Bàn về một số quy định liên quan đến đại hội đồng cổ đông theo luật doanh nghiệp năm 2020
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
BÀN VỀ MỘT SỐ QUY ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2020
Trần Thăng Long*
Phan Huy Lâm**
* PGS. TS. Phó Trưởng Khoa Ngoại ngữ Pháp lý, trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
** Phòng Công tác sinh viên, Trường Đại học Tiền Giang
Tóm tắt:
Thông tin bài viết:
Nhằm khắc phục các vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn, Luật Doanh
nghiệp năm 2020 có nhiều quy định mới so với Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Mặc dù vậy, quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 về Đại hội đồng cổ đông
vẫn còn một số vướng mắc, bất cập. Trong phạm vi bài viết này, các tác giả phân
tích các quy định của pháp luật liên quan đến Đại hội đồng cổ đông, chỉ ra những
điểm hạn chế, bất cập và đề xuất giải pháp góp phần bảo đảm cho các quy định
này được thi hành có hiệu quả trên thực tế.
Từ khóa: Đại hội đồng cổ đông,
Luật Doanh nghiệp năm 2020.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài
Biên tập
Duyệt bài
: 26/3/2021
: 14/4/2021
: 16/4/2021
Abstract:
Article Infomation:
The Law on Enterprise of 2020 has introduced new provisions compared to the
Law on Enterprise of 2014 to overcome its shortcomings and inadequacies from
practical enforcement for more than 5 years of implementing the Enterprise
Law 2014. However, the provisions of the Law on Enterprise of 2020 on the
general meeting of shareholders have been revealing a number of shortcoming
and inadequacies. Within the scope of this article, the authors provide an analysis
of the legal provisions related to the general meeting of shareholders, point out
the limitations and inadequacies and propose solutions to contribute to ensuring
these regulations effectively to be enforced in practice.
Keywords: shareholding company,
shareholders, General Meeting
of
Shareholders,
corporate
governance, Enterprises Law
Article History:
Received
Edited
: 26 Mar. 2021
: 14 Apr. 2021
: 16 Apr. 2021
Approved
1. Thời hạn họp Đại hội đồng cổ đông
thường niên
Khoản 2 Điều 139 Luật DN năm 2020 quy
định: “ĐHĐCĐ phꢂi hꢇp thưꢈng niên trong
thꢈi hꢉn 04 thꢊng kꢄ từ ngày kết thúc năm tài
chꢋnh. Trừ trưꢈng hꢌp Điꢃu lꢍ công ty có quy
định khꢊc, Hꢎi đꢀng quꢂn trị quyết định gia
hꢉn hꢇp ĐHĐCĐ thưꢈng niên trong trưꢈng
hꢌp cꢆn thiết, nhưng không quꢊ 06 thꢊng kꢄ
từ ngày kết thúc năm tài chꢋnh”. Như vậy,
trường hợp thời hạn để họp ĐHĐCĐ thường
niên của công ty sẽ được tổ chức vào tháng
4 hàng năm hay có thể có trường hợp họp
Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) là cơ
quan quyền lực nhất của công ty cổ phần, có
quyền quyết định những vấn đề quan trọng
liên quan đến sự tồn tại và phát triển của
công ty cổ phần. Luật Doanh nghiệp (DN)
năm 2020 quy định: “ĐHĐCĐ gꢀm tꢁt cꢂ
cổ đông có quyꢃn biꢄu quyết, là cơ quan
quyết định cao nhꢁt cꢅa công ty cổ phꢆn”1.
1 Khoản 1 Điều 138 Luật DN năm 2020.
Số 13(437) - T7/2021
51
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
trễ hơn do Hội đồng quản trị (HĐQT) quyết
định. Trong cuộc họp này, nhiều vấn đề sẽ
được thảo luận và thông qua, trong đó có báo
cáo tài chính hằng năm của công ty cổ phần2.
Đồng thời, khoản 1 Điều 176 Luật DN năm
2020 cũng quy định: “Công ty cổ phꢆn phꢂi
gửi bꢊo cꢊo tài chꢋnh hằng năm đꢏ đưꢌc
ĐHĐCĐ thông qua đến cơ quan nhà nưꢐc
có thẩm quyꢃn theo quy định cꢅa phꢊp luꢑt
vꢃ kế toꢊn và quy định khꢊc cꢅa phꢊp luꢑt
có liên quan”. Như vậy, việc tổ chức họp
ĐHĐCĐ thường niên để thông qua báo cáo
tài chính hằng năm là điều kiện bắt buộc để
công ty có thể thực hiện nghĩa vụ nộp báo
cáo tài chính đến cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo quy định.
thời gian và hạn cuối nộp báo cáo tài chính
của DN hiện nay đã hình thành nếp, thông
lệ trong hoạt động ngành kế toán và các quy
định liên quan đến vấn đề này. Vì vậy, để
bảo đảm sự thống nhất giữa các văn bản luật,
các tác giả cho rằng, cần sửa đổi khoản 2
Điều 139 Luật DN năm 2020 theo hướng
quy định về thời hạn ĐHĐCĐ phải họp
thường niên trong thời hạn 03 tháng kể từ
ngày kết thúc năm tài chính.
2. Điều kiện tiến hành họp và thông qua
nghị quyết Đại hội đồng cổ đông
Luật DN năm 2020 quy định điều kiện tiến
hành họp ĐHĐCĐ là có số cổ đông dự họp
đại diện trên 50% tổng số phiếu biểu quyết.
Trường hợp cuộc họp lần thứ nhất không đủ
điều kiện thì lần thứ hai chỉ cần có số cổ đông
dự họp từ 33% tổng số phiếu biểu quyết trở
lên là có thể tiến hành họp ĐHĐCĐ. Quy
định này giúp cho công ty cổ phần khắc phục
được tình trạng ĐHĐCĐ phải triệu tập lần
hai, thậm chí là lần ba do không đủ điều kiện
về phần trăm cổ đông dự họp. Tuy nhiên, quy
định này dẫn đến bất cập sau:
Tuy nhiên, theo quy định của Luật Kế
toán năm 2015, DN phải có trách nhiệm nộp
báo cáo tài chính hằng năm cho cơ quan nhà
nước có thẩm quyền chậm nhất là 90 ngày
kể từ ngày kết thúc kỳ kết toán năm, tức là
03 tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính3
(kỳ kế toán năm là 12 tháng, tính từ đầu
ngày 01 tháng 01 đến hết ngày 31 tháng 12
năm dương lịch)4.
ĐHĐCĐ là cơ quan có quyền quyết định
cao nhất trong công ty cổ phần, những vấn
đề được đưa ra biểu quyết trong cuộc họp
ĐHĐCĐ là những vấn đề hết sức quan trọng
của DN. Do đó, với việc chỉ cần cổ đông,
nhóm cổ đông đại diện trên 50% (triệu tập
lần 1) hoặc thậm chí là chỉ 33% (triệu tập
lần 2) tổng số phiếu biểu quyết đã có thể tiến
hành họp, như vậy có thể làm gia tăng khả
năng chi phối của các cổ đông lớn, làm cho
việc thâu tóm, kiểm soát của các cổ đông này
trở nên dễ dàng hơn nhiều. Bởi lẽ, việc các cổ
đông thiểu số tập hợp lại thành nhóm chiếm
33% hoặc trên 50% tổng số phiếu biểu quyết
Như vậy, có thể thấy quy định về vấn đề
này giữa Luật DN năm 2020 và Luật Kế
toán năm 2015 có sự mâu thuẫn, chồng chéo
lẫn nhau. Theo quy định của Luật DN năm
2020, cuộc họp ĐHĐCĐ thường niên có thể
được tổ chức họp trong tháng 4 để thông
qua báo cáo tài chính của năm trước đó. Tuy
nhiên, trong trường hợp này thì công ty cổ
phần sẽ không thể tuân thủ thời hạn nộp báo
cáo tài chính cho cơ quan có thẩm quyền
theo quy định của Luật Kế toán năm 2015
do báo cáo tài chính hằng năm phải được
nộp chậm nhất là cuối tháng 3. Luật Kế toán
năm 2015 đã có hiệu lực khoảng 5 năm, về
2 Điểm b khoản 3 Điều 139 Luật DN năm 2020.
3 Khoản 3 Điều 29 Luật Kế toán năm 2015.
4 Điểm a khoản 1 Điều 12 Luật Kế toán năm 2015.
52
Số 13(437) - T7/2021
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
là không hề dễ dàng; trong khi đó, đối với
các cổ đông lớn thì dễ dàng hơn. Thậm chí,
chỉ cần 2 hoặc 3 cổ đông lớn đã có thể đạt
được tỷ lệ như vậy hoặc cao hơn. Đặc biệt,
trong mô hình công ty mẹ - công ty con, việc
công ty mẹ sở hữu trên 50% tổng số phiếu
biểu quyết là rất phổ biến hiện nay.
kiện thông qua nghị quyết ĐHĐCĐ có thể
làm gia tăng khả năng chi phối, kiểm soát
của cổ đông lớn, dẫn đến việc quyền lợi của
cổ đông thiểu số sẽ dễ bị ảnh hưởng.
Để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của cổ đông
thiểu số, các tác giả cho rằng, cần sửa đổi
khoản 1 Điều 148 Luật DN năm 2020 theo
hướng nâng tỷ lệ biểu quyết những vấn đề
quan trọng từ 65% lên 75% và những vấn
đề bình thường từ 50% lên 65% như quy
định của Luật DN năm 2005.
Bên cạnh đó, điều kiện tối thiểu để nghị
quyếtĐHĐCĐđượcthôngquađốivớinhững
vấn đề quan trọng cũng chỉ cần từ 65% tổng
số phiếu biểu quyết trở lên của tất cả cổ đông
dự họp tán thành, đối với các vấn đề thông
thường thì tỷ lệ này chỉ cần trên 50%. Như
vậy, trong trường hợp Điều lệ công ty không
có quy định tỷ lệ khác cao hơn, thì cổ đông
hoặc nhóm cổ đông dự họp chỉ cần chiếm
51% tổng số phiếu biểu quyết (bản thân cổ
đông hoặc nhóm cổ đông này cũng đã đủ
điều kiện để tiến hành họp) trong cuộc họp
ĐHĐCĐ có số cổ đông tham dự dưới 78%
tổng số phiếu biểu quyết thì cổ đông hoặc
nhóm cổ đông này đã có thể hoàn toàn kiểm
soát cuộc họp ĐHĐCĐ. Hiểu cách khác, cổ
đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu 51% tổng
số phiếu biểu quyết thì chỉ cần tìm cách giới
hạn số cổ đông đến dự họp dưới 78% thì cổ
đông hoặc nhóm cổ đông này sẽ dễ dàng nắm
quyền và thao túng cả cuộc họp ĐHĐCĐ, từ
đó dễ dàng thông qua nghị quyết ĐHĐCĐ để
chi phối toàn bộ hoạt động ở công ty cổ phần
trong thời gian sau đó.
3. Căn cứ yêu cầu hủy bỏ nghị quyết Đại
hội đồng cổ đông
Theo quy định của Luật DN năm 2020,
Nghị quyết hoặc một phần nội dung Nghị
quyết ĐHĐCĐ có thể bị Tòa án hoặc Trọng
tài xem xét hủy bỏ theo yêu cầu của cổ đông
hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 05% tổng số
cổ phần phổ thông trở lên. Các căn cứ để
có thể yêu cầu hủy bỏ nghị quyết hoặc một
phần nghị quyết ĐHĐCĐ bao gồm: (1)
“Trình tꢒ, thꢅ tꢓc triꢍu tꢑp hꢇp và ra quyết
định cꢅa ĐHĐCĐ vi phꢉm nghiêm trꢇng
quy định cꢅa Luꢑt DN năm 2020 và Điꢃu
lꢍ công ty” hoặc (2) “nꢎi dung nghị quyết
vi phꢉm phꢊp luꢑt hoꢔc Điꢃu lꢍ công ty”5.
Thực tiễn cho thấy, nhiều công ty cổ phần,
nhất là ở những công ty gia đình hoặc có quy
mô vốn, cổ đông không quá lớn thường tổ
chức triệu tập và tiến hành họp ĐHĐCĐ
một cách sơ sài để tiết kiệm chi phí và thời
gian. Từ đó dẫn đến nhiều trường hợp khi bị
ảnh hưởng đến lợi ích, cổ đông hoặc nhóm
cổ đông dựa vào lý do cuộc họp ĐHĐCĐ
vi phạm trình tự, thủ tục trong việc triệu tập
họp hoặc trong việc tiến hành cuộc họp để
yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét hủy
toàn bộ nghị quyết ĐHĐCĐ hoặc một phần
của nghị quyết ĐHĐCĐ. Chính vì vậy, Luật
Trên thực tế, cổ đông hoặc nhóm cổ
đông chỉ cần sở hữu 33% tổng số phiếu biểu
quyết trong cuộc họp ĐHĐCĐ có cổ đông
tham dự khoảng 50,7% thì cũng có thể hoàn
toàn kiểm soát cuộc họp ĐHĐCĐ và chính
cổ đông hoặc nhóm cổ đông này cũng đủ
điều kiện để tiến hành họp ĐHĐCĐ nếu lần
triệu tập đầu tiên không đủ điều kiện để tiến
hành. Từ đây cho thấy, quy định hiện hành
về điều kiện tiến hành họp ĐHĐCĐ và điều
5 Điều 151 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
Số 13(437) - T7/2021
53
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
DN năm 2020 quy định, không phải bất cứ
trường hợp nào vi phạm về trình tự, thủ tục
họp ĐHĐCĐ cũng đều là căn cứ để yêu cầu
hủy bỏ toàn bộ nghị quyết ĐHĐCĐ hoặc
một phần nghị quyết ĐHĐCĐ, mà chỉ những
trường hợp vi phạm nghiêm trọng quy định
của Luật hoặc Điều lệ công ty. Tuy nhiên, do
Luật DN năm 2020 và các văn bản hướng
dẫn thi hành không quy định cụ thể thế nào
là vi phạm nghiêm trọng quy định của Luật
DN và Điều lệ công ty dẫn đến những cách
hiểu khác nhau khi xảy ra tranh chấp và việc
đánh giá vấn đề này hoàn toàn phụ thuộc vào
nhận định chủ quan của Thẩm phán hoặc
Trọng tài. Ví dụ, Bản án sơ thẩm số 01/2017/
QĐKDTM-ST ngày 17/11/2017 và Bản án
phúc thẩm số 01/2018/QĐKDTM-PT ngày
30/01/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Trị6 về vụ việc sau:
và thay mꢔt ĐHĐCĐ mꢐi chꢋnh xꢊc. Trong
trưꢈng hꢌp này, HĐQT chỉ có thẩm quyꢃn
triꢍu tꢑp phiên hꢇp bꢁt thưꢈng ĐHĐCĐ chꢕ
không có thẩm quyꢃn ban hành nghị quyết
ĐHĐCĐ”. Từ nhận định đó, Tòa án phúc
thẩm cho rằng “lẽ ra, Tòa ꢊn cꢁp sơ thẩm
cꢆn xem xét đꢆy đꢅ, toàn diꢍn vꢃ hình thꢕc
lẫn nꢎi dung cꢅa Nghị quyết ĐHĐCĐ bꢁt
thưꢈng sꢗ 15/NQ-HĐCĐ ngày 08/7/2017
cꢅa Công ty cổ phꢆn tư vꢁn xây dꢒng Q đꢄ
hꢅy bỏ toàn bꢎ Nghị quyết này mꢐi đúng
phꢊp luꢑt. Tòa ꢊn cꢁp sơ thẩm chỉ chꢁp
nhꢑn mꢎt phꢆn yêu cꢆu cꢅa bà P đꢄ hꢅy bỏ
mꢓc 1 và mꢓc 2, công nhꢑn mꢓc 3 và mꢓc
4 cꢅa Nghị quyết sꢗ 15/NQ-HĐCĐ là chưa
đúng, ꢂnh hưꢘng đến quyꢃn lꢌi hꢌp phꢊp
cꢅa đương sꢒ” và chấp nhận toàn bộ yêu
cầu kháng cáo của bà P.
Vụ việc trên cho thấy, việc nhận định về
mức độ nghiêm trọng trong vi phạm về mặt
hình thức của Nghị quyết ĐHĐCĐ của các
cấp Tòa án là khác nhau và phụ thuộc hoàn
toàn vào nhận định chủ quan của Thẩm
phán chứ không dựa trên bất cứ hướng dẫn
hay quy định cụ thể nào. Điều này dẫn đến
tình trạng kéo dài thời gian giải quyết tranh
chấp qua nhiều cấp Tòa án.
Nguyên đơn là bà Văn Thị P yêu cầu Tòa
án hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ bất thường
số 15/NQ-ĐHCĐ ngày 08/7/2017 của Công
ty cổ phần tư vấn xây dựng Q. Một trong
những căn cứ để yêu cầu hủy bỏ nghị quyết
ĐHĐCĐ nêu trên là do nghị quyết bị sai về
hình thức: Nghị quyết ĐHĐCĐ bất thường
nhưng ở phần ký ban hành lại đề “TM.
HĐQT - Chủ tịch kiêm giám đốc Lê Cảnh H”
là không đúng pháp luật. Về vấn đề này, tại
Bản án sơ thẩm số 01/2017/QĐKDTM-ST
ngày 17/11/2017 của Tòa án nhân dân thành
phố Đ, tỉnh Quảng Trị không đề cập tới hình
thức của nghị quyết ĐHĐCĐ bị sai (chủ thể
ký ban hành) với ý nghĩa là cấp sơ thẩm nhận
định lỗi ở đây không nghiêm trọng.
Để khắc phục bất cập nêu trên, các tác
giả cho rằng, Tòa án nhân dân tối cao cần
ban hành văn bản hướng dẫn quy định của
khoản 1 Điều 151 Luật DN năm 2020 về
trình tꢒ, thꢅ tꢓc triꢍu tꢑp hꢇp và ra quyết
định cꢅa ĐHĐCĐ vi phꢉm nghiêm trꢇng
quy định cꢅa Luꢑt DN năm 2020 và Điꢃu
lꢍ công ty.
Tuy nhiên trong Bản án phúc thẩm số
01/2018/QĐKDTM-PT ngày 30/01/2018,
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị nhận định
nghị quyết nêu trên “bị sai vꢃ hình thꢕc
(chꢅ thꢄ kꢖ ban hành). Ngưꢈi kꢖ ban hành
Nghị quyết ĐHĐCĐ phꢂi là Chꢅ tꢇa đꢉi hꢎi
Các tác giả cho rằng, những hành vi vi
phạm nghiêm trọng Luật DN và Điều lệ
công ty là những hành vi ngăn cản hoặc
làm ảnh hưởng đến các quyền tham dự họp,
quyền biểu quyết của cổ đông hoặc làm
6 http://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta64284t1cvn/chi-tiet-ban-an.
54
Số 13(437) - T7/2021
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
sai lệch kết quả biểu quyết, thông qua nghị
quyết ĐHĐCĐ. Bên cạnh đó, các công ty cổ
phần không giống nhau về cơ cấu, số lượng
cổ đông nên việc quy định về trình tự, thủ
tục, thể thức tiến hành họp ĐHĐCĐ chung
cho tất cả công ty cổ phần sẽ rất rập khuôn
và thiếu hợp lý. Do đó, pháp luật không nên
quy định quá chi tiết về thủ tục, thể thức
tiến hành họp ĐHĐCĐ mà dành cho Điều
lệ công ty quy định vấn đề này nhằm bảo
đảm tính linh hoạt trong việc áp dụng, tránh
để xảy ra các trường hợp tranh chấp như vụ
việc nêu trên.
Mꢎt là, yêu cầu hủy bỏ nghị quyết hoặc
một phần của nghị quyết ĐHĐCĐ có phải là
tranh chấp thương mại hay không. Thực tiễn
cho thấy, đa số vụ việc này được nhận định là
tranh chấp thương mại, nhưng cũng có một
số Tòa án nhận định đây là vụ việc dân sự
như tại Quyết định giải quyết việc dân sự sơ
thẩm số 18/2017/QĐDS-ST ngày 14/6/2017
của Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố
Hồ Chí Minh và sau đó là Bản án phúc thẩm
số 958/2017/QĐDS-PT ngày 17/10/2017 của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh7 về
việc yêu cầu hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ. Nếu
vụ việc được xác định không phải là tranh
chấp kinh doanh thương mại thì không thuộc
thẩm quyền giải quyết của Trọng tài thương
mại. Từ đó, dẫn đến rủi ro là nếu chọn giải
quyết bằng con đường Trọng tài, khi một bên
không hài lòng với phán quyết của Trọng tài
thì hoàn toàn có thể dựa vào lý do này để yêu
cầu Tòa án hủy phán quyết Trọng tài.
4. Thẩm quyền hủy bỏ nghị quyết Đại hội
đồng cổ đông
Như đề cập ở trên, thẩm quyền hủy
bỏ nghị quyết hoặc một phần nghị quyết
ĐHĐCĐ thuộc về Tòa án hoặc Trọng
tài. Thực tế cho thấy, do các vấn đề tranh
chấp trong nội bộ DN có sức ảnh hưởng
không hề nhỏ đến uy tín và việc sản xuất,
kinh doanh của DN. Vì vậy, DN thường
chọn con đường giải quyết bằng Trọng tài
nhiều hơn, vì khi chọn Tòa án thì việc giải
quyết phải theo trình tự thủ tục cứng như:
công khai nội dung tranh chấp, phải tuân
thủ theo quy trình tố tụng… Khi đó, DN
sẽ phải công khai những thông tin bất lợi
đối với DN (bí quyết kinh doanh, sở hữu
công nghiệp, doanh thu, vốn…). Bên cạnh
đó, việc giải quyết theo con đường Tòa án
sẽ kéo dài thời gian do phải tuân thủ trình
tự, thủ tục, như vậy, sẽ gây nhiều thiệt hại
cho DN. Tuy nhiên, các vụ việc giải quyết
theo con đường Trọng tài cũng rất hạn chế.
Nguyên nhân của vấn đề này là do khó xác
định thẩm quyền giải quyết của Trọng tài
theo Luật Trọng tài thương mại trong việc
yêu cầu hủy bỏ nghị quyết hoặc một phần
của nghị quyết ĐHĐCĐ, cụ thể:
Hai là, vấn đề xác định chủ thể tranh chấp
trong các tranh chấp yêu cầu hủy bỏ nghị
quyết ĐHĐCĐ cũng không dễ dàng: là tranh
chấp phát sinh giữa cổ đông với ĐHĐCĐ
hay giữa cổ đông với Công ty? Thậm chí
phức tạp hơn là trường hợp như trong Bản
án sơ thẩm số 01/2017/QĐKDTM-ST ngày
17/11/2017 của Tòa án nhân dân thành phố
Đ, tỉnh Quảng Trị và Bản án phúc thẩm số
01/2018/QĐKDTM-PT ngày 30/01/2018
của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị nêu ở
trên: Tòa án sơ thẩm xác định đây là tranh
chấp cá nhân “chứ không phải với tư cách
là cổ đông hoặc nhóm cổ đông”; Tòa án
cấp phúc thẩm xác định đây là tranh chấp
giữa cổ đông, nhóm cổ đông với công ty
vì nguyên đơn khởi kiện là cổ đông, nhóm
cổ đông 12,93% tổng số cổ phần phổ thông
của công ty. Trong khi đó, Luật Trọng tài
thương mại quy định một trong những điều
7 http://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta481595t1cvn/chi-tiet-ban-an
Số 13(437) - T7/2021
55
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
kiện tiên quyết nhất để tranh chấp có thể
giải quyết bằng Trọng tài là các bên phải có
thỏa thuận trọng tài8. Vì vậy, nếu không xác
định được rõ các chủ thể trong tranh chấp
thì làm thế nào biết được giữa các chủ thể
này có thỏa thuận trọng tài hay không?
thậm chí các quyết định nội bộ phát sinh từ
nghị quyết ĐHĐCĐ sẽ được xử lý thế nào?
Hậu quả pháp lý đối với DN, cổ đông, đối
tác của công ty và những người có liên quan
sẽ được giải quyết ra sao khi các giao dịch,
hợp đồng phát sinh từ nghị quyết ĐHĐCĐ
bị tuyên hủy sẽ có khả năng bị vô hiệu?
Thậm chí, trường hợp nghị quyết ĐHĐCĐ
liên quan đến việc huy động vốn bằng phát
hành cổ phần của công ty bị hủy bỏ thì số cổ
phần mới đã phát hành theo nghị quyết của
ĐHĐCĐ sẽ phải xử lý như thế nào? Đặc
biệt, trong thời điểm hiện tại, đa số các vụ
tranh chấp liên quan đến việc yêu cầu hủy
bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ đều được thực hiện
bằng con đường Tòa án, nhiều vụ việc phải
trải qua nhiều cấp xét xử trong một thời
gian dài.
Do đó, với các quy định hiện nay sẽ rất
khó để các vụ việc tranh chấp liên quan đến
việc yêu cầu hủy bỏ nghị quyết hoặc một
phần nghị quyết của ĐHĐCĐ được giải
quyết bằng phương thức Trọng tài.
Để khắc phục bất cập nêu trên, các tác
giả cho rằng, Tòa án nhân dân tối cao cần
ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể việc
xác định quan hệ tranh chấp liên quan đến
yêu cầu hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ là tranh
chấp kinh doanh thương mại để thống nhất
áp dụng trong phạm vi cả nước.
Để khắc phục bất cập nêu trên, pháp luật
cần quy định theo hướng: Trong trường hợp
nghị quyết ĐHĐCĐ có một số nội dung vi
phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty thì chỉ
hủy bỏ hiệu lực của các nội dung này, các
nội dung khác trong nghị quyết ĐHĐCĐ
được thông qua hợp pháp thì vẫn có hiệu
lực thi hành. Việc này giúp DN có thể ổn
định hoạt động sản xuất kinh doanh khi có
xảy ra tranh chấp nội bộ liên quan đến yêu
cầu hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ. Bên cạnh
đó, nhằm ngăn ngừa tình trạng cá nhân,
trong thời gian Tòa án hoặc Trọng tài đang
xem xét vụ việc yêu cầu hủy bỏ nghị quyết
ĐHĐCĐ, dựa vào nghị quyết ĐHĐCĐ trái
pháp luật gây thiệt hại cho công ty, Điều
152 Luật DN năm 2020 cần được sửa đổi
theo hướng bổ sung quy định: “Trưꢈng hꢌp
nghị quyết ĐHĐCĐ bị hꢅy bỏ, ngưꢈi quꢂn
lꢖ công ty cổ phꢆn phꢂi chịu trꢊch nhiꢍm
bꢀi thưꢈng thiꢍt hꢉi phꢊt sinh do hành vi vi
5. Hiệu lực của nghị quyết Đại hội đồng
cổ đông
Luật DN năm 2020 quy định hiệu lực
của nghị quyết ĐHĐCĐ có hiệu lực “kꢄ
từ ngày đưꢌc thông qua hoꢔc từ thꢈi điꢄm
có hiꢍu lꢒc ghi tꢉi nghị quyết đó”. Trong
trường hợp nghị quyết ĐHĐCĐ bị cổ đông
hoặc nhóm cổ đông yêu cầu Tòa án hoặc
Trọng tài xem xét hủy bỏ thì “nghị quyết đó
vẫn có hiꢍu lꢒc cho đến khi quyết định hꢅy
bỏ nghị quyết đó cꢅa Tòa ꢊn hoꢔc Trꢇng tài
có hiꢍu lꢒc”9.
Có thể thấy rằng, quy định này giúp DN
tháo gỡ nhiều khó khăn, ổn định tình hình
sản xuất kinh doanh khi có phát sinh tranh
chấp liên quan đến nghị quyết của ĐHĐCĐ.
Tuy nhiên, quy định này cũng có thể dẫn
đến một số vướng mắc trong trường hợp
Tòa án hoặc Trọng tài tuyên hủy nghị quyết
ĐHĐCĐ thì những giao dịch, hợp đồng,
phꢉm Luꢑt DN và Điꢃu lꢍ công ty gây ra”
8 Khoản 1 Điều 5 Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
9 Điều 152 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
56
Số 13(437) - T7/2021
Bạn đang xem tài liệu "Bàn về một số quy định liên quan đến đại hội đồng cổ đông theo luật doanh nghiệp năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
ban_ve_mot_so_quy_dinh_lien_quan_den_dai_hoi_dong_co_dong_th.pdf