Thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm tại tòa án

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT  
TRANH CHẤP BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO TÍNH MẠNG,  
SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM TẠI TÕA ÁN  
Phan Thị Hồng  
Nguyễn Thị Lê Huyền  
Người phản biện:TS. Nguyễn Thị Thúy Hằng  
Tóm tắt  
Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự (BLDS)  
2015 đã có những sửa đổi đáng quan tâm nhƣ: điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi  
thƣờng đã loại bỏ yếu tố lỗi, cấu trúc của chƣơng XX đã đƣợc xây dựng lại theo hƣớng  
sắp xếp logic hơn, điều luật đƣợc gọt dũa cô đọng, súc tích phản ánh quá trình luật hóa  
thực tiễn xét xử. Điều đó chứng minh rằng, thực tiễn xét xử tranh chấp về bồi thƣờng  
thiệt hại ngoài hợp đồng đã có những đóng góp không nhỏ trong quá trình sửa đổi, bổ  
sung BLDS 2015. Tuy nhiên, bên cạnh những bản án có giá trị nghiên cứu lập pháp  
vẫn còn tồn tại những trƣờng hợp Tòa án vận dụng chƣa đúng những quy định của  
BLDS dẫn đến việc giải quyết các tranh chấp về bồi thƣờng thiệt hại do tính mạng, sức  
khỏe bị xâm phạm chƣa thực sự thuyết phục, chƣa bảo vệ đƣợc quyền, lợi ích hợp  
pháp của đƣơng sự.  
Bài viết tập trung phân tích một số bản án đã đƣợc Tòa án giải quyết từ sau khi  
BLDS 2015 có hiệu lực nhằm làm rõ thực trạng giải quyết tranh chấp về bồi thƣờng  
thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp  
góp phần nâng cao hiệu quả xét xử.  
Từ khóa: giải quyết tranh chấp, bồi thƣờng thiệt hại, tính mạng, sức khỏe, xâm  
phạm.  
Résumé  
Le Code civil 2015 a eu des modifications intéressantes sur la responsabilité pour  
dommages non contractuels telles que: les conditions qui donnent lieu à une  
indemnisation éliminant le facteur d'erreur; la reconstruction de la structure du chapitre  
XX vers un arrangement plus logique, les dispositions plus nette et concise reflètent la  
ThS., GV khoa Luật dân sự, trƣờng Đại học Luật, Đại học Huế.  
 ThS., GV khoa Luật dân sự, trƣờng Đại học Luật, Đại học Huế.  
71  
légifération du procès judiciaire. Cela prouve que, la résolution en pratique des litiges  
relatifs à l'indemnisation des dommages non contractuels a contribué de manière  
significative à la révision et l‟addition du Code civil de 2015. Cependant, outre les  
jugements à valeur de recherche législative, il existe encore des cas où la Cour  
n'applique pas correctement les dispositions du Code civil. Par conséquent, la  
résolution des litiges relatifs aux litiges de dommages - intérêts pour la violation de la  
vie humaine et de la santé n‟est pas vraiment convaincu, et pas encore protéger les  
droits légaux et les intérêts des parties.  
L'article se concentre sur l'analyse de plusieurs arrêts résolus par la Cour  
après l'entrée en vigueur du Code civil de 2015 afin de clarifier le statut du règlement  
des litiges de dommages - intérêts pour la violation de la vie humaine et de la santé.  
Sur cette base, l‟auteur propose des solutions pour améliorer l'efficacité des procès  
devant les tribunaux.  
Mots clés: résolution de litige, réparation des dommages, la vie humaine, la  
santé, infraction.  
1. Đặt vấn đề  
Bồi thƣờng thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm là một loại trách nhiệm  
dân sự, trong đó chủ thể bị áp dụng những chế tài bất lợi về mặt vật chất khi có hành  
vi trái pháp luật hoặc để tài sản gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của chủ thể  
khác. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm do hành vi của con ngƣời gây ra hoặc do tài  
sản gây ra đều phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng. Bộ luật dân sự 2015 đã có những quy  
định cụ thể về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng tại Điều 584. Đây là lần  
đầu tiên BLDS có sự phân biệt rạch ròi giữa căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng  
do ngƣời gây ra và trách nhiệm bồi thƣờng do tài sản gây ra. Theo đó, trách nhiệm bồi  
thƣờng thiệt hại do ngƣời gây ra đƣợc quy định tại khoản 1 Điều 584 gồm ba căn cứ  
làm phát sinh: (1) Có thiệt hại xảy ra; (2) Có hành vi trái pháp luật; (3) Có mối quan  
hệ nhân – quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. Trách nhiệm bồi thƣờng  
thiệt hại do tài sản gây ra đƣợc quy định tại khoản 3 điều này với nội dung: trƣờng hợp  
72  
i sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, ngƣời chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi  
thƣờng, trừ trƣờng hợp quy định tại khoản 269 điều này.  
Về nguyên tắc chung, khi có thiệt hại do ngƣời hay do tài sản gây ra xâm phạm  
đến tính mạng, sức khỏe con ngƣời thì vấn đề trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại đƣợc  
đặt ra và các căn cứ nêu trên sẽ đƣợc Tòa án vận dụng vào từng trƣờng hợp cụ thể để  
quyết định có phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng hay không và mức bồi thƣờng cụ thể  
nhƣ thế nào. Công việc tƣởng chừng rất đơn giản nhƣng khi vận dụng vào thực tiễn lại  
không hề đơn giản do nhiều nguyên nhân khác nhau: đánh giá không đúng các căn cứ  
làm phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng, nhầm lẫn giữa các loại trách nhiệm bồi thƣờng  
do ngƣời gây ra và do tài sản gây ra, xác định thiệt hại đƣợc bồi thƣờng mang tính chất  
chủ quan, định tính.  
2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp bồi thƣờng thiệt  
hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm  
Khi tính mạng, sức khỏe của một cá nhân bị xâm phạm thì đặt ra vấn đề trách  
nhiệm bồi thƣờng thiệt hại. Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do tính mạng, sức khỏe  
bị xâm phạm đã đƣợc đề cập đến từ lâu trong cổ luật Việt Nam không phân biệt do lỗi  
cố ý hay vô ý. Chẳng hạn, theo Điều 466 Bộ Quốc Triều hình luật: "đánh ngƣời gẫy  
răng, sứt tai mũi, chột một mắt, gẫy ngón chân, ngón tay, giập xƣơng, hay lấy nƣớc sôi  
lửa làm ngƣời bị thƣơng và rụng tóc, thì xử tội đồ làm khao đinh"70 . Tƣơng tự, Điều  
494: "ngƣời trông nom công dịch mà đánh ngƣời phục dịch đến chết, thì xử tội đồ, và  
phải phạt một nửa số tiền đền mạng"; theo Điều 497 "trong khi đánh nhau lỡ đánh  
nhầm phải ngƣời xung quanh bị thƣơng hay đến chết, thì xử nhẹ hơn tội đánh chết  
ngƣời một bậc".71 Bộ luật dân sự 2015 tại khoản 1 Điều 584 cũng quy định rõ: "ngƣời  
nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe (…) của ngƣời khác mà gây thiệt hại  
thì phải bồi thƣờng". Tƣơng tự, tại khoản 3 Điều này: "trƣờng hợp tài sản gây thiệt hại  
thì chủ sở hữu, ngƣời chiếm hữu tài sản phải bồi thƣờng". Nhƣ vậy, khi tính mạng, sức  
khỏe bị xâm phạm bởi hành vi trái pháp luật của con ngƣời hoặc bởi tài sản mà có  
thiệt hại xảy ra thì phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng. Quy định nêu trên của BLDS  
69 Khoản này quy định về các trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm bồi thƣờng: ngƣời gây thiệt hại không phải chịu  
trách nhiệm bồi thƣờng trong trƣờng hợp thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của  
ngƣời bị thiệt hại.  
70 Viện sử học Việt Nam, Nhà xuất bản tƣ pháp, Quốc triều hình luật, Hà Nội, 2013, tr 205.  
71 Viện sử học Việt Nam, Tlđd, tr. 219, 220.  
73  
2015 đã phân biệt căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thành hai loại cụ thể: trách  
nhiệm bồi thƣờng do tài sản gây ra và trách nhiệm bồi thƣờng do ngƣời gây ra.  
Đối với trƣờng hợp tài sản gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho ngƣời khác,  
BLDS quy định trách nhiệm bồi thƣờng thuộc về chủ sở hữu, ngƣời chiếm hữu tài sản  
không phân biệt chiếm hữu hợp pháp hay bất hợp pháp. Vì vậy, đối với loại trách  
nhiệm bồi thƣờng này, khi phát sinh thiệt hại chỉ cần xác định tài sản gây thiệt hại  
đang thuộc sở hữu hoặc chiếm hữu của chủ thể nào để xác định trách nhiệm bồi  
thƣờng. Trƣờng hợp hành vi của con ngƣời gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho  
ngƣời khác khi xác định trách nhiệm bồi thƣờng cần phân tích đầy đủ các căn cứ làm  
phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng tại khoản 1 Điều 584. Theo quy định này, có thể xác  
định căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng gồm ba căn cứ sau đây: thứ nhất, có thiệt  
hại xảy ra; thứ hai, có hành vi trái pháp luật và thứ ba, có mối quan hệ nhân – quả giữa  
hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. Về căn cứ thứ nhất, thiệt hại xảy ra trong  
trƣờng hợp tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm là thiệt hại do nạn nhân chết hoặc tổn  
hại về sức khỏe. Vì vậy, sẽ phát sinh các chi phí về vật chất nhƣ tiền thuê xe cấp cứu,  
tiền nhập viện, thuốc men, chi phí nhằm phục hồi sức khỏe, chức năng bị mất, bị giảm  
sút, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút,….; trƣờng hợp tính mạng bị xâm phạm thì  
ngoài các khoản thiệt hại về sức khỏe nêu trên (nếu có), thiệt hại còn bao gồm chi phí  
mai táng, tiền cấp dƣỡng cho những ngƣời mà ngƣời bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp  
dƣỡng trƣớc khi chết,…gọi chung là thiệt hại về vật chất. Ngoài những thiệt hại về vật  
chất kể trên, việc tính mạng, sức khỏe của cá nhân bị xâm phạm sẽ gây nên những tổn  
thất về tinh thần cho chính họ hoặc cho những ngƣời thân thích của họ, chính vì vậy,  
BLDS còn quy định bên gây thiệt hại còn phải bồi thƣờng khoản tiền nhằm bù đắp tổn  
thất về tinh thần cho ngƣời bị thiệt hại hoặc những ngƣời thân thích của ngƣời chết.  
Tuy nhiên, khi tính mạng, sức khỏe một ngƣời bị thiệt hại, để có căn cứ quyết định  
việc bồi thƣờng còn cần phải dựa vào hai căn cứ khác nữa là có hành vi trái pháp luật  
hay không và có mối quan hệ nhân – quả giữa hành vi và thiệt hại hay không. Hành vi  
trái pháp luật của con ngƣời có thể thể hiện bằng hành động hoặc không hành động  
nhƣng phải thể hiện ra bên ngoài và cách xử sự đó là pháp luật không cho phép hoặc  
pháp luật yêu cầu mà chủ thể không thực hiện. Mọi suy nghĩ dù có tàn ác đến đâu  
nhƣng không thể hiện ra hành vi thì không bị coi là hành vi trái pháp luật. Hành vi trái  
74  
pháp luật và hậu quả cá nhân chết/ bị thiệt hại về sức khỏe phải có mối quan hệ với  
nhau trên cơ sở cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả của phép biện chứng duy vật của  
Chủ nghĩa Mác – Lê nin. Theo nguyên lý này, nguyên nhân chỉ sự tác động qua lại  
giữa các sự vật, hiện tƣợng hoặc giữa các mặt trong một sự vật, hiện tƣợng dẫn đến  
những biến đổi nhất định. Kết quả chỉ sự biến đổi do sự tác động giữa các sự vật, hiện  
tƣợng hay giữ các mặt trong một sự vật, hiện tƣợng với nhau. Điều đó có nghĩa rằng,  
về mặt thời gian nguyên nhân là hành vi trái pháp luật phải có trƣớc, kết quả là tính  
mạng, sức khỏe bị thiệt hại có sau. Hành vi là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại và thiệt  
hại là kết quả do hành vi gây nên. Nếu đáp ứng đủ ba căn cứ kể trên thì phát sinh trách  
nhiệm bồi thƣờng thiệt hại mà không cần xem xét yếu tố lỗi của ngƣời gây ra thiệt hại.  
Việc xem xét lỗi chỉ có ý nghĩa trong trƣờng hợp có nhiều ngƣời cùng gây thiệt hại  
hoặc trong trƣờng hợp bên gây ra thiệt hại xin giảm mức bồi thƣờng do hoàn cảnh  
kinh tế khó khăn72.  
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử của Tòa án nhiều trƣờng hợp vẫn chƣa đánh giá đầy  
đủ các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng, gây ảnh hƣởng không nhỏ đến  
chất lƣợng hoạt động xét xử và chƣa bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đƣơng sự. Một số  
vụ việc đƣợc viện dẫn sau đây là những ví dụ cụ thể.  
Vụ việc thứ nhất xảy ra vào năm 2016 đƣợc Tòa án nhân dân huyện V tỉnh Hà  
Giang xét xử sơ thẩm vào ngày 18/6/2018 và Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xử phúc  
thẩm vào ngày 22/10/201873, Tòa án áp dụng BLDS 2015 để giải quyết. Nội dung vụ  
việc có thể tóm lƣợc nhƣ sau: Vào ngày 03/4/2016, anh Nông Văn L điều khiển xe mô  
tô mang biển kiểm soát 23D1-020.38 đi ăn đám cƣới về đến đoạn Km18 cổng nghĩa  
trang liệt sĩ huyện V thì va chạm với xe ô tô của anh Phùng Đình H2 khi đó đang xi  
nhan rẽ trái tại đoạn đƣờng đƣợc phép quay đầu để quay đầu xe. Khi xe sang đƣờng thì  
xe mô tô của anh L đâm vào xe ô tô anh H2 khiến xe mô tô va vào dƣới gầm xe anh  
H2 còn anh L bị văng ra ngoài đƣờng. Sau khi sự việc xảy ra, anh H2 xuống xe hô  
hoán mọi ngƣời đƣa anh L đi cấp cứu. Do bị thƣơng quá nặng, anh L đã tử vong, anh  
72 Bộ luật dân sự quy định: Trƣờng hợp nhiều ngƣời cùng gây thiệt hại thì những ngƣời đó phải liên đới bồi  
thƣờng chi ngƣời bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thƣờng của từng ngƣời đƣợc xác định tƣơng ứng với mức độ lỗi  
của mỗi ngƣời (Điều 587). Ngƣời chịu trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại có thể đƣợc giảm mức bồi thƣờng nếu  
không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình (khoản 2 Điều 585).  
73 http://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta173619t1cvn/chi-tiet-ban-an, Bản án số 16/2018/DS-PT của TAND tỉnh  
Hà Giang "Vv đòi bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng", cập nhật lần cuối ngày  
19/5/2019.  
75  
H2 sợ hãi bỏ trốn. Đến ngày 04/4/2016, anh H2 ra công an huyện V trình báo sự việc  
và đã tự nguyện hỗ trợ gia đình nạn nhân 10 triệu đồng để mai táng cho anh L. Theo  
kết luận của công an huyện V tại bản Thông báo kết quả giải quyết tố giác, tin báo về  
tội phạm số 17 ngày 09/9/2016 thì anh Nông Văn L điều khiển xe mô tô trong tình  
trạng hơi thở có nồng độ cồn 0,599mg/lít khí thở, không chú ý quan sát khi phía trƣớc  
có xe ô tô đi cùng chiều đang quay đầu, vƣợt ẩu là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến vụ  
tai nạn.  
Tại Bản án số 02/2018/DS-ST ngày 18/6/2018, Tòa án nhân dân huyện V đã áp  
dụng BLDS 2015, xử chấp nhận đơn yêu khởi kiện về việc "đòi bồi thƣờng thiệt hại về  
tính mạng bị xâm phạm do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra" của chị H1 (vợ anh L),  
buộc anh H2 chịu trách nhiệm bồi thƣờng toàn bộ thiệt hại về vật chất và tinh thần cho  
gia đình chị H1. Bản án sau đó bị kháng cáo, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang đã xét xử  
theo thủ tục phúc thẩm và nhận định: "trong vụ án này tai nạn giao thông xảy ra thuộc  
trƣờng hợp cả hai bên cùng có lỗi gián tiếp" và xác định anh Phùng Đình H2 có lỗi bỏ  
trốn sau khi gây tai nạn để trốn tránh trách nhiệm là vi phạm khoản 17 Điều 8 Luật  
giao thông đƣờng bộ. Tòa án cũng đã căn cứ khoản 3 Điều 601 BLDS nhận định  
trƣờng hợp này thuộc loại trách nhiệm bồi thƣờng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.  
Vì vậy, Tòa án quyết định chấp nhận một phần yêu cầu của chị H1, buộc anh H2 bồi  
thƣờng ½ thiệt hại cho gia đình anh L.  
Trong vụ việc này, Tòa án hai cấp chƣa đánh giá đầy đủ các căn cứ phát sinh  
trách nhiệm bồi thƣờng. Đặc biệt, chƣa làm rõ đƣợc mối quan hệ nhân – quả giữa hành  
vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. Đây là căn cứ quan trọng nhất ảnh hƣởng đến  
quyết định của Tòa án vì nó kết luận có phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng hay không  
và bồi thƣờng ở mức độ nào. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là Tòa án đã thiếu sót trong  
việc đánh giá chứng cứ. Thứ nhất, Tòa án cấp sơ thẩm đã bỏ qua kết luận của cơ quan  
công an huyện V kết luận về nguyên nhân dẫn đến tai nạn để tuyên anh H2 hoàn toàn  
có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại và phải bồi thƣờng, Tòa án cấp phúc thẩm có  
đánh giá chứng cứ này nhƣng lại cho rằng thiệt hại bị gây ra thuộc trƣờng hợp lỗi hỗn  
hợp. Thứ hai, Tòa án đánh giá sai hành vi của anh H2 sau khi tai nạn xảy ra. Hành vi  
bỏ trốn của anh H2 xảy ra sau khi có thiệt hại nên không có mối quan hệ nhân – quả  
với thiệt hại xảy ra. Mặt khác, sau khi tai nạn xảy ra, anh H2 đã hô hoán mọi ngƣời  
76  
đƣa nạn nhân đi cấp cứu, sau khi biết anh L chết thì anh H2 mới bỏ trốn cho nên hành  
vi này không phải là nguyên nhân dẫn đến cái chết của anh L và cái chết của anh L  
cũng không phải là kết quả do hành vi này gây ra. Nếu xét về mặt thời gian, hành vi  
xuất hiện sau khi có thiệt hại xảy ra nên không đáp ứng nguyên lý của Chủ nghĩa Mác  
– Lê nin về cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả. Chƣa kể đến việc Tòa án cho rằng  
đây là hành vi trái pháp luật, vi phạm quy định tại khoản 17 Điều 8 Luật giao thông  
đƣờng bộ. Luật này quy định hành vi bị cấm là bỏ trốn sau khi "gây" tai nạn nhƣng  
anh H2 không "gây" tai nạn theo kết luận của công an huyện V. Phán quyết của Tòa án  
hai cấp tỉnh Hà Giang đã xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của anh H2.  
Xét ở một góc độ khác, theo quy định của BLDS 2015 thì thiệt hại do nguồn  
nguy hiểm cao độ gây ra đƣợc nhà làm luật xây dựng theo hƣớng xác định là trách  
nhiệm bồi thƣờng do tài sản gây ra. Tuy nhiên, cách hƣớng dẫn trong Nghị quyết số  
03/2006/NQ-HĐTP74 của Tòa án nhân dân tối cao lại nhập nhằng giữa thiệt hại do  
nguồn nguy hiểm tự thân vận động gây ra và thiệt hại do hành vi con ngƣời gây ra có  
liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ75. Điều này tác động không nhỏ tới quá trình  
giải quyết tranh chấp của Tòa án cấp dƣới, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay. Bởi vì,  
nếu đồng nhất thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ tự thân vận động gây thiệt hại và  
thiệt hại do hành vi con ngƣời sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây ra sẽ áp dụng  
không chính xác căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng tại khoản 1 và khoản 3 Điều  
584 BLDS 2015. Tất cả thiệt hại bị gây ra bởi hành vi của con ngƣời đều phải đƣợc  
xác định thuộc trách nhiệm bồi thƣờng do ngƣời gây ra quy định tại khoản 1 Điều 584  
BLDS 2015. Trên cơ sở đó, cần phải phân tích đầy đủ ba căn cứ làm phát sinh trách  
nhiệm bồi thƣờng quy định tại khoản này để có cơ sở kết luận phát sinh trách nhiệm  
bồi thƣờng hay không và trách nhiệm bồi thƣờng ở mức độ nào.  
Một vụ việc khác xảy ra vào năm 2016 đƣợc Tòa án nhân dân huyện B tỉnh Bình  
Dƣơng xét xử sơ thẩm vào năm 2018 và Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dƣơng xét xử  
74 Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8 tháng 7 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao  
hƣớng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng.  
75 Chẳng hạn, một ví dụ mà Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP đƣa ra để minh họa khi hƣớng dẫn về việc xác định  
ai là ngƣời chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ: "A là chủ sở hữu xe ô tô đã giao xe ô tô đó cho B. B lái  
xe ô tô tham gia giao thông đã gây tai nạn và gây thiệt hại thì cần phải phân biệt: nếu B chỉ đƣợc A thuê lái ô tô  
và đƣợc trả tiền công, có nghĩa B không phải là ngƣời chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà A vẫn chiếm hữu, sủ  
dụng; do đó, A phải bồi thƣờng thiệt hại". Ví dụ này đã đồng nhất giữa việc thiệt hại bị gây ra do chính nguồn  
nguy hiểm cao độ (xe ô tô) và thiệt hại do hành vi con ngƣời sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.  
77  
phúc thẩm vào tháng 4/2019. Tòa án cấp sơ thẩm đánh giá chƣa đầy đủ các căn cứ làm  
phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định Tòa sơ thẩm giải  
quyết nhƣ vậy chƣa đúng với quy định của BLDS 2015 nhƣng do đƣơng sự không  
kháng cáo nội dung này nên Tòa phúc thẩm không xem xét. Tuy nhiên, Tòa này cũng  
không yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm. Nội dung vụ việc thứ hai có  
thể tóm lƣợc nhƣ sau: Trong quá trình thi hành án dân sự của một bản án đã đƣợc Tòa  
án xét xử trƣớc đó, giữa bên đƣợc thi hành án là ông P và ngƣời phải thi hành án là bà  
A đã xảy ra cãi vã và xô xát. Ông P và con ông P là C2 bị công an huyện B xử phạt vi  
phạm hành chính về hành vi gây thƣơng tích cho bà A. Quá trình giằng co, bà A cũng  
có hành vi dùng cây củi đánh C2 nhƣng không trúng, nắm tóc, cào xé nhau và cả hai  
bên đều có thƣơng tích. Kết luận giám định pháp y xác định thƣơng tật của bà A là  
02%, thiệt hại này có một phần lỗi của bà A. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định buộc ông  
P và C2 phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thƣờng cho bà A số tiền 10.590.859 đồng,  
không tính thiệt hại về tinh thần do cả hai bên cùng có lỗi và thiệt hại không nghiêm  
trọng. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định trƣờng hợp thiệt hại nêu trên bị gây ra có lỗi  
hỗn hợp nhƣng do bị đơn không kháng cáo nên không xem xét, tuyên giữ nguyên bản  
án sơ thẩm.76  
Trong vụ việc thứ hai này, thiệt hại bị gây ra có mối quan hệ nhân – quả với hai  
hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật của ông P và C2 là nguyên nhân dẫn đến  
thiệt hại cho bà A nhƣng hành vi của bà A dùng cây củi đánh tuy không trúng, nắm  
tóc, cào xé cũng là một trong những nguyên nhân gây ra thiệt hại cho bà A. Đặc biệt,  
kết luận giám định pháp y cũng chỉ rõ trong tỉ lệ thƣơng tật 02% cũng có một phần lỗi  
của bà A. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã không đánh giá đầy đủ mối quan hệ nhân  
– quả giữa hành vi và thiệt hại nên chỉ buộc ông P và C2 liên đới bồi thƣờng cho bà A  
mà không buộc bà A phải chịu một phần trách nhiệm là thiếu sót trong đánh giá chứng  
cứ, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của ông P và C2.  
Bên cạnh đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà A có bị thiệt hại về sức khỏe và  
đƣợc bồi thƣờng nhƣng lại không tính thiệt hại về tinh thần cho bà A, quan điểm này  
cũng đƣợc Tòa án cấp phúc thẩm đồng tình là hoàn toàn không phù hợp với quy định  
76 https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta278178t1cvn/chi-tiet-ban-an, Bn án s80/2019/DS-PT ngày 26/4/2019  
ca TAND tỉnh Bình Dƣơng "Vv tranh chấp bồi thƣờng thit hi do sc khe bxâm phm", cp nht ln cui  
vào 19/5/2019.  
78  
của BLDS và hƣớng dẫn tại nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP: "trong mọi trƣờng hợp,  
khi sức khỏe bị xâm phạm, ngƣời bị thiệt hại đƣợc bồi thƣờng khoản tiền bù đắp tổn  
thất về tinh thần"77. Thực tế không hiếm trƣờng hợp, Tòa án cấp phúc thẩm không  
chấp nhận hƣớng xử lý tƣơng tự nhƣ trên của Tòa sơ thẩm. Chẳng hạn, theo một Bản  
án, Tòa phúc thẩm đã nhận định: "Riêng về tổn thất tinh thần, chị L yêu cầu bồi  
thƣờng 7.000.000 đồng, Tòa sơ thẩm không chấp nhận là không đúng quy định của  
pháp luật. Với lý do thƣơng tích do tai nạn gây ra là gãy cổ tay kín, không ảnh hƣởng  
đến thẩm mỹ, không bị bạn bè xa lánh, không bị mất hoặc giảm sút uy tín. Trong khi  
luật không đặt ra các điều kiện để có tổn thất tinh thần nhƣ Tòa sơ thẩm đã liệt kê. Vì  
vậy cần phải buộc chị D bồi thƣờng một khoản tiền tổn thất tinh thần cho chị L là phù  
hợp."78 Những trƣờng hợp quyết định nhƣ Tòa sơ thẩm nêu trên có lẽ nguyên nhân  
xuất phát từ việc vẫn còn "dƣ âm" của hƣớng dẫn trong Nghị quyết số 01/2004/NQ-  
HĐTP khi áp dụng BLDS 1995.  
3. Một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả xét xử  
Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về bồi thƣờng thiệt hại do tính mạng, sức  
khỏe bị xâm phạm trong thời gian qua đã góp phần tích cực trong hoạt động xét xử của  
Tòa án. Trong quá trình xét xử, các Tòa án đã thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng,  
nguyên tắc độc lập xét xử và nguyên tắc suy đoán vô tội; các phán quyết của Tòa án  
bảo đảm đúng pháp luật, bảo vệ công lý, quyền con ngƣời, quyền công dân79. Tỷ lệ các  
bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi của Tòa án giảm dần qua các năm (năm 2016 là  
1,3%; năm 2017 là 1,2% và năm 2018 là 1,14%), đáp ứng đƣợc yêu cầu của Quốc hội;  
chất lƣợng xét xử đƣợc bảo đảm80. Tuy nhiên, nhƣ đã trình bày, bên cạnh đó còn có  
một số trƣờng hợp cần rút kinh nghiệm về mặt thực tiễn cũng nhƣ cần có sự điều chỉnh  
về văn bản để hoạt động xét xử đảm bảo tốt hơn nữa. Trên cơ sở phân tích thực tiễn áp  
dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp bồi thƣờng thiệt hại do tính mạng, sức  
77 Tiểu mục 1.5 mục 1 phần II Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8 tháng 7 năm 2006 của Hội đồng thẩm  
phán Tòa án nhân dân tối cao hƣớng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thƣờng thiệt  
hại ngoài hợp đồng.  
78 https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta273241t1cvn/chi-tiet-ban-an, Bản án số 69/2019/DS-PT của TAND tỉnh  
Kiên Giang ngày 24/4/2019 "Vv tranh chấp về bồi thƣờng thiệt hại sức khỏe, tài sản bị xâm phạm", cập nhật lần  
cuối vào ngày 19/5/2019.  
79 https://congly.vn/hoat-dong-toa-an/tieu-diem/tand-thuc-hien-co-hieu-qua-cac-giai-phap-dot-pha-hoan-thanh-  
tot-nhiem-vu-duoc-giao-240108.html, cập nhật lần cuối ngày 18/5/2019.  
80 https://www.toaan.gov.vn/webcenter/portal/tatc/chi-tiet-chi-dao-dieu-hanh?dDocName=TAND058690, Tòa  
án nhân dân Tối cao, Báo cáo tóm tắt công tác Tòa án từ đầu nhiệm kỳ đến nay và năm 2018 nhiệm vụ trọng tâm  
thời gian tới, cập nhật lần cuối ngày 18/5/2019.  
79  
khỏe bị xâm phạm, tác giả mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau đây nhằm góp phần  
nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án các cấp:  
Thứ nhất, khi giải quyết tranh chấp bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng nói  
chung và trƣờng hợp bồi thƣờng thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm nói  
riêng, Tòa án cần tuân thủ triệt để nguyên tắc đánh giá đầy đủ các căn cứ phát sinh  
trách nhiệm bồi thƣờng. Đảm bảo đáp ứng đủ căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng  
mới phải chịu trách nhiệm. Trƣờng hợp thiệt hại do nhiều hành vi gây ra cần phân biệt  
nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân thứ yếu, vận dụng triệt để nguyên lý của Chủ  
nghĩa Mác – Lê nin về cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả trong đánh giá chứng cứ  
để có phán quyết phù hợp với thiệt hại do mỗi hành vi gây ra.  
Thứ hai, Tòa án cần xác định trƣờng hợp vụ việc đƣợc thụ lý giải quyết thuộc  
loại trách nhiệm bồi thƣờng do ngƣời gây ra hay do tài sản gây ra để có cơ sở áp dụng  
đúng căn cứ pháp lý. Tránh nhầm lẫn giữa các loại trách nhiệm bồi thƣờng dẫn đến  
quá trình áp dụng pháp luật không có căn cứ, nhận định trong bản án thiếu tính thuyết  
phục.  
Thứ ba, việc xác định các loại thiệt hại về vật chất và tinh thần cần tuân thủ quy  
định của BLDS và hƣớng dẫn tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP. Đặc biệt, thiệt hại  
về tinh thần trong mọi trƣờng hợp khi tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm thì bên bị  
thiệt hại đều đƣợc bồi thƣờng khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Mức bồi thƣờng  
tùy thuộc vào mức độ tổn thất tinh thần trong từng trƣờng hợp và phụ thuộc vào các  
chứng cứ mà đƣơng sự cung cấp cũng nhƣ Tòa án thu thập đƣợc, ví dụ: vị trí của  
ngƣời bị thiệt hại trong gia đình và xã hội, nghề nghiệp họ đang làm, thiệt hại nặng  
hay nhẹ,…để có cơ sở quyết định mức bồi thƣờng về tinh thần.  
Thứ tƣ, khi có điều kin, Tòa án nhân dân Ti cao cn ban hành Nghquyết mi  
thay thế Nghquyết 03/2006 vì văn bản này hƣớng dn cho BLDS 2005. Phn trích  
yếu ca Nghquyết rõ ràng không còn phù hp ktthời điểm BLDS 2015 có hiu  
lực. Hơn nữa, ti Phần III hƣớng dn vbồi thƣờng thit hi do ngun nguy him cao  
độ gây ra đã gây nhầm ln trong quá trình áp dng. Mt sví dmà Nghquyết dùng  
để minh họa trong quá trình hƣớng dẫn đã đồng nht thit hi do tthân ngun nguy  
hiểm cao độ gây thit hi và thit hại do hành vi con ngƣời sdng ngun nguy him  
cao độ gây ra. Điều này đã không còn phù hợp vi tinh thn ca BLDS 2015. Trong  
80  
tƣơng lai, nếu có điều kin ban hành Nghquyết mới hƣớng dn vbồi thƣờng thit  
hi ngoài hợp đồng, nhng ví dminh ha cần đƣợc thiết kế theo hƣớng nguyên nhân  
dẫn đến thit hi phi do ngun nguy hiểm cao độ tthân gây ra. Chng hn, ví dụ  
đƣợc minh ha tại điểm đ tiểu mc 2 mc III Nghquyết 03/2006 nhƣ sau: "A là chủ  
shữu xe ô tô đã giao xe ô tô đó cho B. B lái xe ô tô tham gia giao thông đã gây tai  
nn và gây thit hi thì cn phi phân bit:  
- Nếu B chỉ được A thuê lái xe ô tô và được trtiền công, có nghĩa B không phải  
là người chiếm hu, sdng xe ô tô đó mà A vẫn chiếm hu, sdụng; do đó, A phải  
bồi thường thit hi." Phn gch chân cho thy ví dụ này đồng nht gia thit hi do  
hành vi lái xe ô tô gây ra và thit hi do tthân ngun nguy hiểm cao độ (ô tô) gây ra  
(nguyên nhân dẫn đến thit hi là do hành vi con ngƣời sdng ngun nguy him cao  
độ gây ra chkhông phi do bn thân ngun nguy hiểm cao độ gây ra). Sthuyết phc  
hơn nếu sa li phn gch chân: "B lái xe ô tô tham gia giao thông trên đường, đột  
nhiên xe bnlp và gây thit hi". Do đó, khi ban hành Nghquyết mi, cn có  
hƣớng dn phân bit thit hi do ngun nguy hiểm cao độ gây ra và thit hi bgây ra  
bởi hành vi con ngƣời trong quá trình chiếm hu, sdng ngun nguy hiểm cao đ.  
4. Kết luận  
Tóm lại, thực tiễn xét xử tranh chấp về bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng đã có  
những đóng góp không nhỏ trong quá trình sửa đổi, bổ sung BLDS 2015. Thể hiện ở  
việc BLDS 2015 đã có nhiều sửa đổi đáng quan tâm nhƣ: điều kiện làm phát sinh trách  
nhiệm bồi thƣờng đã loại bỏ yếu tố lỗi, cấu trúc của chƣơng XX đã đƣợc xây dựng lại  
theo hƣớng sắp xếp logic hơn, điều luật đƣợc gọt dũa cô đọng, súc tích phản ánh quá  
trình luật hóa thực tiễn xét xử. Tuy nhiên, nhƣ đã phân tích, bên cạnh những bản án có  
giá trị nghiên cứu lập pháp vẫn còn tồn tại những trƣờng hợp Tòa án vận dụng chƣa  
đúng những quy định của BLDS dẫn đến việc giải quyết các tranh chấp về bồi thƣờng  
thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm chƣa thực sự thuyết phục, chƣa bảo vệ  
tốt quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Những luận giải và phân tích trong bài viết  
mong muốn góp phần tích cực hơn trong việc nâng cao hiệu quả xét xử, đáp ứng mục  
tiêu của ngành Tòa án đề ra trong thời gian tới: tiếp tục thực hiện 14 giải pháp đột phá  
để nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác Tòa án./.  
81  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số  
03/2006/NQ-HĐTP ngày 8 tháng 7 năm 2006 hƣớng dẫn áp dụng một số quy định  
của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng.  
2. Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật dân sự,  
Nxb.  
Chính trị quốc gia, Hà Nội.  
3. Viện sử học Việt Nam (2013), Quốc triều hình luật, Nxb. tƣ pháp, Hà Nội.  
16/2018/DS-PT của TAND tỉnh Hà Giang "Vv đòi bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp  
đồng về sức khỏe, tính mạng", cập nhật lần cuối ngày 19/5/2019.  
80/2019/DS-PT ngày 26/4/2019 ca TAND tỉnh Bình Dƣơng "Vv tranh chấp bi  
thƣờng thit hi do sc khe bxâm phm", cp nht ln cui vào 19/5/2019.  
69/2019/DS-PT của TAND tỉnh Kiên Giang ngày 24/4/2019 "Vv tranh chấp về bồi  
thƣờng thiệt hại sức khỏe, tài sản bị xâm phạm", cập nhật lần cuối vào ngày  
19/5/2019.  
ngày 18/5/2019.  
8.  
hanh?dDocName=TAND058690, Tòa án nhân dân Tối cao, Báo cáo tóm tắt công tác  
Tòa án từ đầu nhiệm kỳ đến nay và năm 2018 nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới, cập  
nhật lần cuối ngày 18/5/2019.  
82  
pdf 12 trang Thùy Anh 8340
Bạn đang xem tài liệu "Thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm tại tòa án", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfthuc_tien_ap_dung_phap_luat_trong_giai_quyet_tranh_chap_boi.pdf