảo việc thực thi  
Hiến pháp và các luật, kể cả trong tình trạng  
khẩn cấp, bằng cách cấm việc sửa đổi hay  
vô hiệu hoá những văn bản này ngay trước,  
trong hoặc ngay sau tình trạng khẩn cấp.  
- Cần thiết lập và duy trì hoạt động của  
thiết chế bảo hiến (nếu được xây dựng) và  
các tòa án theo các quy tắc thông thường  
kể cả trong tình trạng khẩn cấp. Bên cạnh  
đó, cần xây dựng một cơ chế mạnh mẽ để  
bảo vệ quyền con người cả trong tình trạng  
khẩn cấp theo hướng các quyết định của  
hành pháp mang tính cá biệt đều có thể bị  
tình trạng khẩn cấp. Trong vấn đề này, cơ  
chế bảo hiến có vai trò đặc biệt quan trọng  
trong việc xử lý những vi phạm đã xảy ra.  
Trong khi đó, cơ chế phân quyền và kiểm  
soát lẫn nhau giữa các cơ quan lập pháp,  
hành pháp và tư pháp có ý nghĩa ngăn chặn  
những hành động mà có thể xảy ra trong  
thực tế. Tất cả các cơ chế này đều cần được  
vận dụng để nâng cao hiệu quả bảo đảm  
quyền con người trong tình trạng khẩn cấp.  
Ngay cả với những trường hợp trao quyền  
tuyệt đối cho nhánh hành pháp trong tình  
trạng khẩn cấp (như Thụy Sĩ), quyền lực đó  
vẫn bị kiểm soát bởi các nguyên tắc hiến  
định về thời hạn và trưng cầu dân ý. Hơn  
nữa, bản thân việc nhánh lập pháp có thể  
trao quyền tuyệt đối cho nhánh hành pháp  
cũng phải được hiến định.  
Thứ ba, cần củng cố các thiết chế và  
thể chế dân chủ trong xã hội (các tổ chức  
xã hội, tổ chức phi chính phủ, các cơ quan  
báo chí, các diễn đàn công dân…) để hỗ trợ  
Nhà nước trong việc thực hiện quyền lực,  
và giám sát sự lạm quyền trong bối cảnh  
khẩn cấp. Bên cạnh đó, cũng cần tận dụng  
các cơ chế quốc tế và khu vực để ngăn chặn  
và xử lý những vi phạm nhân quyền trong  
tình trạng khẩn cấp, khi mà đã vận dụng hết  
những cơ chế trong nước để giải quyết vấn  
đề mà không đạt hiệu quả.  
Trong quá trình xây dựng cả ba biện pháp  
nêu trên, để hạn chế sự lạm dụng quyền lực,  
bảo vệ hiệu quả nền dân chủ trong những  
tình huống khẩn cấp, cần chú ý đến các khía  
cạnh cụ thể như:  
- Xây dựng một hệ thống quy định chặt  
chẽ cho việc tuyên bố, kéo dài và chấm  
dứt biện pháp khẩn cấp, trong từng trường  
khởi kiện ra trước tòa án.  
64  
Số 18(442) - T9/2021  
pdf 9 trang Thùy Anh 18/05/2022 540
Bạn đang xem tài liệu "Pháp luật về tình trạng khẩn cấp ở một số nước châu Âu và kinh nghiệm cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfphap_luat_ve_tinh_trang_khan_cap_o_mot_so_nuoc_chau_au_va_ki.pdf