Bàn về một số quy định liên quan đến đại hội đồng cổ đông theo luật doanh nghiệp năm 2020

THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
BÀN VỀ MỘT SỐ QUY ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG  
THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2020  
Trần Thăng Long*  
Phan Huy Lâm**  
* PGS. TS. Phó Trưởng Khoa Ngoại ngữ Pháp lý, trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh  
** Phòng Công tác sinh viên, Trường Đại học Tiền Giang  
Tóm tắt:  
Thông tin bài viết:  
Nhằm khắc phục các vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn, Luật Doanh  
nghiệp năm 2020 có nhiều quy định mới so với Luật Doanh nghiệp năm 2014.  
Mặc dù vậy, quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 về Đại hội đồng cổ đông  
vẫn còn một số vướng mắc, bất cập. Trong phạm vi bài viết này, các tác giả phân  
tích các quy định của pháp luật liên quan đến Đại hội đồng cổ đông, chỉ ra những  
điểm hạn chế, bất cập và đề xuất giải pháp góp phần bảo đảm cho các quy định  
này được thi hành có hiệu quả trên thực tế.  
Từ khóa: Đại hội đồng cổ đông,  
Luật Doanh nghiệp năm 2020.  
Lịch sử bài viết:  
Nhận bài  
Biên tập  
Duyệt bài  
: 26/3/2021  
: 14/4/2021  
: 16/4/2021  
Abstract:  
Article Infomation:  
The Law on Enterprise of 2020 has introduced new provisions compared to the  
Law on Enterprise of 2014 to overcome its shortcomings and inadequacies from  
practical enforcement for more than 5 years of implementing the Enterprise  
Law 2014. However, the provisions of the Law on Enterprise of 2020 on the  
general meeting of shareholders have been revealing a number of shortcoming  
and inadequacies. Within the scope of this article, the authors provide an analysis  
of the legal provisions related to the general meeting of shareholders, point out  
the limitations and inadequacies and propose solutions to contribute to ensuring  
these regulations effectively to be enforced in practice.  
Keywords: shareholding company,  
shareholders, General Meeting  
of  
Shareholders,  
corporate  
governance, Enterprises Law  
Article History:  
Received  
Edited  
: 26 Mar. 2021  
: 14 Apr. 2021  
: 16 Apr. 2021  
Approved  
1. Thời hạn họp Đại hội đồng cổ đông  
thường niên  
Khoản 2 Điều 139 Luật DN năm 2020 quy  
định: “ĐHĐCĐ phꢂi hꢇp thưꢈng niên trong  
thꢈi hꢉn 04 thꢊng kꢄ từ ngày kết thúc năm tài  
chꢋnh. Trừ trưꢈng hꢌp Điꢃu lꢍ công ty có quy  
định khꢊc, Hꢎi đꢀng quꢂn trị quyết định gia  
hꢉn hꢇp ĐHĐCĐ thưꢈng niên trong trưꢈng  
hꢌp cꢆn thiết, nhưng không quꢊ 06 thꢊng kꢄ  
từ ngày kết thúc năm tài chꢋnh”. Như vậy,  
trường hợp thời hạn để họp ĐHĐCĐ thường  
niên của công ty sẽ được tổ chức vào tháng  
4 hàng năm hay có thể có trường hợp họp  
Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) là cơ  
quan quyền lực nhất của công ty cổ phần, có  
quyền quyết định những vấn đề quan trọng  
liên quan đến sự tồn tại và phát triển của  
công ty cổ phần. Luật Doanh nghiệp (DN)  
năm 2020 quy định: “ĐHĐCĐ gꢀm tꢁt cꢂ  
cổ đông có quyꢃn biꢄu quyết, là cơ quan  
quyết định cao nhꢁt cꢅa công ty cổ phꢆn”1.  
1 Khoản 1 Điều 138 Luật DN năm 2020.  
Số 13(437) - T7/2021  
51  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
trễ hơn do Hội đồng quản trị (HĐQT) quyết  
định. Trong cuộc họp này, nhiều vấn đề sẽ  
được thảo luận và thông qua, trong đó có báo  
cáo tài chính hằng năm của công ty cổ phần2.  
Đồng thời, khoản 1 Điều 176 Luật DN năm  
2020 cũng quy định: “Công ty cổ phꢆn phꢂi  
gửi bꢊo cꢊo tài chꢋnh hằng năm đꢏ đưꢌc  
ĐHĐCĐ thông qua đến cơ quan nhà nưꢐc  
có thẩm quyꢃn theo quy định cꢅa phꢊp luꢑt  
vꢃ kế toꢊn và quy định khꢊc cꢅa phꢊp luꢑt  
có liên quan”. Như vậy, việc tổ chức họp  
ĐHĐCĐ thường niên để thông qua báo cáo  
tài chính hằng năm là điều kiện bắt buộc để  
công ty có thể thực hiện nghĩa vụ nộp báo  
cáo tài chính đến cơ quan nhà nước có thẩm  
quyền theo quy định.  
thời gian và hạn cuối nộp báo cáo tài chính  
của DN hiện nay đã hình thành nếp, thông  
lệ trong hoạt động ngành kế toán và các quy  
định liên quan đến vấn đề này. Vì vậy, để  
bảo đảm sự thống nhất giữa các văn bản luật,  
các tác giả cho rằng, cần sửa đổi khoản 2  
Điều 139 Luật DN năm 2020 theo hướng  
quy định về thời hạn ĐHĐCĐ phải họp  
thường niên trong thời hạn 03 tháng kể từ  
ngày kết thúc năm tài chính.  
2. Điều kiện tiến hành họp và thông qua  
nghị quyết Đại hội đồng cổ đông  
Luật DN năm 2020 quy định điều kiện tiến  
hành họp ĐHĐCĐ là có số cổ đông dự họp  
đại diện trên 50% tổng số phiếu biểu quyết.  
Trường hợp cuộc họp lần thứ nhất không đủ  
điều kiện thì lần thứ hai chỉ cần có số cổ đông  
dự họp từ 33% tổng số phiếu biểu quyết trở  
lên là có thể tiến hành họp ĐHĐCĐ. Quy  
định này giúp cho công ty cổ phần khắc phục  
được tình trạng ĐHĐCĐ phải triệu tập lần  
hai, thậm chí là lần ba do không đủ điều kiện  
về phần trăm cổ đông dự họp. Tuy nhiên, quy  
định này dẫn đến bất cập sau:  
Tuy nhiên, theo quy định của Luật Kế  
toán năm 2015, DN phải có trách nhiệm nộp  
báo cáo tài chính hằng năm cho cơ quan nhà  
nước có thẩm quyền chậm nhất là 90 ngày  
kể từ ngày kết thúc kỳ kết toán năm, tức là  
03 tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính3  
(kỳ kế toán năm là 12 tháng, tính từ đầu  
ngày 01 tháng 01 đến hết ngày 31 tháng 12  
năm dương lịch)4.  
ĐHĐCĐ là cơ quan có quyền quyết định  
cao nhất trong công ty cổ phần, những vấn  
đề được đưa ra biểu quyết trong cuộc họp  
ĐHĐCĐ là những vấn đề hết sức quan trọng  
của DN. Do đó, với việc chỉ cần cổ đông,  
nhóm cổ đông đại diện trên 50% (triệu tập  
lần 1) hoặc thậm chí là chỉ 33% (triệu tập  
lần 2) tổng số phiếu biểu quyết đã có thể tiến  
hành họp, như vậy có thể làm gia tăng khả  
năng chi phối của các cổ đông lớn, làm cho  
việc thâu tóm, kiểm soát của các cổ đông này  
trở nên dễ dàng hơn nhiều. Bởi lẽ, việc các cổ  
đông thiểu số tập hợp lại thành nhóm chiếm  
33% hoặc trên 50% tổng số phiếu biểu quyết  
Như vậy, có thể thấy quy định về vấn đề  
này giữa Luật DN năm 2020 và Luật Kế  
toán năm 2015 có sự mâu thuẫn, chồng chéo  
lẫn nhau. Theo quy định của Luật DN năm  
2020, cuộc họp ĐHĐCĐ thường niên có thể  
được tổ chức họp trong tháng 4 để thông  
qua báo cáo tài chính của năm trước đó. Tuy  
nhiên, trong trường hợp này thì công ty cổ  
phần sẽ không thể tuân thủ thời hạn nộp báo  
cáo tài chính cho cơ quan có thẩm quyền  
theo quy định của Luật Kế toán năm 2015  
do báo cáo tài chính hằng năm phải được  
nộp chậm nhất là cuối tháng 3. Luật Kế toán  
năm 2015 đã có hiệu lực khoảng 5 năm, về  
2 Điểm b khoản 3 Điều 139 Luật DN năm 2020.  
3 Khoản 3 Điều 29 Luật Kế toán năm 2015.  
4 Điểm a khoản 1 Điều 12 Luật Kế toán năm 2015.  
52  
Số 13(437) - T7/2021  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
là không hề dễ dàng; trong khi đó, đối với  
các cổ đông lớn thì dễ dàng hơn. Thậm chí,  
chỉ cần 2 hoặc 3 cổ đông lớn đã có thể đạt  
được tỷ lệ như vậy hoặc cao hơn. Đặc biệt,  
trong mô hình công ty mẹ - công ty con, việc  
công ty mẹ sở hữu trên 50% tổng số phiếu  
biểu quyết là rất phổ biến hiện nay.  
kiện thông qua nghị quyết ĐHĐCĐ có thể  
làm gia tăng khả năng chi phối, kiểm soát  
của cổ đông lớn, dẫn đến việc quyền lợi của  
cổ đông thiểu số sẽ dễ bị ảnh hưởng.  
Để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của cổ đông  
thiểu số, các tác giả cho rằng, cần sửa đổi  
khoản 1 Điều 148 Luật DN năm 2020 theo  
hướng nâng tỷ lệ biểu quyết những vấn đề  
quan trọng từ 65% lên 75% và những vấn  
đề bình thường từ 50% lên 65% như quy  
định của Luật DN năm 2005.  
Bên cạnh đó, điều kiện tối thiểu để nghị  
quyếtĐHĐCĐđượcthôngquađivinhững  
vấn đề quan trọng cũng chỉ cần từ 65% tổng  
số phiếu biểu quyết trở lên của tất cả cổ đông  
dự họp tán thành, đối với các vấn đề thông  
thường thì tỷ lệ này chỉ cần trên 50%. Như  
vậy, trong trường hợp Điều lệ công ty không  
có quy định tỷ lệ khác cao hơn, thì cổ đông  
hoặc nhóm cổ đông dự họp chỉ cần chiếm  
51% tổng số phiếu biểu quyết (bản thân cổ  
đông hoặc nhóm cổ đông này cũng đã đủ  
điều kiện để tiến hành họp) trong cuộc họp  
ĐHĐCĐ có số cổ đông tham dự dưới 78%  
tổng số phiếu biểu quyết thì cổ đông hoặc  
nhóm cổ đông này đã có thể hoàn toàn kiểm  
soát cuộc họp ĐHĐCĐ. Hiểu cách khác, cổ  
đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu 51% tổng  
số phiếu biểu quyết thì chỉ cần tìm cách giới  
hạn số cổ đông đến dự họp dưới 78% thì cổ  
đông hoặc nhóm cổ đông này sẽ dễ dàng nắm  
quyền và thao túng cả cuộc họp ĐHĐCĐ, từ  
đó dễ dàng thông qua nghị quyết ĐHĐCĐ để  
chi phối toàn bộ hoạt động ở công ty cổ phần  
trong thời gian sau đó.  
3. Căn cứ yêu cầu hủy bỏ nghị quyết Đại  
hội đồng cổ đông  
Theo quy định của Luật DN năm 2020,  
Nghị quyết hoặc một phần nội dung Nghị  
quyết ĐHĐCĐ có thể bị Tòa án hoặc Trọng  
tài xem xét hủy bỏ theo yêu cầu của cổ đông  
hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 05% tổng số  
cổ phần phổ thông trở lên. Các căn cứ để  
có thể yêu cầu hủy bỏ nghị quyết hoặc một  
phần nghị quyết ĐHĐCĐ bao gồm: (1)  
“Trình tꢒ, thꢅ tꢓc triꢍu tꢑp hꢇp và ra quyết  
định cꢅa ĐHĐCĐ vi phꢉm nghiêm trꢇng  
quy định cꢅa Luꢑt DN năm 2020 và Điꢃu  
lꢍ công ty” hoặc (2) “nꢎi dung nghị quyết  
vi phꢉm phꢊp luꢑt hoꢔc Điꢃu lꢍ công ty”5.  
Thực tiễn cho thấy, nhiều công ty cổ phần,  
nhất là ở những công ty gia đình hoặc có quy  
mô vốn, cổ đông không quá lớn thường tổ  
chức triệu tập và tiến hành họp ĐHĐCĐ  
một cách sơ sài để tiết kiệm chi phí và thời  
gian. Từ đó dẫn đến nhiều trường hợp khi bị  
ảnh hưởng đến lợi ích, cổ đông hoặc nhóm  
cổ đông dựa vào lý do cuộc họp ĐHĐCĐ  
vi phạm trình tự, thủ tục trong việc triệu tập  
họp hoặc trong việc tiến hành cuộc họp để  
yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét hủy  
toàn bộ nghị quyết ĐHĐCĐ hoặc một phần  
của nghị quyết ĐHĐCĐ. Chính vì vậy, Luật  
Trên thực tế, cổ đông hoặc nhóm cổ  
đông chỉ cần sở hữu 33% tổng số phiếu biểu  
quyết trong cuộc họp ĐHĐCĐ có cổ đông  
tham dự khoảng 50,7% thì cũng có thể hoàn  
toàn kiểm soát cuộc họp ĐHĐCĐ và chính  
cổ đông hoặc nhóm cổ đông này cũng đủ  
điều kiện để tiến hành họp ĐHĐCĐ nếu lần  
triệu tập đầu tiên không đủ điều kiện để tiến  
hành. Từ đây cho thấy, quy định hiện hành  
về điều kiện tiến hành họp ĐHĐCĐ và điều  
5 Điều 151 Luật Doanh nghiệp năm 2020.  
Số 13(437) - T7/2021  
53  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
DN năm 2020 quy định, không phải bất cứ  
trường hợp nào vi phạm về trình tự, thủ tục  
họp ĐHĐCĐ cũng đều là căn cứ để yêu cầu  
hủy bỏ toàn bộ nghị quyết ĐHĐCĐ hoặc  
một phần nghị quyết ĐHĐCĐ, mà chỉ những  
trường hợp vi phạm nghiêm trọng quy định  
của Luật hoặc Điều lệ công ty. Tuy nhiên, do  
Luật DN năm 2020 và các văn bản hướng  
dẫn thi hành không quy định cụ thể thế nào  
là vi phạm nghiêm trọng quy định của Luật  
DN và Điều lệ công ty dẫn đến những cách  
hiểu khác nhau khi xảy ra tranh chấp và việc  
đánh giá vấn đề này hoàn toàn phụ thuộc vào  
nhận định chủ quan của Thẩm phán hoặc  
Trọng tài. Ví dụ, Bản án sơ thẩm số 01/2017/  
QĐKDTM-ST ngày 17/11/2017 và Bản án  
phúc thẩm số 01/2018/QĐKDTM-PT ngày  
30/01/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng  
Trị6 về vụ việc sau:  
và thay mꢔt ĐHĐCĐ mꢐi chꢋnh xꢊc. Trong  
trưꢈng hꢌp này, HĐQT chỉ có thẩm quyꢃn  
triꢍu tꢑp phiên hꢇp bꢁt thưꢈng ĐHĐCĐ chꢕ  
không có thẩm quyꢃn ban hành nghị quyết  
ĐHĐCĐ”. Từ nhận định đó, Tòa án phúc  
thẩm cho rằng “lẽ ra, Tòa ꢊn cꢁp sơ thẩm  
cꢆn xem xét đꢆy đꢅ, toàn diꢍn vꢃ hình thꢕc  
lẫn nꢎi dung cꢅa Nghị quyết ĐHĐCĐ bꢁt  
thưꢈng sꢗ 15/NQ-HĐCĐ ngày 08/7/2017  
cꢅa Công ty cổ phꢆn tư vꢁn xây dꢒng Q đꢄ  
hꢅy bỏ toàn bꢎ Nghị quyết này mꢐi đúng  
phꢊp luꢑt. Tòa ꢊn cꢁp sơ thẩm chỉ chꢁp  
nhꢑn mꢎt phꢆn yêu cꢆu cꢅa bà P đꢄ hꢅy bỏ  
mꢓc 1 và mꢓc 2, công nhꢑn mꢓc 3 và mꢓc  
4 cꢅa Nghị quyết sꢗ 15/NQ-HĐCĐ là chưa  
đúng, ꢂnh hưꢘng đến quyꢃn lꢌi hꢌp phꢊp  
cꢅa đương sꢒ” và chấp nhận toàn bộ yêu  
cầu kháng cáo của bà P.  
Vụ việc trên cho thấy, việc nhận định về  
mức độ nghiêm trọng trong vi phạm về mặt  
hình thức của Nghị quyết ĐHĐCĐ của các  
cấp Tòa án là khác nhau và phụ thuộc hoàn  
toàn vào nhận định chủ quan của Thẩm  
phán chứ không dựa trên bất cứ hướng dẫn  
hay quy định cụ thể nào. Điều này dẫn đến  
tình trạng kéo dài thời gian giải quyết tranh  
chấp qua nhiều cấp Tòa án.  
Nguyên đơn là bà Văn Thị P yêu cầu Tòa  
án hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ bất thường  
số 15/NQ-ĐHCĐ ngày 08/7/2017 của Công  
ty cổ phần tư vấn xây dựng Q. Một trong  
những căn cứ để yêu cầu hủy bỏ nghị quyết  
ĐHĐCĐ nêu trên là do nghị quyết bị sai về  
hình thức: Nghị quyết ĐHĐCĐ bất thường  
nhưng ở phần ký ban hành lại đề “TM.  
HĐQT - Chủ tịch kiêm giám đốc Lê Cảnh H”  
là không đúng pháp luật. Về vấn đề này, tại  
Bản án sơ thẩm số 01/2017/QĐKDTM-ST  
ngày 17/11/2017 của Tòa án nhân dân thành  
phố Đ, tỉnh Quảng Trị không đề cập tới hình  
thức của nghị quyết ĐHĐCĐ bị sai (chủ thể  
ký ban hành) với ý nghĩa là cấp sơ thẩm nhận  
định lỗi ở đây không nghiêm trọng.  
Để khắc phục bất cập nêu trên, các tác  
giả cho rằng, Tòa án nhân dân tối cao cần  
ban hành văn bản hướng dẫn quy định của  
khoản 1 Điều 151 Luật DN năm 2020 về  
trình tꢒ, thꢅ tꢓc triꢍu tꢑp hꢇp và ra quyết  
định cꢅa ĐHĐCĐ vi phꢉm nghiêm trꢇng  
quy định cꢅa Luꢑt DN năm 2020 và Điꢃu  
lꢍ công ty.  
Tuy nhiên trong Bản án phúc thẩm số  
01/2018/QĐKDTM-PT ngày 30/01/2018,  
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị nhận định  
nghị quyết nêu trên “bị sai vꢃ hình thꢕc  
(chꢅ thꢄ kꢖ ban hành). Ngưꢈi kꢖ ban hành  
Nghị quyết ĐHĐCĐ phꢂi là Chꢅ tꢇa đꢉi hꢎi  
Các tác giả cho rằng, những hành vi vi  
phạm nghiêm trọng Luật DN và Điều lệ  
công ty là những hành vi ngăn cản hoặc  
làm ảnh hưởng đến các quyền tham dự họp,  
quyền biểu quyết của cổ đông hoặc làm  
6 http://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta64284t1cvn/chi-tiet-ban-an.  
54  
Số 13(437) - T7/2021  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
sai lệch kết quả biểu quyết, thông qua nghị  
quyết ĐHĐCĐ. Bên cạnh đó, các công ty cổ  
phần không giống nhau về cơ cấu, số lượng  
cổ đông nên việc quy định về trình tự, thủ  
tục, thể thức tiến hành họp ĐHĐCĐ chung  
cho tất cả công ty cổ phần sẽ rất rập khuôn  
và thiếu hợp lý. Do đó, pháp luật không nên  
quy định quá chi tiết về thủ tục, thể thức  
tiến hành họp ĐHĐCĐ mà dành cho Điều  
lệ công ty quy định vấn đề này nhằm bảo  
đảm tính linh hoạt trong việc áp dụng, tránh  
để xảy ra các trường hợp tranh chấp như vụ  
việc nêu trên.  
Mꢎt là, yêu cầu hủy bỏ nghị quyết hoặc  
một phần của nghị quyết ĐHĐCĐ có phải là  
tranh chấp thương mại hay không. Thực tiễn  
cho thấy, đa số vụ việc này được nhận định là  
tranh chấp thương mại, nhưng cũng có một  
số Tòa án nhận định đây là vụ việc dân sự  
như tại Quyết định giải quyết việc dân sự sơ  
thẩm số 18/2017/QĐDS-ST ngày 14/6/2017  
của Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố  
Hồ Chí Minh và sau đó là Bản án phúc thẩm  
số 958/2017/QĐDS-PT ngày 17/10/2017 của  
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh7 về  
việc yêu cầu hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ. Nếu  
vụ việc được xác định không phải là tranh  
chấp kinh doanh thương mại thì không thuộc  
thẩm quyền giải quyết của Trọng tài thương  
mại. Từ đó, dẫn đến rủi ro là nếu chọn giải  
quyết bằng con đường Trọng tài, khi một bên  
không hài lòng với phán quyết của Trọng tài  
thì hoàn toàn có thể dựa vào lý do này để yêu  
cầu Tòa án hủy phán quyết Trọng tài.  
4. Thẩm quyền hủy bỏ nghị quyết Đại hội  
đồng cổ đông  
Như đề cập ở trên, thẩm quyền hủy  
bỏ nghị quyết hoặc một phần nghị quyết  
ĐHĐCĐ thuộc về Tòa án hoặc Trọng  
tài. Thực tế cho thấy, do các vấn đề tranh  
chấp trong nội bộ DN có sức ảnh hưởng  
không hề nhỏ đến uy tín và việc sản xuất,  
kinh doanh của DN. Vì vậy, DN thường  
chọn con đường giải quyết bằng Trọng tài  
nhiều hơn, vì khi chọn Tòa án thì việc giải  
quyết phải theo trình tự thủ tục cứng như:  
công khai nội dung tranh chấp, phải tuân  
thủ theo quy trình tố tụng… Khi đó, DN  
sẽ phải công khai những thông tin bất lợi  
đối với DN (bí quyết kinh doanh, sở hữu  
công nghiệp, doanh thu, vốn…). Bên cạnh  
đó, việc giải quyết theo con đường Tòa án  
sẽ kéo dài thời gian do phải tuân thủ trình  
tự, thủ tục, như vậy, sẽ gây nhiều thiệt hại  
cho DN. Tuy nhiên, các vụ việc giải quyết  
theo con đường Trọng tài cũng rất hạn chế.  
Nguyên nhân của vấn đề này là do khó xác  
định thẩm quyền giải quyết của Trọng tài  
theo Luật Trọng tài thương mại trong việc  
yêu cầu hủy bỏ nghị quyết hoặc một phần  
của nghị quyết ĐHĐCĐ, cụ thể:  
Hai là, vấn đề xác định chủ thể tranh chấp  
trong các tranh chấp yêu cầu hủy bỏ nghị  
quyết ĐHĐCĐ cũng không dễ dàng: là tranh  
chấp phát sinh giữa cổ đông với ĐHĐCĐ  
hay giữa cổ đông với Công ty? Thậm chí  
phức tạp hơn là trường hợp như trong Bản  
án sơ thẩm số 01/2017/QĐKDTM-ST ngày  
17/11/2017 của Tòa án nhân dân thành phố  
Đ, tỉnh Quảng Trị và Bản án phúc thẩm số  
01/2018/QĐKDTM-PT ngày 30/01/2018  
của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị nêu ở  
trên: Tòa án sơ thẩm xác định đây là tranh  
chấp cá nhân “chứ không phải với tư cách  
là cổ đông hoặc nhóm cổ đông”; Tòa án  
cấp phúc thẩm xác định đây là tranh chấp  
giữa cổ đông, nhóm cổ đông với công ty  
vì nguyên đơn khởi kiện là cổ đông, nhóm  
cổ đông 12,93% tổng số cổ phần phổ thông  
của công ty. Trong khi đó, Luật Trọng tài  
thương mại quy định một trong những điều  
7 http://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta481595t1cvn/chi-tiet-ban-an  
Số 13(437) - T7/2021  
55  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
kiện tiên quyết nhất để tranh chấp có thể  
giải quyết bằng Trọng tài là các bên phải có  
thỏa thuận trọng tài8. Vì vậy, nếu không xác  
định được rõ các chủ thể trong tranh chấp  
thì làm thế nào biết được giữa các chủ thể  
này có thỏa thuận trọng tài hay không?  
thậm chí các quyết định nội bộ phát sinh từ  
nghị quyết ĐHĐCĐ sẽ được xử lý thế nào?  
Hậu quả pháp lý đối với DN, cổ đông, đối  
tác của công ty và những người có liên quan  
sẽ được giải quyết ra sao khi các giao dịch,  
hợp đồng phát sinh từ nghị quyết ĐHĐCĐ  
bị tuyên hủy sẽ có khả năng bị vô hiệu?  
Thậm chí, trường hợp nghị quyết ĐHĐCĐ  
liên quan đến việc huy động vốn bằng phát  
hành cổ phần của công ty bị hủy bỏ thì số cổ  
phần mới đã phát hành theo nghị quyết của  
ĐHĐCĐ sẽ phải xử lý như thế nào? Đặc  
biệt, trong thời điểm hiện tại, đa số các vụ  
tranh chấp liên quan đến việc yêu cầu hủy  
bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ đều được thực hiện  
bằng con đường Tòa án, nhiều vụ việc phải  
trải qua nhiều cấp xét xử trong một thời  
gian dài.  
Do đó, với các quy định hiện nay sẽ rất  
khó để các vụ việc tranh chấp liên quan đến  
việc yêu cầu hủy bỏ nghị quyết hoặc một  
phần nghị quyết của ĐHĐCĐ được giải  
quyết bằng phương thức Trọng tài.  
Để khắc phục bất cập nêu trên, các tác  
giả cho rằng, Tòa án nhân dân tối cao cần  
ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể việc  
xác định quan hệ tranh chấp liên quan đến  
yêu cầu hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ là tranh  
chấp kinh doanh thương mại để thống nhất  
áp dụng trong phạm vi cả nước.  
Để khắc phục bất cập nêu trên, pháp luật  
cần quy định theo hướng: Trong trường hợp  
nghị quyết ĐHĐCĐ có một số nội dung vi  
phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty thì chỉ  
hủy bỏ hiệu lực của các nội dung này, các  
nội dung khác trong nghị quyết ĐHĐCĐ  
được thông qua hợp pháp thì vẫn có hiệu  
lực thi hành. Việc này giúp DN có thể ổn  
định hoạt động sản xuất kinh doanh khi có  
xảy ra tranh chấp nội bộ liên quan đến yêu  
cầu hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ. Bên cạnh  
đó, nhằm ngăn ngừa tình trạng cá nhân,  
trong thời gian Tòa án hoặc Trọng tài đang  
xem xét vụ việc yêu cầu hủy bỏ nghị quyết  
ĐHĐCĐ, dựa vào nghị quyết ĐHĐCĐ trái  
pháp luật gây thiệt hại cho công ty, Điều  
152 Luật DN năm 2020 cần được sửa đổi  
theo hướng bổ sung quy định: “Trưꢈng hꢌp  
nghị quyết ĐHĐCĐ bị hꢅy bỏ, ngưꢈi quꢂn  
lꢖ công ty cổ phꢆn phꢂi chịu trꢊch nhiꢍm  
bꢀi thưꢈng thiꢍt hꢉi phꢊt sinh do hành vi vi  
5. Hiệu lực của nghị quyết Đại hội đồng  
cổ đông  
Luật DN năm 2020 quy định hiệu lực  
của nghị quyết ĐHĐCĐ có hiệu lực kꢄ  
từ ngày đưꢌc thông qua hoꢔc từ thꢈi điꢄm  
có hiꢍu lꢒc ghi tꢉi nghị quyết đó”. Trong  
trường hợp nghị quyết ĐHĐCĐ bị cổ đông  
hoặc nhóm cổ đông yêu cầu Tòa án hoặc  
Trọng tài xem xét hủy bỏ thì “nghị quyết đó  
vẫn có hiꢍu lꢒc cho đến khi quyết định hꢅy  
bỏ nghị quyết đó cꢅa Tòa ꢊn hoꢔc Trꢇng tài  
có hiꢍu lꢒc”9.  
Có thể thấy rằng, quy định này giúp DN  
tháo gỡ nhiều khó khăn, ổn định tình hình  
sản xuất kinh doanh khi có phát sinh tranh  
chấp liên quan đến nghị quyết của ĐHĐCĐ.  
Tuy nhiên, quy định này cũng có thể dẫn  
đến một số vướng mắc trong trường hợp  
Tòa án hoặc Trọng tài tuyên hủy nghị quyết  
ĐHĐCĐ thì những giao dịch, hợp đồng,  
phꢉm Luꢑt DN và Điꢃu lꢍ công ty gây ra”  
8 Khoản 1 Điều 5 Luật Trọng tài thương mại năm 2010.  
9 Điều 152 Luật Doanh nghiệp năm 2020.  
56  
Số 13(437) - T7/2021  
pdf 6 trang Thùy Anh 18/05/2022 480
Bạn đang xem tài liệu "Bàn về một số quy định liên quan đến đại hội đồng cổ đông theo luật doanh nghiệp năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfban_ve_mot_so_quy_dinh_lien_quan_den_dai_hoi_dong_co_dong_th.pdf