Đánh giá hiệu quả kinh tế, môi trường, và xã hội của một số mô hình canh tác trên đất sau dồn điền đổi thửa hướng tới cải thiện sinh kế nông dân tại huyện Hải Hậu, Nam Định

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ, MÔI TRƯỜNG, VÀ XÃ HỘI  
CỦA MỘT SỐ MÔ HÌNH CANH TÁC TRÊN ĐẤT SAU DỒN ĐIỀN  
ĐỔI THỬA HƯỚNG TỚI CẢI THIỆN SINH KẾ NÔNG DÂN  
TẠI HUYỆN HẢI HẬU, NAM ĐỊNH  
Nguyễn Hữu Dũng  
Bộ môn Kinh tế Tài nguyên. Đại học Kinh tế Quốc dân  
Email: dungfuv@yahoo.com. Điện thoại: 0961151148  
Nguyễn Hải yến  
Sinh viên K57 Bộ môn Kinh tế Nông nghiệp, Đại học Kinh tế Quốc dân  
Email: yen.tiny6@gmail.com. Điện thoại: 0364906456  
Tóm tắt  
Đất nông nghiệp rất quan trọng cho phát triển sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam.  
Gần đây Nhà nước có chính sách dồn điển đổi thửa nhằm tăng hiệu quả sản xuất nông  
nghiệp, nâng cao sinh kế cho người nông dân. Bài viết này đánh giá hiệu quả kinh tế, xã  
hội, và môi trường của một số mô hình canh tác trên đất sau dồn điền đổi thửa hướng tới  
cải thiện sinh kế nông dân tại Huyện Hải Hậu. Kết quả cho thấy, sau dồn điền đổi thửa  
tại Hải Hậu có 3 loại hình canh tác sử dụng đất (LHCT) phổ biến được người dân sử  
dụng là LHCT 2 lúa, LHCT 2 lúa màu, LHCT 2 màu – lúa. Hiện tại, các hộ dân sử dụng  
LHCT 2 lúa chiếm tỷ lệ lớn (66,67% tổng số hộ điều tra) còn lại là hộ dân trồng lúa và  
màu. Xét về mặt xã hội, LHCT 2 lúa – màu có mức đầu tư lao động bình quân lớn nhất  
(836,21 công) bởi có kết hợp giữa lúa với một số cây màu. LHCT 2 lúa có giá trị GO/LĐ  
(mức đầu tư trên lao động) và VA/LĐ (thu nhập bình quân trên ngày công lao động) thấp  
nhất (tương ứng 163,69 nghìn đồng, 81,98 nghìn đồng). Xét về mặt kinh tế, LHCT 2 lúa –  
màu có giá trị sản xuất (GO) và giá trị tăng (VA) có cao nhất (tương ứng188,77 triệu đồng/  
ha và 102,25 triệu đồng/ ha), LHCT 2 lúa có giá trị sản xuất (GO) và giá trị gia tăng (VA)  
nhỏ nhất (tương ứng 86,38 triệu đồng/ha, và 43,26 triệu đồng/ha). Đồng thời, LHCT 2 màu  
– lúa đạt HQĐV (tỷ suất giá trị gia tăng theo chi phí trung gian) cao nhất là 1,18 lần, tiếp  
đến là LHCT 2 Lúa – màu có HQĐV đạt 1,05 lần, và thấp nhất là loại hình 2 lúa với  
HQĐV 1,00 lần. Rõ ràng, nông nghiệp của huyện Hải Hậu nên tập trung vào phát triển  
mở rộng diện tích cây hoa màu và chỉ duy trì một diện tích ít cây lúa nhằm đảm bảo an  
ninh lương thực để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Tuy nhiên, xét theo hiệu quả môi trường  
thì LHCT 2 màu – lúa lại đòi hỏi lượng phân bón lớn nhất trong khi LHCT 2 lúa đòi hỏi ít  
hơn. Do đó, để sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững sau dồn điền đổi thửa, Hải Hậu  
có thể lựa chọn mô hình LHCT 2 màu - lúa đem lại hiệu quả kinh tế và xã hội cao nhưng  
phải chú trọng vốn đầu tư và quan tâm công tác giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi  
trường để đảm bảo sinh kế cho nông dân bền vững.  
Từ khóa: Dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất, sinh kế nông dân, mô hình canh tác  
411  
1. Đặt vấn đề  
Đất nông nghiệp vừa là tư liệu sản xuất, vừa là nguồn lực không thể thay thế quan  
trọng cho phát triển sản xuất của Việt Nam. Tuy nhiên, gần đây việc sử dụng đất tại nhiều  
nơi gặp một số bất cấp như chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất phi  
nông nghiệp làm cho diện tích đất nông nghiệp bị giảm nhanh, khai thác tiềm năng đất  
nông nghiệp không hợp lý làm cho đất bạc màu dẫn đến năng suất nông sản kém về sản  
lượng và chất lượng. Hiện nay Việt Nam có diện tích đất nông nghiệp là 9.598,8 nghìn  
ha, chiếm 28,99% so với diện tích đất tự nhiên của cả nước. Trong thời gian qua Việt  
Nam mất khoảng 0,4% tổng diện tích canh tác, riêng đất trồng lúa có tỷ lệ giảm cao hơn  
khoảng 1%/năm. Không những thế, với sự phát triển của đô thị và công nghệ thì diện tích  
đất đai này sẽ còn ngày càng giảm đi. Đáng chý ý là những khu vực bị chuyển đổi hầu  
như lại là vùng đất có chất lượng đất tốt phù hợp cho sản xuất nông nghiệp như đất dọc  
Quốc lộ 5 qua tỉnh Hải Dương, Hưng Yên; quốc lộ 6 qua huyện Chương Mỹ - Hà Nội,  
hay các khu công nghiệp ở Hoài Đức – Hà Nội. Vì thế, trong thực trạng đất sản xuất nông  
nghiệp ngày càng giảm, cần phải đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất để đảm  
bảo an ninh lương thực.  
Gần đây Nhà nước có những chính sách giao đất cho hộ nông dân, coi hộ nông dân  
như một trong những đơn vị kinh tế tự chủ để nông dân có thể tự đưa ra cơ cấu cây trồng,  
vật nuôi phù hợp và đem lại hiệu quả nhất trên đất được giao đây chính là tiền đề để các  
gia đình, các xã, huyện và tỉnh lựa chọn cơ cấu sản xuất thích hợp. Từ những thay đổi đó  
thay vì độc canh lúa như lúc trước, nhiều trang trại chuyển sang chuyên canh nông sản  
hàng hóa, do đó số hộ độc canh lúa đã giảm đi. Nông dân được hỗ trợ tiếp cận tín dụng  
ngân hàng nhờ chính sách đất nông nghiệp. Bằng cách cấp “Giấy chứng nhận quyền sử  
dụng đất nông nghiệp” cho nông dân, đất nông nghiệp đã được hợp thức hóa quyền sử  
dụng cho người dân, giúp việc giao dịch quyền sử dụng đất, cho thuê, góp vốn sản xuất  
hay việc sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn ngân hàng được  
an toàn và thuận tiện hơn. Chính sách đất nông nghiệp đã từng bước cho thấy rõ hiệu quả  
từ khuyến khích nông dân tích tụ, tập trung đất với mục tiêu giúp hoạt động kinh doanh  
hiệu quả hơn. Nông dân có thể tập trung diện tích đất nông nghiệp liền khoảnh, quy mô  
lớn bằng cách thuê mướn, chuyển đổi và chuyển nhượng theo đúng quy định pháp lý để  
áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất, áp dụng các biện pháp bảo vệ thực vật và thâm canh.  
Đối với hộ dân khác có sở hữu quyền sử dụng đất nông nghiệp nhưng lại không hoặc  
không đủ khả năng sản xuất nông nghiệp hiệu quả có thể cho thuê. Nhờ đó, quá trình  
chuyên môn hóa ngành nghề và sàng lọc để tìm ra người làm nông nghiệp giỏi được thúc  
đẩy nhanh hơn.  
Chính sách đất nông nghiệp cũng đem lại tác động đến việc kích hoạt thị trường bất  
động sản ở nông thôn, nhờ đó đất nông nghiệp được phân bố một cách hiệu quả, giúp cho  
nông thôn hình thành nhiều ngành nghề mới. Ở nông thôn nhờ các chính sách này đã giúp  
thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp hình thành, giúp cho chi phí  
412  
giao dịch được giảm đi. Kết quả là đất đai cũng được sử dụng hiệu quả hơn theo tín hiệu  
của thị trường, nhờ đó thúc đẩy quá trình phân bổ lại đất đai giữa trồng trọt, thủy sản và  
chăn nuôi, đồng thời góp phần khôi phục và phát triển làng nghề.  
Mặc dù đạt được một số thành tựu như trên, một số nghiên cứu về hiệu quả sử dụng  
đất nông nghiệp như tại huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ của Nguyễn Minh Tuấn (2005);  
hoặc nghiên cứu về tác động của dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp đến hiệu quả sử dụng  
đất sau dồn điền đổi thửa tại huyện Phú Xuyên, Hà Nội của Mai Thị Xoan (2014) và  
một số công trình nghiên cứu khác cho thấy quá trình thực hiện dồn điền đổi thửa của các  
địa phương theo NĐ 64 vẫn còn nhiều hạn chế. Tình trạng đất đai manh mún, mặt bằng  
bị phá vỡ, canh tác theo qui mô nhỏ chưa hình thành được cơ cấu sản xuất lớn trên diện  
rộng. Đối với từng vùng, từng địa phương vẫn phải tiếp tục xây dựng kế hoạch dồn điền  
đổi thửa một cách linh hoạt để hướng đến mục tiêu số lượng thửa ruộng nhỏ hẹp manh  
mún giảm đi tối đa và góp phần xây dựng các vùng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi,  
gia tăng hiệu quả trên một đơn vị diện tích canh tác.  
Nghiên cứu này đánh giá hiệu quả một số mô hình canh tác sử dụng đất sau dồn  
điền đổi thửa và tác động của chúng đến sinh kế nông dân tại Huyện Hải Hậu. Bài viết  
được kết cấu như sau. Sau phần đặt vấn đề là phần Địa điểm nghiên cứu. Phần 3: Kết quả  
nghiên cứu về hiệu quả một số mô hình canh tác sử dụng đất sau dồn điền đổi thửa tác  
động đến sinh kế nông dân tại Huyện Hải Hậu. Phần cuối là Kết luận.  
2. Địa điểm nghiên cứu  
Nghiên cứu này sử dụng số liệu đất đai tại huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Theo số  
liệu kiểm kê của phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Hải Hậu, tính đến 31/12/2014,  
huyện Hải Hậu có diện tích tự nhiên là 22.895,59 ha trong đó diện tích đất nông nghiệp  
là 15.635,87 ha chiếm 68,29%, tổng diện tích tự nhiên, đất phi nông nghiệp là 7.010,66  
ha chiếm 30,62%, và 1,09% diện tích đất chưa sử dụng (249,06 ha). Số liệu hiện trạng  
biến động đất nông nghiệp của huyện Hải Hậu được tóm tắt trong Bảng 1.  
413  
Bảng 1. Hiện trạng và biến động sử dụng đất nông nghiệp huyện Hải Hậu  
Năm 2018  
So sánh với năm 2014  
Mục đích  
STT  
Mã  
Diện tích  
Tăng (+)  
năm 2010  
giảm (-)  
(ha)  
Cơ cấu  
(%)  
sử dụng đất  
Diện tích (ha)  
NNP  
SXN  
Đất nông nghiệp  
15.635,87  
13.263,58  
100,00  
84,83  
15.870,84  
13.499,81  
-234,97  
-236,23  
Đất sản xuất nông  
nghiệp  
1
Đất trồng cây hàng CHN  
năm  
1.1  
11.454,52  
73,26  
69,25  
0
11.688,86  
11.072,59  
0
-234,34  
-245,39  
0
1.1.1 Đất trồng lúa  
LUA 10.827,20  
Đất có dùng vào COC  
chăn nuôi  
1.1.2  
1.1.3  
1.2  
0
Đất trồng cây hàng HNK  
năm khác  
627,32  
1.809,06  
4,01  
616,27  
11,05  
-1,89  
Đất trồng cây lâu CLN  
năm  
11,57  
1.810,95  
2
LNP  
RSX  
Đất lâm nghiệp  
Đất rừng sản xuất  
Đất rừng phòng hộ  
Đất rừng đặc dụng  
68,69  
0,44  
0
37,11  
0
31,58  
0
2.1  
2.2  
2.3  
0
RPH 68,69  
0,44  
0
37,11  
0
31,58  
0
RDD  
NTS  
0
Đất nuôi trồng  
thủy sản  
3
4
5
1.867,91  
420,40  
15,29  
11,95  
2,69  
0,10  
1.852,96  
462,11  
18,85  
14,95  
-41,71  
-3,56  
LMU  
NKH  
Đất làm muối  
Đất nông nghiệp  
khác  
Nguồn: Phòng tài nguyên và môi trường huyện Hải Hậu (2018)  
Trong đất nông nghiệp bao gồm 5 loại, mỗi loại lại chiếm tỷ lệ trên tổng diện tích  
đất nông nghiệp cụ thể như sau: Đất sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn nhất (84,83%)  
trong đó chủ yếu là cây hàng năm (73,26%), cụ thể là đất trồng lúa với 10.727,2 ha, đất  
lâm nghiệp (0,44%), đất nuôi trồng thủy sản (11,95%), đất làm muối (2,69% ) tập trung  
chủ yếu ở các xã ven biển, đất nông nghiệp khác chiếm tỷ lệ ít nhất (0,10%) chủ yếu là  
các loại cây dược liệu như thìa canh, đinh lăng.  
Diện tích đất sử dụng cho mục đích sản xuất chiếm 84,83% tổng diện tích đất nông  
nghiệp với 13.263,58 ha, trong đó chiếm tỷ lệ lớn nhất là đất trồng cây hàng năm. Các  
cây hàng năm chủ yếu là những cây ngắn ngày và được trồng theo vụ với các loại hình  
414  
sử dụng đất chủ yếu là LHCT 2 lúa, LHCT 2 lúa – màu và LHCT 2 màu lúa. Ngoài ra tại  
Hải hậu có trồng thêm một số cây lâu năm như: Cam, bưởi … tuy nhiên số lượng đất sử  
dụng để trồng cây lâu năm này không nhiều. Ngoài ra, đất lâm nghiệp chủ yếu của huyện  
là đất rừng phòng hộ.  
Giai đoạn 2014 – 2018, đất nông nghiệp có sự suy giảm về diện tích, chủ yếu là  
đất sản xuất nông nghiệp (giảm 236,23 ha) tập trung chủ yếu ở đất trồng lúa với diện  
tích giảm là 245,39 ha. Ngoài ra, diện tích đất sử dụng với mục đích trồng cây lâu năm  
và đất nông nghiệp khác có giảm nhẹ. Nhờ quá trình thay đổi cơ cấu sử dụng đất kết  
hợp với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với tiến trình đô thị hóa, tốc độ  
gia tăng dân số tại huyện Hải Hậu, do đó đã chuyển một phần đất nông nghiệp sang  
mục đích phi nông nghiệp.  
Ngoài ra, diện tích rừng phòng hộ, diện tích đất nuôi trồng thủy sản, diện tích trồng  
cây hàng năm khác có sự tăng đáng kể (diện tích đất sử dụng cho mục đích nuôi trồng  
thủy sản tăng 14,95 ha, diện tích đất rừng phòng hộ tăng 31,58 ha và diện tích cây trồng  
hàng hăm khác tăng 11,05 ha). Sở dĩ có sự gia tăng này là do huyện đã tận dụng tối đa  
diện tích đất bỏ hoang chưa canh tác vào sử dụng, hơn nữa cũng đã chuyển đổi cây trồng  
cho một số vùng trũng và ven biển của huyện Hải Hậu. Điển hình là nhiều vùng trồng  
đinh lăng và nuôi trồng thủy sản được chuyển đổi từ những vùng trồng lúa kém hiệu quả.  
Nhằm khắc phục tình trạng manh mún đất đai diễn ra trên toàn tỉnh Nam Định nói  
chung và huyện Hải Hậu nói riêng, Nam Định đã đưa ra chủ trương dồn điền đổi thửa với  
mục tiêu sau: (i) để đáp ứng yêu cầu và mục đích của chương trình xây dựng nông thôn  
mới; (ii) tăng cường công tác quản lý Nhà nước về đất đai; (iii) phấn đấu mục tiêu bình  
quân số thửa của mỗi hộ dân còn 1-2 thử; (iv) đất công ích và đất dành cho phát triển hạ  
tầng… cần được quy hoạch tập trung theo yêu cầu của chương trình xây dựng nông thôn  
mới. Việc dồn điền đổi thửa của huyện Hải Hậu được thực hiện tuân thủ theo hướng dẫn  
1071/HD-STNMT ngày 16.09/2011 của Sở Tài nguyên và Môi trường về việc tiếp tục  
thực hiện công tác dồn điền, đổi thửa trong sản xuất nông nghiệp  
Hiện nay Hải Hậu là một trong số các huyện đạt chỉ tiêu 100%, các xã, thị trấn đã  
hoàn thành chương trình dồn điền đổi thửa. Cụ thể, công tác dồn điền đổi thửa được triển  
khai đồng loạt ở tất cả các thị xã, thị trấn trong huyện. Tuy đã cơ bản thực hiện xong công  
tác dồn điền đổi thửa nhưng điều tra cho thấy Hải Hậy có một số khó khăn sau, gồm: (i)  
kinh phí dành cho việc thực hiện dồn điền đổi thửa còn hạn chế và gặp rất nhiều khó khăn  
đặc biệt là những xã, thị trấn không có đấu giá quyền sử dụng đất cho người dân làm nhà  
ở; nhân dân một số địa phương đề nghị đối với phần diện tích đất dân đóng góp để xây  
dựng hệ thống giao thông, thủy lợi nội đồng, phải tiến hành tổ chức thực hiện ngay trước  
khi giao đất tại thực địa, tuy nhiên đa số các xã đều gặp khó khăn về kinh tế lên lúng túng  
trong việc tuyên truyền giải thích cũng như tổ chức thực hiện; (ii) một số xã có đất trong  
vị trí ven đường giao thông muốn được nhận bồi thường cao hơn các bị trí đất khác nên  
không muốn thực hiện dồn điền đổi thửa.  
Để có được hiệu quả sử dụng đất của một số loại hình, tác giả tiến hành chọn mẫu  
415  
điều tra tại 3 xã đại diện của huyện Hải Hậu là: Hải Toàn, Hải Hà, Hải Tây do 3 xã có vị  
trí địa lý phân bố điều trên địa bàn huyện. Kết quả biến động đất sau dồn điền đổi thửa  
tại 3 xã lấy mẫu được tóm tắt trong Bảng 2. Kết quả thực hiện trước và sau dồn điền đổi  
thửa trung bình của các hộ dân trong huyện Hải Hậu được tóm tắt trong Bảng 3.  
Bảng 2. Diện tích trước và sau dồn điền đổi thửa tại 3 xã của huyện Hải Hậu  
Diện tích  
trước dồn  
điền  
Tăng (+)  
Diện tích sử  
Diện tích  
Đơn vị  
giảm (-) diện dụng của hộ  
sau dồn điền  
tích  
-9.32  
lớn nhất/ thửa  
348,07  
294,85  
279,26  
338,75  
283,33  
278,7  
0,05  
0,35  
1,18  
Hải Tây  
-11,52  
-0,56  
Hải Hà  
Hải Toàn  
Nguồn: Tính toán của tác giả  
Bảng 3. Kết quả thực hiện trước và sau dồn điền đổi thửa trung bình của các hộ  
dân trong huyện Hải Hậu  
Bình quân thửa/h Bình quân thửa/hộ  
Bình quân  
Đơn vị  
trước dồn điền đổi  
thửa  
sau dồn điền đổi  
thửa  
thửa/hộ giảm  
4,19  
3,02  
2,94  
2,78  
-1,41  
Hải Tây  
1,63  
2,02  
-1,39  
-0,92  
Hải Hà  
Hải Toàn  
Nguồn: Tính toán của tác giả  
Bảng 2 cho thấy diện tích đất nông nghiệp của các xã sau dồn điền đổi thửa hầu hết  
đều giảm do các hộ dân đã giao đất cho các chương trình xây dựng nông tôn mới. Bảng  
3 chi tiết kết quả thực hiện dồn điền đổi thửa theo trung bình hộ. Kết quả của chương  
trình dồn điền đổi thửa tính theo bình quân số thửa/hộ giảm sẽ giúp các hộ dân thuận lợi  
hơn trong chăm sóc đồng ruộng, tiết kiệm các khoản chi phí và áp dụng được cơ giới hóa  
vào sản xuất. Bình quân thửa/hộ trên của Hải Tây là 2,78 thửa/ hộ, của Hải Toàn là 2,02  
thửa/hộ, và của Hải Hà là 1,63 thửa/hộ. Rõ ràng, kết quả của thực hiện chủ trương dồn  
điền đổi thửa tại Hải Hậu đã làm giảm số lượng bình quân thửa/hộ.  
3. Đánh giá hiệu quả của một số loại hình sử dụng đất sản xuất nông nghiệp sau dồn  
416  
điền đổi thửa tại huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định  
Để đánh giá được hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp một số loại hình sử dụng đất  
sau dồn điền, đề tài đã dựa vào 3 chỉ tiêu hiệu quả là hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và  
hiệu quả môi trường. Cụ thể ở đây đề tài đánh giá 3 loại hình sử dụng đất điển hình được  
hộ dân sử dụng sau dồn điền là LHCT 2 lúa, LHCT 2 lúa – màu, LHCT 2 màu lúa.  
3.1. Hiệu quả kinh tế  
Để tính được hiệu quả kinh tế các hình thức sử dụng đất một cách chính xác cần  
phải biết được giá trị của chi phí trung gian, giá trị sản xuất của từng loại cây trồng cũng  
như giá trị chung của LHCT, từ đó tính được hiệu quả trên 1 đơn vị diện tích, hay trên 1  
đơn vị chi phí trung gian (HQĐV trong bảng 3 dưới đây). Để dễ tính toán, đề tài tính lần  
lượt hiệu quả kinh tế của từng loại cây trồng, sau đó tính hiệu quả kinh tế của từng LHCT  
tại huyện Hải Hậu.  
a) Hiệu quả kinh tế của các cây trồng chính sau dồn diền đổi thửa  
Hiệu quả kinh tế của các cây trồng chính được thể hiện thông qua các tiêu chí: Giá  
trị sản xuất (GO), chi phí trung gian (IC), giá trị gia tăng và hiệu quả đồng vốn (VA),  
được tóm tắt trong Bảng 4.  
Bảng 4. Hiệu quả kinh tế của một số cây trồng chính sau dồn điền đổi tửa tại  
huyện Hải Hậu  
Cây trồng  
GO  
IC  
VA  
HQĐV  
(lần)  
(triệu đồng/ha)  
(triệu đồng/ha)  
(triệu đồng/ha)  
Lúa xuân  
Lúa mùa  
Ngô  
44,71  
21,5  
23,21  
20,05  
36,52  
45,24  
74,53  
95,52  
43,16  
24,55  
1,080  
0,927  
1,212  
1,005  
1,675  
1,900  
0,916  
1,070  
41,67  
66,64  
90,25  
119,02  
145,79  
90,28  
47,5  
21,62  
30,12  
45,01  
44,49  
50,27  
47,12  
22,95  
Khoai tây  
Cà chua  
Su hào  
Súp lơ  
Lạc  
Nguồn: Tác giả tính toán và tổng hợp từ số liệu điều tra  
Từ bảng số liệu trên ta có thể thấy Lúa là cây trồng chính đảm bảo nhu cầu lương  
417  
thực cho người dân. Trong các cây trồng nông nghiệp chính của huyện sau khi dồn điền,  
cây su hào có hiệu quả cao nhất trên 1 ha với giá trị sản xuất đạt 145,79 triệu đồng, giá trị  
gia tăng đạt 95,52 triệu đồng, cây Lúa (xuân và mùa) luôn có giá trị sản xuất (trên 40 triệu  
đồng) và giá trị gia tăng thấp nhất (trên 20 triệu đồng). Ngoài ra hiệu quả đồng vốn là chỉ  
tiêu phản ánh chất lượng của đầu tư trong sản xuất nông nghiệp, được tính bằng giá trị  
gia tăng/chi phí trung gian. Dựa vào bảng 3 cho thấy: có 2/8 cây trồng có hiệu quả nhỏ  
hơn 1 và 6/8 cây trồng có hiệu quả lớn hơn 1. Trong đó cây có hiệu quả đồng vốn cao  
nhất là su hào (1,9 lần), tiếp đến là cà chua với hiệu quả đồng vốn là 1,675 lần. Ba cây có  
hiệu quả đồng vốn dưới 1 là lúa mùa, khoai tây và súp lơ. Sở dĩ những cây này có hiệu  
quả thấp hơn bởi do yếu tố thời tiết, năng xuất của cây trồng kém hơn và thu nhập thấp  
bên cạnh các khoản chi phí khá cao. Điều đó cho thấy với việc trồng màu các hộ dân sẽ  
thu được lợi nhuận cao hơn so với trồng lúa. Nhưng với truyền thống lúa nước và yêu cầu  
đảm bảo an ninh lương thực huyện đã phải duy trì việc trồng lúa (1 hoặc 2 vụ).  
b) Hiệu quả kinh tế của một số loại hình sử dụng đất  
Qua điều tra nông hộ và số liệu thống kê trên địa bàn xã cho thấy hệ thống cây trồng  
nơi đây khá đa dạng với nhiều công thức luân canh khác nhau, tuy nhiên đề tài đi sâu  
nghiên cứu 3 loại hình sử dụng đất chủ yếu tại địa phương, kết quả thể hiện ở Bảng 5.  
Bảng 5. Hiệu quả kinh tế của một số loại hình sử dụng đất sau dồn điền đổi  
thửa tại huyện Hải Hậu  
LHCT  
Kiểu sử dụng đất  
GO  
IC  
VA  
HQĐV  
(triệu  
(triệu  
(triệu  
đồng/ha) đồng/ha) đồng/ha)  
2 lúa  
Lúa xuân Lúa mùa  
86,38  
43,12  
73,24  
88,13  
43,26  
79,78  
88,50  
1,003  
1,089  
1,004  
Lúa xuân Lúa mùa Ngô  
153,02  
axnamùaKhoaitây 176,63  
2 lúa Lúa xuân Lúa mùa Cà  
205,40  
87,61  
117,79  
1,344  
màu  
chua  
Lúa xuân Lúa mùa Su hào  
Lúa xuân Lúa mùa – Súp lơ  
Lạc – Lúa mùa Ngô  
Lạc – Lúa mùa Khoai tây  
Ngô Lúa mùa Khoai tây  
232,17  
176,66  
155,81  
179,42  
93,39  
90,24  
74,69  
89,58  
138,78  
86,42  
81,12  
89,84  
1,486  
0,958  
1,086  
1,003  
2 màu-  
lúa  
198,56  
96,75  
101,81  
1,052  
Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu điều tra  
Từ bảng trên ta phân tích cụ thể cho từng loại hình canh tác trên đất dồn điền đổi  
thửa như sau:  
- Với LHCT 2 lúa: Loại hình sử dụng đất 2 lúa được thực hiện công thức luân canh  
sau dồn điền đổi thửa, cụ thể: trồng lúa vào vụ xuân và vụ hè thu (vụ mùa). Với loại hình  
sử dụng đất này các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế cho kết quả như sau: giá trị sản xuất là 86,38  
triệu đồng, giá trị gia tăng là 43,12 triệu đồng và hiệu quả đồng vốn là 1,003 lần. Như  
418  
vậy, nếu người dân sử dụng loại hình LHCT 2 lúa này đầu tư thì cứ một đồng chi phí bỏ  
ra người dân sẽ thu được 1,003 đồng giá trị gia tăng. Hơn nữa, nếu xét từng vụ trồng lúa  
cho thấy: đối với cây lúa trồng vào vụ xuân thì thu được lợi nhuận cao hơn (HQĐV lúa  
xuân là 1,08 lần, HQĐV của lúa mùa là 0,927 lần) bởi vụ mùa các hộ dân sẽ gặp nhiều  
rủi ro có thể do thời tiết hoặc sâu bệnh, do vậy năng suất cây trồng thường thấp hơn so  
với vụ xuân.  
Qua điều tra cho thấy, giống lúa được sử dụng trồng chủ yếu là các loại sau:  
Tám Hải Hậu, Bắc Thơm, BC. Tỷ lệ các hộ trồng loại hình sử dụng đất này chiếm tỷ  
lên cao hơn (chiếm 6,67% tổng số hộ điều tra). Sở dĩ các hộ trồng lúa nhiều vì (i)  
Nhằm phục vụ nhu cầu lương thực của gia đình hàng ngày; (ii) Trồng lúa có thể bán  
cho một số thương lái thu mua hoặc một số cửa hàng lớn; (iii) Trồng màu có thu nhập  
cao hơn nhưng không có thị trường tiêu thụ ổn định, phụ thuộc nhiều vào nhu cầu của  
thương lái và người tiêu dùng.  
- LHCT 2 lúa màu: Đây là loại hình sử dụng đất được số ít hộ điều tra thực hiện  
và các hộ trồng 3 vụ một năm, cụ thể: Lúa trồng vụ xuân và vụ mùa, còn vụ đông trồng  
cây màu. Một số cây màu được sử dụng chủ yếu là ngô, khoai tây, su hào, súp lơ cà chua.  
Với LHCT 2 lúa – màu có 5 kiểu sử dụng đất, trong đó kiểu sử dụng đất Lúa xuân – lúa  
mùa – su hào gia tăng là 138,78 triệu đồng/ha. LHCT lúa xuân – lúa mùa – súp lơ có  
HQĐV thấp nhất (0,958 lần) trong đó giá trị sản xuất là 176,66 triệu đồng/ha, giá trị gia  
tăng là 90,24 triệu đồng/ha.  
- LHCT 2 màu lúa: Loại hình sử dụng đất LHCT 2 màu – lúa này khai thác được  
tiềm năng đất đai trong một năm với việc trồng cây 3 vụ: vụ mùa trồng lúa, vụ xuân và  
vụ đông trồng cây màu. Các loại cây trồng được trồng vào vụ xuân là lạc hoặc ngô, vụ  
đông trồng ngô, khoai. Có 3 kiểu sử dụng trong đó kiểu sử dụng đất 1: Lạc – lúa mùa –  
ngô có HQĐV nhỏ nhất (1,003 lần) trong đó giá trị sản xuất (GO) là 179,42 triệu đồng/ha  
và giá trị gia tăng (VA) là 89,84 triệu đồng/ha. Có thể thấy, nếu xét theo HQĐV thì các  
kiểu sử dụng đất của LHCT 2 màu – lúa đều có giá trị lớn hơn 1 tức việc trồng các công  
thức luân canh trên có hiệu quả về mặt kinh tế.  
Nếu so sánh giữa các loại hình sử dụng đất thì trồng 3 vụ với LHCT 2 lúa màu và  
LHCT 2 màu – lúa sẽ bền vững hơn so với trồng 2 vụ trong năm LHCT 2 lúa, bởi lẽ sau  
dồn điền đổi thửa, 2 loại hình này sẽ khai thác được tiềm năng đất đai, tuy nhiên, nếu  
muốn đảm bảo tính bền vững của 2 loại hình sử dụng đất này cần phải tìm được thị trường  
tiêu thụ cây vụ đông ổn định, tránh tinh trạng được mùa mất giá như hiện nay ở một số  
địa phương trong cả nước.  
c. Đánh giá chung  
Trong 3 loại hình sử dụng đất. LHCT 2 lúa – màu có giá trị sản xuất (GO) và giá trị  
tăng (VA) có giá trị cao nhất (188,77 triệu đồng/ ha và 102,25 triệu đồng/ ha), LHCT 2  
lúa có giá trị sản xuất (GO) 86,38 triệu đồng/ha) và giá trị gia tăng (VA) (43,26 triệu  
đồng/ha) nhỏ nhất.  
419  
Giá trị sản xuất (GO)  
Giá trị gia tăng (VA)  
Hiệu quả đồng vốn (HQĐV)  
2 L Ú A  
2 L Ú A - M À U  
2 M À U L Ú A  
Biểu đồ 1. Hiu qukinh tế tng hp ca các loi hình sdụng đất sau dn  
điền đổi tha ti huyn Hi Hu  
Trong 3 loại hình sử dụng đất thì LHCT 2 màu – lúa đạt HQĐV cao nhất là 1,18  
lần, tiếp đến là LHCT 2 Lúa – màu có HQĐV đạt 1,05 lần, và thấp nhất là loại hình 2 lúa  
với HQĐV 1,00 lần. Rõ ràng, nông nghiệp của huyện Hải Hậu nên tập trung vào phát  
triển mở rộng diện tích cây hoa màu và chỉ duy trì một diện tích ít cây lúa nhằm đảm bảo  
an ninh lương thực trong vùng và cung cấp cho các vùng lân cận để phát triển thị trường  
nông sản.  
3.2. Hiệu quả môi trường  
Yếu tố thứ 3 cần phải đánh giá khi tiến hành đánh giá hiệu quả sử dụng đất sau dồn  
điền đổi thửa tới sinh kế người dân là môi trường. Với mỗi loại hình sử dụng đất khác  
nhau sẽ mang đến những tác động đến môi trường và vì thế tới sinh kế của người dân  
khác nhau. Trong phạm vi của nghiên cứu này, đề tài chỉ đề cập đến hiệu quả môi trường  
thông qua vấn đề sử dụng phân bón là vấn đề chính yếu nhất trong nông nghiệp của địa  
phương (so sánh với tiêu chuẩn bón phân cân đối của tác giả như Nguyễn Văn Bộ  
(2000), sử dụng thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng nói chung.  
a) Việc sử dụng phân bón trong quá trình sản xuất  
Công việc bón phân cho cây trồng thường tập chung vào 2 loại là phân hữu cơ  
và phân vô cơ. Phân bón nếu bón đúng và bón đủ sẽ làm nâng cao năng suất cho cây  
trồng, nhưng khi sử dụng không đúng liều lượng phân bón thì sẽ làm cho đất bị thoái  
hóa, hoạt động của các sinh vật trong đất giảm, hàm lượng các chất vôi giảm, sự tích  
đọng nitrat, kim loại nặng ở 1 số vùng, kết cấu đất kém đi,… Cụ thể, đề tài đã điều tra  
từng loại cây trồng trong việc sử dụng phân bón và so sánh với tiêu chuẩn bón phân  
hợp lý và cân đối của tác giả Nguyễn Văn Bộ (2000) thể hiện ở Bảng 10.  
Bảng 10. Mức đầu tư phân bón thực tế tại địa phương và tiêu chuẩn bón phân  
của các hộ sau đồn điền đổi thửa tại huyện Hải Hậu  
420  
Theo điều tra nông hộ  
Theo tiêu chuẩn  
Cây  
Trồng  
Phân  
chuồng  
(kg/ha)  
Phân  
chuồng  
(kg/ha)  
N
N
P205  
K20  
P205  
K20  
(kg/ha) (kg/ha) (kg/ha)  
(kg/ha) (kg/ha)  
(kg/ha)  
Lúa  
xuân  
97,195 333,24  
111,11 416,67  
55,54  
83,33  
-
-
120-130  
80-100  
88  
80-90  
50-60  
17  
30-60  
0-30  
134  
8-10  
6-8  
Lúa  
mùa  
Khoai  
tây  
119,44 305,56 111,11  
138,89 305,56 124,96  
11,11  
25  
-
Cà  
chua  
150-  
240  
180-200  
90-180  
60-90  
20-40  
Lạc  
49,98  
444,32 138,89  
8,33  
20-30  
30-60  
-
Ngô  
138,89 555,56 124,96  
138,89 305,56 111,11  
11,11  
150-180  
70-90 80-100  
8-10  
Su  
hào  
13,89  
15  
-
-
-
-
-
-
-
-
Súp lơ 138,89 416,67  
83,31  
Nguồn: Tác giả điều tra  
Qua nghiên cứu cho thấy mức độ đầu tư phân bón cho các cây trồng tại huyện Hải  
Hậu tương đối lớn đặc biệt là nhóm cây rau màu. Bảng 9 này cho thấy:  
-
Yêu cầu về lượng phân bón với mỗi loại cây trồng khác nhau sẽ khác nhau. Đối  
với LHCT 2 màu – lúa đòi hỏi lượng phân bón lớn nhất, ít nhất là LHCT 2 lúa. Hầu hết,  
trên thực thế người dân dều sử dụng phân bón quá nhiều so với tiêu chuẩn cho phép.  
-
Tỷ lệ N:P:K được sử dụng không cân đối, khiến ảnh hưởng xấu đến môi trường  
đất và có tác dộng tiêu cực làm giảm năng suất cũng như khả năng phát triển của cây trồng.  
Người dân có quan niệm rằng nếu bón phân nhiều đạm cây sẽ cho năng suất cao, đây là  
một quan niệm chưa đúng của người sản xuất nông nghiệp.  
-
Đối với các cây trồng, lượng phân truồng hầu như nằm trong tiêu chuẩn còn  
phân hữu cơ đươc các hộ sử dụng đa phần đều nhiều hơn tiêu chuẩn, điển hình là lượng  
lân, hầu như đều cao, điển hình cây lúa cao hơn so với tiêu chuẩn là 10 lần (nhiều nhất là  
lúa mùa). Đối với lượng đạm, có một số cây trồng các hộ bón nhiều hơn với lượng tiêu  
chuẩn như: lúa mùa, khoai tây còn cây lạc có sự chênh lệch không nhiều so với tiêu  
chuẩn. Còn đối với kali, các hộ bón với ngưỡng vừa phải, các cây đạt tiêu chuẩn bón  
phân cân đối như: lúa xuân, khoai tây, cà chua. Còn lại là các cây được bón lượng kali  
cao hơn so với tiêu chuẩn nhưng nhiều nhất là cây lạc với số lượng là 138,89 kg/ha  
(mức tiêu chuẩn là 30-60 kg/ha) gấp 2 - 4 lần so với mức tiêu chuẩn. Đối với cây su  
hào và súp lơ không có trong danh sách được tác giả Nguyễn Văn Độ (2000) nghiên  
421  
cứu nên tác giả không so sánh.  
Việc bón phân hữu cơ, bên cạnh những ưu điểm cũng có một số nhược điểm, điển  
hình là nếu bón phân quá nhiều làm cho đất bị chua và ảnh hưởng không nhỏ đến tầng  
nước ngầm trong đất. Do vậy, nếu có thể hạn chế lượng phân hữu cơ, thay vào đó là phân  
chuồng. Qua điều tra thăm dò cho thấy tại huyện Hải Hậu có một số hộ làm mô hình vườn  
ao chuồng theo quy mô gia trại hoặc trang trại, các hộ dân có thể kết hợp giữa trồng trọt  
và chăn nuôi để đảm bảo tính bền vững trong hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và đảm  
bảo môi trường trong khu vực nông thôn.  
b) Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình sản xuất  
Trong quá trình trồng trọt còn xuất hiện nhiều loại sâu bệnh hại, do vậy muốn có  
năng suất cao, muốn đảm bảo lương thực cung cấp cho gia đình và để cung ứng ra thị  
trường, người nông dân phải sử dụng rất nhiều thuốc bảo vệ thực vật. Tuy nhiên, thuốc  
BVTV hay phân bón nếu không sử dụng hợp lý sẽ gây ảnh hưởng lớn đến môi trường  
nước, đất, không khí… Con người sống trong môi trường bị ô nhiễm bởi thuốc bảo vệ  
thực vật sẽ mắc phải nhiều bệnh nguy hiểm.  
Qua quá trình điều tra khảo sát có thể nhận thấy đa phần trong quá trình sản xuất  
nông nghiệp nông dân đều sử dụng thuốc bảo vệ thực vật với nhiều chủng loại khác nhau.  
Trong đó, sử dụng nhiều thuốc bảo vệ thực vật hơn cả là các loại cây rau màu đặc biệt là  
loại cây rau màu trồng trái vụ tiếp theo là cây lúa. Tuy nhiên, sau dồn điền đổi thửa việc  
sử dụng thuốc bảo vệ thực vật giảm rõ rệt.  
Có thể kết luận rằng thuốc bảo vệ thực vật và thuốc diện cỏ có tác động hai mặt, về  
mặt tích cực giúp bảo vệ mùa màng về mặt tiêu cực gây nên nhiều hệ quả môi trường  
đáng báo động và ảnh hưởng đến hệ sinh thái và con người. Do vậy cần phải cẩn trọng  
khi sử dụng thuốc, đúng loại, đúng lúc, đúng liều lượng theo chỉ dẫn của cán bộ khuyến  
nông. Trong sử dụng thuốc bảo vệ thực vật phải cân nhắc lợi ích đảm bảo an toàn lương  
thực phải đi đôi với việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường.  
3.3. Hiệu quả xã hội  
Hiệu quả xã hội phản ánh mối tương quan giữa kết quả thu được về mặt xã hội mà  
sản xuất mang lại với các chi phí sản xuất xã hội bỏ ra. Vì hạn chế về số liệu, bài viết chỉ  
sử dụng tiêu chí mức đầu tư lao động và thu nhập bình quân từng kiểu sử dụng đất.  
a) Mức đầu tư lao động và thu nhập bình quân  
Hiệu quả xã hội thể hiện qua mức đầu tư lao động (GO/LĐ) và thu nhập bình quân  
(VA/LĐ) trên ngày công lao động của các kiểu sử dụng đất của huyện Hải Hậu được thể  
hiện ở bảng sau.  
Bảng 11. Mực đầu tư lao động và thu nhập bình quân trên ngày công lao động của  
các kiểu sử dụng đất sau dồn điền đổi thửa tại huyện Hải Hậu  
422  
GO/LĐ VA/LĐ  
(1000đ) (1000đ)  
Loại hình sử  
dụng đất  
Kiểu sử dụng đất  
2 lúa bình quân  
Lao động  
527,7  
163,69  
163,69  
227,82  
211,91  
240,00  
189,82  
278,66  
218,72  
249,00  
207,80  
234,94  
304,26  
81,98  
2 lúa  
Lúa xuân Lúa mùa  
527,7  
81,98  
2 lúa màu bình quân  
836,21  
722,09  
735,97  
1.082,1  
833,17  
807,7  
122,63  
110,48  
120,25  
108,85  
166,57  
107,00  
127,28  
108,19  
117,64  
156,01  
Lúa xuân Lúa mùa Ngô  
Lúa xuân Lúa mùa Khoai tây  
Lúa xuân Lúa mùa Cà chua  
Lúa xuân Lúa mùa Su hào  
Lúa xuân Lúa mùa – Súp lơ  
2 màu- lúa bình quân  
2 lúa màu  
722,02  
749,79  
736,67  
652,59  
Lạc – Lúa mùa Ngô  
2 màu- lúa  
Lạc – Lúa mùa Khoai tây  
Ngô lúa mùa Khoai tây  
Nguồn: Tác giả tính toán  
Trong 3 loại hình sử dụng đất thì LHCT 2 lúa – màu là LHCT có mức đầu tư lao  
động bình quân là lớn nhất (836,21 công), bởi loại hình sử dụng đất này có kết hợp giữa  
lúa với một số cây màu như: cà chua, su hào, súp lơ đặc biệt là kiểu sử dụng đất lúa xuân  
lúa mùa – cà chua có mức đầu tư công lao động cao nhất là 1.082,1 công/ha, do những  
cây trồng này cần nhiều công lao động trong việc chăm sóc và thu hoạch. Bên cạnh đó,  
kiểu sử dụng đất lúa xuân – lúa mùa có số công lao động ít nhất vởi các hộ dân đã bước  
đầu áp dụng được máy móc trong các công đoạn sản xuất lúa gạo, điển hình là việc sử  
dụng máy xạ (cấy), máy gặt (thu hoạch), máy cày. Xét về giá trị sản xuất và giá trị gia  
tăng của một ngày công lao động cho thấy LHCT 2 màu – lúa có giá trị lớn nhất với  
GO/LĐ là 249,00 nghìn đồng/ công và VA/LĐ là 122,63 nghìn đồng/công. Trong đó kiểu  
sử dụng đất ngô – lúa mùa – khoai tây có giá trị sản xuất của một ngày công lao động lớn  
nhất (GO/LĐ=447,73 nghìn đồng/ công), trong khi đó chỉ tiêu giá trị gia tăng của một  
ngày công lao động, LHCT lúa xuân – lúa mùa – cà chua của loại hình LHCT 2 lúa - màu  
lại có giá trị lớn nhất (166,57 nghìn đồng/công). LHCT có giá trị thấp nhất là LHCT 2 lúa  
(GO/LĐ = 163,69 nghìn đồng, VA/LĐ = 81,98 nghìn đồng). Có thể thấy, khi so sánh mức  
độ đầu tư lao động và thu nhập bình quân trên một ngày công lao động của các kiểu sử  
423  
dụng đất thì LHCT trồng lúa kết hợp màu cho giá trị cao hơn so với LHCT 2 lúa.  
3.4. Đánh giá hiệu quả tổng hợp  
Bên cạnh hiệu quả kinh tế - xã hội – môi trường, bài viết này còn sử dụng phương pháp  
đánh giá hiệu quả tổng hợp của Walfredo Ravel Rola để đánh giá hiệu quả tổng hợp của từng  
loại hình sử dụng đất sau dồn điền đổi thửa dựa trên hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Bởi  
lẽ, 2 hiệu quả này có thể lượng hóa được bằng số liệu định lượng. Kết quả tính toán hiệu quả  
tổng hợp của từng loại hình sử dụng đất thể hiện ở Bảng 11.  
Bảng 11. Hiệu quả tổng hợp của các mô hình theo dõi tại các loại hình sử dụng đất  
Chỉ tiêu hiệu quả  
Loại  
Hiệu quả kinh tê  
GO IC  
188,776 43,12  
Hiệu quả xã hội  
F tối  
ưu  
hình sử  
Ect  
VA  
CLĐ GO/LĐ VA/LĐ  
836,21 249,00 127,28  
527,70 163,69 81,98  
dụng đất  
102,25  
Fi  
86,38  
0,458  
43,12 43,26  
1,000 0,423  
2 lúa  
Ecti  
Fi  
0,631 0,657  
836,21 227,82 122,63  
1,000 0,915 0,963  
722,02 249,00 127,28  
0,863 1,000 1,000  
0,644  
0,636  
0,986  
0,865  
188,776 86,52 102,25  
1,000 0,498 1,000  
177,93 87,01 90,92  
0,943 0,496 0,889  
2 lúa-  
màu  
Ecti  
Fi  
2 màu- 1  
lúa  
Ecti  
Nguồn: Tác giả tính toán  
Từ kết quả trên cho thấy, LHCT 2 lúa – màu có hiệu quả tổng hợp Ect cao nhất  
(Ect=0,896), tiếp theo là LHCT 2 màu – lúa (Ect=0,865), LHCT 2 lúa có hiệu quả tổng  
hợp thấp nhất với Ect của mô hình là 0,638. Qua đó có thể thấy, đối với các hộ dồn điền  
đổi thửa đất nông nghiệp nên duy trì và phát triển các LHCT 2 lúa- màu và LHCT 2 màu  
– 1 lúa. Tuy nhiên để các mô hình này phát triển bền vững phải có sự liên kết trong tiêu  
thụ sản phẩm giữa các hộ dân, đặc biệt là các thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định đối  
với cây vụ đông.  
Qua phân tích và đánh giá 3 mô hình sử dụng đất nông nghiệp về hiệu quả về kinh  
tế - xã hội – môi trường, hiệu quả tổng hợp và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến thu  
nhập của hộ nông dân sau thực hiện dồn diền đổi thửa, kết quả cho thấy: Sau dồn điền  
đổi thửa 3 loại hình sử dụng đất phổ biến được người dân sử dụng là LHCT 2 lúa, LHCT  
2 lúa màu, LHCT 2 màu – lúa. Hiện tại, các hộ dân sử dụng LHCT 2 lúa chiếm tỷ lệ  
lớn (66,67% tổng số hộ điều tra) còn lại là hộ dân trồng lúa và màu. Tuy nhiên, qua kết  
quả đánh giá hiệu quả tổng hợp về mặt kinh tế và xã hội của huyện Hải Hậu bảng 10 cho  
thấy LHCT 2 lúa có giá trị thấp nhất (Ect=0,636), LHCT có giá trị cao nhất là LHCT 2 lúa  
– màu (Ect=0,896) là LHCT có hiệu quả kinh tế và xã hội cao nhất, tiếp đến là LHCT 2  
màu – lúa (Ect=0,865). Nhưng xét theo hiệu quả về môi trường thì LHCT 2 màu – lúa lại  
424  
đòi hỏi lượng phân bón lớn nhất, ít nhất là LHCT 2 lúa. Do đó, sau dồn điền đổi thửa để  
sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững cần lựa chọn mô hình đem lại hiệu quả kinh tế  
và xã hội cao, nhưng cũng không, hoặc giảm thiểu tối đa tác động tiêu cực đến môi trường  
Kết luận  
Qua đánh giá của 3 lại hình sử dụng đất sau thực hiện dồn điền đổi thửa tại huyện  
Hải Hậu dựa trên chỉ tiêu hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường cho  
thấy sau dồn điền đổi thửa 3 loại hình sử dụng đất phổ biến được người dân sử dụng là  
LHCT 2 lúa, LHCT 2 lúa màu, LHCT 2 màu – lúa. Tuy nhiện, các hộ dân sử dụng  
LHCT 2 lúa chiếm tỷ lệ lớn (66,67% tổng số hộ điều tra) còn lại là hộ dân trồng lúa và  
màu. Điểm mạnh của dồn điền là giúp các hộ dân áp dụng được máy móc vào sản xuất  
(chỉ sử dụng đối với cây lúa), giảm lao động thủ công và nâng cao thu nhập, đảm bảo  
cuộc sống cho người dân. Trong 3 loại hình sử dụng đất. LHCT 2 lúa – màu có giá trị sản  
xuất (GO) và giá trị tăng (VA) có giá trị cao nhất (188,77 triệu đồng/ ha và 102,25 triệu  
đồng/ ha), LHCT 2 lúa có giá trị sản xuất (GO) 86,38 triệu đồng/ha) và giá trị gia tăng  
(VA) (43,26 triệu đồng/ha) nhỏ nhất. Rõ ràng, nông nghiệp của huyện Hải Hậu nên tập  
trung vào phát triển mở rộng diện tích cây hoa màu và chỉ duy trì một diện tích ít cây lúa  
nhằm đảm bảo an ninh lương thực để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Tuy nhiên xét về mặt  
xã hội, LHCT 2 lúa – màu có mức đầu tư lao động bình quân lớn nhất (836,21 công) bởi  
có kết hợp giữa lúa với một số cây màu, trong khi đó LHCT 2 lúa có giá trị GO/LĐ (mức  
đầu tư trên lao động) và VA/LĐ (thu nhập bình quân trên ngày công lao động) thấp nhất  
(tương ứng 163,69 nghìn đồng, 81,98 nghìn đồng). Vì vậy đầu tư cho LHCT 2 lúa – màu  
cũng đòi hỏi mức cao. Hơn nữa, xét theo hiệu quả môi trường thì LHCT 2 màu – lúa cũng  
đòi hỏi lượng phân bón lớn nhất trong khi LHCT 2 lúa đòi hỏi ít hơn. Do đó, để sản xuất  
nông nghiệp theo hướng bền vững sau dồn điền đổi thửa, Hải Hậu có thể lựa chọn mô hình  
LHCT 2 màu - lúa đem lại hiệu quả kinh tế và xã hội cao nhưng phải chú trọng quan  
tâm đến vốn đầu tư và công tác giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường để đảm  
bảo sinh kế cho nông dân bền vững. Thông qua những đánh giá của hộ dân sau thực  
hiện dồn điền đổi thửa cho thấy chương trình dồn điền đổi thửa đã đạt được nhiều  
thành tựu đặc biệt là giúp đỡ các hộ dân giảm được các khoản chi phí và áp dụng máy  
móc vào quá trình sản xuất. Tuy nhiện, phương thức tiêu thụ sản phẩm của các hộ dân  
sau dồn điền đổi thửa chưa ổn định và dễ mắc những rủi ro hệ thống mà các hộ không  
lường trước được. Do vậy, muốn đảm bảo được thu nhập cho các hộ dân sản xuất nông  
nghiệp nói chung và các hộ sau thực hiện dồn điền đổi thửa cần phải xây dựng thị  
trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra một cách ổn định, bằng cách tiếp cận và kết nối với  
các doanh nghiệp và sự chủ động của các cơ phan Nhà nước và các hộ dân trong việc  
tìm kiếm nguồn tiêu thụ sản phẩm ổn định.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Chu Văn Cấp (2018), Một vài vấn đề cơ bản trong phát triển nông nghiệp và nông  
thôn nước ta hiện nay, Tạp chí nông nghiệp và phát triển nông thôn, (1), tr.8-9.  
2. Hà Học Ngô và các cộng sự (1999), Đánh giá tiềm năng đất đai phục vụ định hướng  
425  
quy hoạch sử dụng đất huyện Châu Giang – Hưng Yên. Đề tài 96-30-03--Hà  
Nội.  
3. Hoàng Xuân Phương, Nguyễn Thị Hải Châu, Vũ Xuân Thanh, Hồ Thị Lam Trà,  
Trần Thị Diệu Oanh, Nguyễn Thị Hoàng Khánh, Xuân Thị Thu Thảo, Vương Thị  
Lan Phương, Nguyễn Đức Cường, Lê Thị Mai Hoa, Đỗ Quang Tuấn, Lê Ngọc Tú  
và Nguyễn Đức Tùng (2016), Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp tích tụ,  
tập trung ruộng đất trong nông nghiệp, Đề tài cấp Bộ NT&PTNT.  
4. Lê Văn Bá (2001), Tổ chức lại việc sử dụng ruộng đất nhằm thúc đẩy sản xuất nông  
nghiệp hàng hóa, Tạp chí kinh tế và dự báo, (6), tr.8-  
5. Lê Hội (1996), Một số phương pháp luận trong việc quản lý và sử dụng đất đai,  
Tạp chí nghiên cứu kinh tế, (193), Hà Nội.  
6. Ngô Thế Dân (2017), Một số vấn đề khoa học công nghệ nông nghiệp trong thời kỳ  
CNH – HĐH nông nghiệp, Tạp chí nông nghiệp và phát triển nông thôn. Tr3-4  
7. Nguyễn Mạnh Toàn (1999), Định hướng sử dụng đất nông nghiệp trên cơ sở đánh  
giá tiềm năng đất đai trên vùng trũng Ý Yên tỉnh Nam Định, Luận văn Thạc sỹ khoa  
học nông nghiệp.  
8. Nguyễn Phúc Yên (2018), Nghiên cứu tác động của chính sách dồn điền đổi thửa  
đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà  
Nội. Luận văn thạc sỹ kinh tế Đại học Lâm Nghiệp.  
9. Sam Fusiska (1996), Framer paticitatory adaption an adaption on contour  
hadgerowsfor soil conversation cassava, Breeding Agronomy and FPR, in Asia.  
10. UBND tỉnh Nam Định (2018), Báo cáo tổng kết thực hiện chỉ thị 07/CT ngày  
19/9/2011 của Ban thường vụ Đảng bộ tỉnh Nam Định về tiếp tục thực hiện dồn  
điền, đổi thửa trong sản xuất nông nghiệp.  
11. Vũ Khắc Hòa (1996), Đánh giá hiệu quả kinh tế sử dụng đất canh tác trên địa bàn  
huyện Thuận Thành – tỉnh Hà Bắc, Luận án tiến sỹ nông nghiệp, Trường Đại học  
Nông nghiệp 1 Hà Nội.  
12. Vũ Năng Dũng (2018), Đánh giá một số mô hình đa dạng hóa cây trồng vùng đồng  
bằng song Hồng, NXB Nông nghiệp Hà Nội. tr10  
426  
pdf 16 trang Thùy Anh 18/05/2022 580
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá hiệu quả kinh tế, môi trường, và xã hội của một số mô hình canh tác trên đất sau dồn điền đổi thửa hướng tới cải thiện sinh kế nông dân tại huyện Hải Hậu, Nam Định", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_kinh_te_moi_truong_va_xa_hoi_cua_mot_so_mo.pdf