Trách nhiệm của các bên trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển
TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC BÊN TRONG HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN
HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN
Nguyễn Hữu Khánh Linh
Nguyễn Thị Hạnh
Người phản biện:TS. Nguyễn Thị Hồng Trinh
Tóm tắt: Hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đƣờng biển là một loại hợp đồng
vận chuyển đặc thù. Nên việc xác định trách nhiệm của các ngƣời trong hợp đồng vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đƣờng biển rất cần thiết. Nhiều chủ thể khi tham gia
vào hợp đồng thƣờng xảy ra sự nhầm lẫn về nghĩa vụ của hợp đồng và trách nhiệm của
các bên trong hợp đồng. Vì vậy, việc xác định rõ trách nhiệm của các bên trong hợp
đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đƣờng biển giúp cho các bên nhận biết trƣớc
hậu quả pháp lý bất lợi nếu vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.
Bài viết tập trung nghiên cứu trách nhiệm của ngƣời thuê vận chuyển và ngƣời
vận chuyển trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đƣờng biển. Vì đây là
hai bên chính đóng vai trò quyết định đến nội dung, nghĩa vụ và trách nhiệm của các
ngƣời trong hợp đồng.
Từ khóa: vận chuyển hàng hóa quốc tế, ngƣời vận chuyển, trách nhiệm trong hợp
đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế.
Résumé : Le contrat de transport de marchandises par mer est un type
particulier du contrat de transport, c'est pourquoi il est nécessaire de déterminer la
responsabilité des parties qui se l‟engagent. Quand rejoindre au contrat, certains sujets
ont souvent de la confusion quant aux obligations et aux responsabilités des parties.
Par conséquent, la détermination des responsabilités des parties dans le contrat
international de transport de marchandises par mer aidera les parties à prévoir les
conséquences juridiques défavorables si elles violent leurs obligations contractuelles.
Cet article met l'accent sur la responsabilité de l'affréteur et du transporteur dans
le contrat d'expédition internationale par mer, comme ils sont les parties principales
qui jouent un rôle décisif dans le contenu, les obligations et les responsabilités des
contractants.
ThS.GV. Trƣờng Đại học Luật
ThS.GV. Trƣờng Đại học Luật
128
Mots-clés: transportation internationale de marchandises, transporteur,
responsabilité dans les contrats de fret internationaux
Mở đầu:
chuyển đặc thù. Ngƣời vận chuyển sẽ sử dụng tàu biển để vận chuyển hàng hóa từ
cảng này tới cảng khác, đi qua một hoặc nhiều vùng biển giữa các quốc gia, vùng
biển quốc tế... Nên việc xác định trách nhiệm của các ngƣời trong hợp đồng vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đƣờng biển rất cần thiết. Nhiều chủ thể khi tham gia
vào hợp đồng thƣờng xảy ra sự nhầm lẫn về nghĩa vụ của hợp đồng và trách nhiệm
của các bên trong hợp đồng. Vì vậy, việc xác định rõ trách nhiệm của các bên trong
hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đƣờng biển giúp cho các bên nhận biết
trƣớc hậu quả pháp lý bất lợi nếu vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.
Ngƣời cạnh đó, chủ thể của hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đƣờng
biển cũng rất đa dạng, phức tạp dẫn đến khó xác định trách nhiệm của các ngƣời. Chủ
thể của hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đƣờng biển gồm ngƣời vận
chuyển và ngƣời thuê vận chuyển. Ngoài ra còn có các ngƣời liên quan đến việc
vận chuyển: ngƣời đại lý hoặc ủy thác (nếu có), thuyền trƣởng, chủ tàu (nếu
chủ tàu không là ngƣời vận chuyển) và những ngƣời làm công của ngƣời vận
chuyển. Do đó trong hợp đồng cần ghi rõ thông tin của các ngƣời liên quan. Trong
trƣờng hợp những ngƣời đại diện hoặc ngƣời môi giới đƣợc ủy thác để ký hợp
đồng, thì tƣ cách ủy thác của họ cần đƣợc ghi rõ trong hợp đồng. Điều này tránh
đƣợc những rắc rối khi có tranh chấp xảy ra giữa các ngƣời. Tất cả các ngƣời có
liên quan đến quyền sở hữu, sử dụng con tàu cũng cần đƣợc nêu lên. Bởi có những
trƣờng hợp chủ sở hữu của con tàu có thể không là ngƣời trực tiếp khai thác con tàu.
Họ có thể cho ngƣời khác thuê lại con tàu để khai thác. Ngƣời khai thác đó rất có
thể ủy thác cho ngƣời khác đàm phán và ký kết hợp đồng vận chuyển...
Bài viết tập trung nghiên cứu trách nhiệm của ngƣời thuê vận chuyển và
ngƣời vận chuyển trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đƣờng biển.
Vì đây là hai bên chính đóng vai trò quyết định đến nội dung, nghĩa vụ và trách
nhiệm của các ngƣời trong hợp đồng.
129
Từ khóa: vận chuyển hàng hóa quốc tế, ngƣời vận chuyển, trách nhiệm trong hợp
đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế.
A. Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đƣờng biển và xác định các
bên trong hợp đồng.
I. Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đƣờng biển
1. Khái niệm
Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đƣờng biển đƣợc quy định tại
nhiều văn bản pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Theo Điều 145 Luật hàng hải
năm 2015, Hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đƣờng biển đƣợc xác định:
1. Hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển là thỏa thuận được giao kết
giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển, theo đó người vận chuyển thu giá
dịch vụ vận chuyển do người thuê vận chuyển trả và dùng tàu biển để vận chuyển
hàng hóa từ cảng nhận hàng đến cảng trả hàng.
2. Hàng hóa là máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, nhiên liệu, hàng tiêu dùng và
các động sản khác, kể cả động vật sống, container hoặc công cụ tương tự do người
giao hàng cung cấp để đóng hàng được vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng
hóa bằng đường biển.
Dựa vào đó, hoạt động vận chuyển hàng hóa bằng đƣờng biển đƣợc hiểu là hoạt
động của ngƣời vận chuyển dùng tàu biển để vận chuyển hàng hóa từ cảng nhận đến
cảng trả hàng trên cơ sở một hợp đồng vận chuyển đã đƣợc ký kết với ngƣời thuê vận
chuyển và ngƣời thuê vận chuyển có nghĩa vụ trả cƣớc phí vận chuyển.
Quy định của Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2015 về hợp đồng vận chuyển
hàng hóa bằng đƣờng biển đã kế thừa phát triển qui định của Bộ luật hàng hải Việt
Nam 2005, quy định rõ và đầy đủ địa vị pháp lý và mối quan hệ của từng ngƣời liên
quan trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa nhằm tạo sự đồng bộ và nhất quán trong
toàn bộ các điều khoản của chƣơng hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đƣờng biển.
Theo đó đƣợc hiểu là hoạt động vận chuyển hàng hóa bằng đƣờng biển là hoạt động
của ngƣời vận chuyển dùng tàu biển để vận chuyển hàng hóa từ cảng nhận đến cảng
trả hàng trên cơ sở một hợp đồng vận chuyển đã dƣợc ký kết với ngƣời thuê vận
chuyển.
130
Hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đƣờng biển đƣợc điều chỉnh không chỉ bởi
pháp luật quốc gia mà còn cả các Điều ƣớc quốc tế và Tập quán hàng hải trong lĩnh
vực liên quan. Hiện nay, Việt Nam mới chỉ tham gia những Công ƣớc chung nhất
về hoạt động hàng hải. Những Công ƣớc trong phạm vi quốc tế điều chỉnh hoạt động
vận chuyển hàng hóa bằng đƣờng biển tiêu biểu nhất là: Công ƣớc Hamburg, Quy tắc
Hague, Hague- Visby, Quy tắc Work- Anwtep, Công ƣớc Brussel 1924... thì Việt
Nam vẫn chƣa tham gia. Chính vì vậy, nội dung của những Công ƣớc đó không đƣợc
áp dụng trực tiếp vào hoạt động vận chuyển hàng hóa bằng đƣờng biển. Các bên liên
quan không bắt buộc phải áp dụng nội dung Công ƣớc131.
Các công ƣớc quốc tế về vận tải biển quy định hợp đồng vận chuyển hàng hóa
bằng đƣờng biển từ cảng biển của quốc gia này đến cảng của một quốc gia khác.
Điều 2 Quy tắc Hamburg năm 1978 qui định: Quy tắc áp dụng cho mọi hợp đồng
chuyên chở bằng đƣờng biển giữa hai nƣớc, nếu:
a. Cảng bốc hàng quy định trong hợp đồng chuyên chở bằng đƣờng biển nằm ở
một nƣớc tham gia Công ƣớc, hoặc
b. Cảng dỡ hàng quy định trong hợp đồng chuyên chở bằng đƣờng biển nằm ở
một nƣớc tham gia Công ƣớc, hoặc
c. Một trong các cảng dỡ hàng lựa chọn, quy định trong hợp đồng chuyên chở
bằng đƣờng biển, là cảng dỡ hàng thực tế và cảng đó nằm ở một nƣớc tham gia
Công ƣớc, hoặc
d. Vận đơn hoặc chứng từ khác làm bằng chứng cho hợp đồng chuyên chở
bằng đƣờng biển đƣợc phát hành tại một nƣớc tham gia Công ƣớc, hoặc
e. Vận đơn hoặc chứng từ khác làm bằng chứng cho hợp đồng chuyên chở
bằng đƣờng biển quy định rằng những điều khoản của Công ƣớc này hoặc luật lệ
của bất kỳ quốc gia nào cho thi hành những quy định của Công ƣớc này là luật điều
chỉnh hợp đồng (tức là vận đơn quy định quy tắc này sẽ đƣợc áp dụng) .
Theo Điều 5 Quy tắc Rotterdam 2009, Công ƣớc áp dụng cho hợp đồng
chuyên chở hàng hóa mà nơi nhận hàng và nơi giao hàng nằm ở những nƣớc khác
131 Nguyễn Văn Thoan, Nguyễn Thị Hồng Vân (2014), “Tìm hiểu Công ƣớc của Liên hợp quốc về sử dụng
chứng từ điện tử trong hợp đồng quốc tế và giải pháp để Việt Nam gia nhập”, Tạp chí kinh tế đối ngoại (67).
131
nhau, cảng nhận hàng và cảng dỡ hàng cũng nằm ở những nƣớc khác nhau132. Do tính
chất đặc thù của hàng hóa đƣợc vận chuyển trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa
bằng đƣờng biển quốc tế nên hai công ƣớc quốc tế có đề cập trực tiếp tới quan
niệm về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đƣờng biển133. Theo Mục b,
Điều 1 Công ƣớc ƣớc quốc tế thống nhất một số qui tắc pháp luật về vận đơn đƣờng
biển ký năm 1924 (còn gọi là Công ƣớc Brussel 1924) qui định: “Hợp đồng vận
chuyển được thể hiện bằng vận đơn hoặc một chứng từ sở hữu tương tự trong
chừng mực chứng từ đó liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa bằng đường biển,
bao gồm bất kỳ vận đơn hoặc chứng từ tương tự nào như đã nêu ở trên được phát
hành trên cơ sở hoặc theo một hợp đồng thuê tàu kể từ thời điểm vận đơn hoặc chứng
từ sở hữu tương tự đó điều chỉnh các mối quan hệ giữa một người vận chuyển với một
người cầm vận đơn”
Theo Mục 6 Điều 1 Công ƣớc Hamburg 1978, Công ƣớc của Liên hợp quốc về
chuyên chở hàng hoá bằng đƣờng biển năm 1978, khái niệm hợp đồng vận chuyển
hàng hóa bằng đƣờng biển quốc tế đƣợc hiểu “là bất kỳ hợp đồng nào mà theo đó
người vận chuyển đảm nhận chuyên chở hàng hóa bằng đường biển từ một cảng
này đến một cảng khác để thu tiền cước. Tuy nhiên, một hợp đồng bao gồm chuyên
chở bằng đường biển và cả phương tiện khác thì hợp đồng đó chỉ được coi là hợp
đồng chuyên chở bằng đường biển theo nghĩa trong Công ước này, nếu nó liên
quan đến vận tải đường biển”. Các qui định trên cho thấy Công ƣớc Brussels 1924
chỉ điều chỉnh hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đƣờng biển dƣới dạng vận đơn
hay chứng từ tƣơng tự nhƣ vận đơn, còn Công ƣớc Hamburg 1978 thì áp dụng cho tất
cả các loại hợp đồng vận chuyển bằng đƣờng biển kể cả vận đơn.
Nhƣ vậy, thông qua những quy định tại hệ thống pháp luật quốc tế và quốc
gia, hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đƣờng biển đƣợc hiểu là sự thỏa
thuận giữa ngƣời vận chuyển hàng hóa và ngƣời thuê vận chuyển hàng hóa, theo đó,
ngƣời vận chuyển thu phí dịch vụ vận chuyển do ngƣời thuê vận chuyển trả và dùng
132 Hoàng Thị Đoan Trang (2014), “Công ƣớc Rotterdam 2009 và lợi ích của Việt Nam khi gia nhập công ƣớc
này”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại (68), tr.9-13.
133 Hoàng Văn Châu (2015), Công ước quốc tế về vận tải hàng hóa bằng đường biển và vấn đề gia nhập của
Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội
132
tàu biển để vận chuyển hàng hoá từ cảng nhận hàng đến cảng trả hàng nằm ở
những quốc gia hay vùng lãnh thổ khác nhau134.
2. Phân loại
Theo điều 146, Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015 phân biệt vận chuyển hàng
hóa quốc tế bằng đƣờng biển thành hai loại: (1) hợp đồng vận chuyển theo chứng từ;
và (2) hợp đồng vận chuyển theo chuyến. Việc phân loại này có ý nghĩa quan
trọng trong việc thiết lập qui chế pháp lý riêng cho hai loại hợp đồng này do chính
sự khác biệt của chúng đòi hỏi.
- Hợp đồng vận chuyển theo chứng từ vận chuyển là hợp đồng vận
chuyển hàng hoá bằng đƣờng biển đƣợc giao kết với điều kiện ngƣời vận chuyển
không phải dành cho ngƣời thuê vận chuyển nguyên tàu hoặc một phần tàu cụ thể
mà chỉ căn cứ vào chủng loại, số lƣợng, kích thƣớc hoặc trọng lƣợng của hàng hoá để
vận chuyển.
- Hợp đồng vận chuyển theo chuyến là hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng
đƣờng biển đƣợc giao kết với điều kiện ngƣời vận chuyển dành cho ngƣời thuê
vận chuyển nguyên tàu hoặc một phần tàu cụ thể để vận chuyển hàng hoá theo chuyến
(Điều146, Mục 1, Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015).
II. Xác định các bên trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng
đƣờng biển
Chủ thể của hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đƣờng biển cũng rất
đa dạng, phức tạp dẫn đến khó xác định trách nhiệm của các bên. Có sự thiếu đồng
nhất trong cách hiểu thuật ngữ “ngƣời vận chuyển” hay “ngƣời vận chuyển” (carrier)
trong các văn bản pháp luật. Quy tắc Hague- Visby, Điều 1, khoản a cho rằng: “ngƣời
vận chuyển (carrier) có thể là chủ tàu (ship-owner) hay là ngƣời thuê tàu định hạn
(charterer), họ là một ngƣời ký kết hợp đồng vận tải với chủ hàng”. Trong khi đó
Điều 147, Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 quy định: “Người vận chuyển là người tự
mình hoặc ủy quyền cho người khác giao kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng
đường biển với người thuê vận chuyển.”. Còn Công ƣớc Hamburg lại định nghĩa:
“Người vận chuyển là bất kỳ người nào, tự mình hoặc nhân danh bản thân mình ký
134 Nguyễn Tiến Vinh (2011), Pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển trong bối cảnh hội
nhập quốc tế, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, (27), tr.178-188.
133
kết một hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển với người gửi hàng”. Ba
cách hiểu này sẽ dẫn đến ba hệ quả pháp lý khác nhau về trách nhiệm của ngƣời vận
chuyển.
1. Người thuê vận chuyển
- Là ngƣời tự mình hoặc có thể ủy quyền cho ngƣời thứ ba khác ký hợp đồng vận
chuyển với ngƣời vận chuyển. Ngƣời thuê vận chuyển có thể là ngƣời xuất khẩu hoặc
ngƣời nhập khẩu tùy thuộc vào điều kiện giao hàng đƣợc các ngƣời thỏa thuận và quy
định trong hợp đồng mua bán.
- Là ngƣời xuất khẩu: khi thỏa thuận giao hàng theo điều kiện CIF, CFR, DES,
DEQ.
- Là ngƣời nhập khẩu: khi thỏa thuận giao hàng theo điều kiện FOB, FAS.
2. Người vận chuyển
- Là ngƣời tự mình hoặc ủy quyền cho ngƣời khác giao kết hợp đồng vận chuyển
với ngƣời thuê vận chuyển.
- Hoặc có thể là:
+ Chủ tàu biển;
+ Ngƣời ký hợp đồng vận chuyển nhƣng lại không trực tiếp tham gia vận
chuyển. (vì ủy thác cho ngƣời thứ ba khác thực hiện việc vận chuyển hàng hóa)
Ngƣời vận chuyển theo hợp đồng là chủ thể tham gia ký hợp đồng vận chuyển,
mặc dù không tham gia vận chuyển song vẫn phải chịu trách nhiệm và nghĩa vụ nhƣ
đã giao kết trong hợp đồng cũng nhƣ quy định của pháp luật.
B. Trách nhiệm của các bên trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế
bằng đƣờng biển
I. Trách nhiệm của ngƣời thuê vận chuyển trong hợp đồng vận chuyển hàng
hóa quốc tế bằng đƣờng biển
Khi có tổn thất xảy ra về thiệt hại đối với hàng hóa, ngƣời thuê vận
chuyển bao giờ cũng là ngƣời chịu thiệt đầu tiên. Họ không bao giờ mong muốn
hàng của mình không đến hoặc đến mà bị mất mát, hƣ hỏng khi đến tay ngƣời nhận
hàng. Do vậy, đôi khi thực hiện tốt những trách nhiệm tối thiểu do pháp luật quy định
cũng chính là bảo vệ cho quyền lợi của mình.
134
Ngƣời gửi hàng phải bảo đảm hàng hoá đƣợc đóng gói và đánh dấu ký, mã hiệu
theo quy định. Mã ký hiệu này phải đảm bảo, khi tới tay ngƣời vận chuyển, không bị
mờ. Bởi ngƣời vận chuyển có thể miễn trách nhiệm nếu chứng minh đƣợc rằng
do lỗi của ngƣời thuê vận chuyển mà hàng bị giao sai, giao nhầm vì ghi sai hoặc
mã ký hiệu quá mờ không nhìn rõ. Hoặc họ có thể từ chối nhận hàng nếu hàng
không đảm bảo các tiêu chuẩn đóng gói cần thiết.
Ngƣời gửi hàng phải cung cấp trong một thời gian thích hợp cho ngƣời vận
chuyển các tài liệu và chỉ dẫn cần thiết đối với hàng hoá dễ nổ, dễ cháy và các loại
hàng hoá nguy hiểm khác hoặc loại hàng hoá cần phải có biện pháp đặc biệt khi
bốc hàng, vận chuyển, bảo quản và dỡ hàng. Đây cũng là một trong những trƣờng
hợp miễn trách của ngƣời vận chuyển nếu ngƣời thuê vận chuyển vi phạm điều này.
Ngƣời gửi hàng phải bồi thƣờng các tổn thất phát sinh do việc cung cấp chậm
trễ, thiếu chính xác hoặc không hợp lệ các tài liệu và chỉ dẫn cần thiết. Ngƣời vận
chuyển không có nghĩa vụ phải kiểm tra sự chính xác hay đầy đủ của các thông tin
đó.
Ngƣời gửi hàng hoặc ngƣời giao hàng dù cố ý hoặc vô ý đều phải chịu trách
nhiệm đối với ngƣời vận chuyển, hành khách, thuyền viên và các chủ hàng khác
về những tổn thất phát sinh do khai báo hàng hoá không chính xác hoặc không đúng
sự thật, nếu ngƣời vận chuyển chứng minh đƣợc là ngƣời gửi hàng hoặc ngƣời giao
hàng có lỗi gây ra tổn thất đó.
Công ƣớc Hamburg cũng quy định về các trƣờng hợp trên nhƣng mở rộng ra
rằng ngƣời gửi hàng sẽ không chịu trách nhiệm về thiệt hại trừ khi hƣ hỏng đó là do
lỗi của ngƣời gửi hàng, ngƣời làm công hoặc đại lý của ngƣời gửi hàng gây ra.
II. Trách nhiệm của ngƣời vận chuyển trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa
quốc tế bằng đƣờng biển
1. Thời hạn trách nhiệm của người vận chuyển
Về thời hạn trách nhiệm của ngƣời vận chuyển đối với hàng hóa Theo Quy tắc
Hamburg, trách nhiệm của ngƣời vận chuyển bao gồm khoảng thời gian mà ngƣời
vận chuyển chịu trách nhiệm về hàng hóa ở cảng xếp hàng, trong quá trình chuyên
chở và dỡ hàng. Khoảng thời gian này đƣợc hiểu nhƣ sau:
135
+ Khoảng thời gian bắt đầu từ khi ngƣời vận chuyển đã nhận hàng từ ngƣời
gửi hàng hoặc một ngƣời thay mặt ngƣời gửi hàng hoặc một cơ quan có thẩm quyền
hoặc ngƣời thứ ba khác mà theo luật lệ hoặc quy định ở cảng bốc hàng, hàng hóa
phải đƣợc giao cho ngƣời vận chuyển để vận chuyển;
+ Cho đến khi ngƣời vận chuyển đã giao hàng cho ngƣời nhận, hoặc trong
trƣờng hợp ngƣời nhận không nhận hàng từ ngƣời vận chuyển thì bằng cách đặt hàng
hóa dƣới quyền định đoạt của ngƣời nhận hàng phù hợp với hợp đồng hoặc luật lệ
hoặc tập quán buôn bán tại cảng dỡ hàng, hoặc bằng cách chuyển giao cho một cơ
quan có thẩm quyền hoặc cho một ngƣời thứ ba khác mà theo luật lệ hoặc quy định
áp dụng ở cảng dỡ hàng, hàng hóa phải đƣợc chuyển giao cho ngƣời đó.
Điều đó có nghĩa là bắt đầu từ khi nhận hàng tại cảng xếp hàng cho tới khi họ
giao hàng cho ngƣời nhận hàng tại cảng dỡ hàng thì ngƣời vận chuyển mới hết trách
nhiệm đối với hàng hóa. Khoảng thời gian và không gian này khá rộng và đòi hỏi
ngƣời vận chuyển phải nỗ lực và có trách nhiệm với hàng hóa mà họ nhận để vận
chuyển135.
Theo đó, Ngƣời nhận hàng hợp pháp phải đáp ứng điều kiện gì sau đây:
- Ngƣời nhận hàng phải xuất trình đƣợc vận đơn đƣờng biển.
- Ngƣời có trong tay vận đơn hợp pháp là ngƣời chủ sở hữu của hàng hóa trong
hợp đồng vận chuyển và có quyền nhận hàng ở cảng đến theo quy định.
- Ngƣời vận chuyển chỉ giao hàng cho ngƣời nào là ngƣời xuất trình đầu tiên vận
đơn mà ngƣời vận chuyển đã phát hành ở cảng đi.
Thời hạn trách nhiệm của ngƣời vận chuyển theo Quy tắc Hague-Visby
hẹp hơn so với Quy tắc Hamburg. Thời hạn này bao trùm khoảng thời gian từ khi
hàng đƣợc bốc lên tàu cho đến khi đƣợc dời khỏi tàu. Nhƣ vậy là hàng hóa thuộc
trách nhiệm của ngƣời vận chuyển khi cần cẩu móc vào lô hàng ở cảng bốc hàng
và kết thúc khi cần cẩu rời khỏi lô hàng ở cảng dỡ hàng. Trong thƣơng mại hàng
hải, ngƣời ta gọi trách nhiệm đó là tackle to tackle, nghĩa là “từ móc cẩu đến móc
cẩu”.
135 Nguyễn Nhƣ Tiến (2009), "Bàn về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đƣờng biển theo quy định
của Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2005", Tạp chí hàng hải, số (1,2,3).
136
Theo Điều 75, Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015, “Người vận chuyển chịu
trách nhiệm về việc bốc hàng, dỡ hàng cẩn thận và thích hợp, chăm sóc chu đáo
hàng hoá trong quá trình vận chuyển”. Trách nhiệm đó kể từ khi ngƣời vận
chuyển nhận hàng từ cảng bốc hàng và xuyên suốt tới khi giao hàng cho ngƣời
nhận hàng tại cảng dỡ hàng.
2. Phạm vi và giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển
*Phạm vi trách nhiệm của người vận chuyển
- Điều 5 Công ƣớc Hamburg 1978, trách nhiệm của ngƣời vận chuyển bắt đầu từ
khi đã nhận hàng từ ngƣời gửi hàng, hay từ một ngƣời làm thay ngƣời gửi hàng hoặc
từ một cơ quan hay ngƣời thứ ba khác mà theo pháp luật quốc gia ở cảng bốc hàng,
hàng hóa đó phải đƣợc trao cho họ để gửi đi cho đến khi giao hàng cho ngƣời nhận tại
cảng đến.
*Giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển
Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015 quy định về giới hạn bồi thƣờng của ngƣời
vận chuyển đối với tổn thất do hƣ hỏng, mất mát hàng hóa xảy ra trong thời gian
ngƣời vận chuyển chịu trách nhiệm về hàng hóa và có lỗi đó do chính họ gây nên
nhƣ sau:
+ Trƣờng hợp chủng loại và giá trị hàng hóa chƣa đƣợc khai báo trƣớc khi bốc
hàng hoặc nêu rõ trong vận đơn thì giới hạn trách nhiệm tối đa tƣơng đƣơng với
666,67 đơn vị tính toán cho mỗi kiện hoặc cho mỗi đơn vị hàng hoá hoặc 2 đơn vị
tính toán cho mỗi kilôgam trọng lƣợng cả bì của số hàng hoá bị mất mát, hƣ hỏng
tuỳ theo giá trị hàng hoá. Quy tắc Hague thì quy định không quá 100 Bảng Anh. Giá
trị này đƣợc nhận xét là không còn phù hợp vì bản thân nƣớc Anh đã nâng giá trị này
lên 200 Bảng Anh. Quy tắc Hague - Visby đã nâng giới hạn này lên là 666,67
SDR/kiện hay đơn vị hoặc 2 SDR/kg hàng hóa cả bì bị mất. So với Công ƣớc
Hamburg thì giới hạn này cao hơn 83 SDR/kiện hay đơn vị hoặc 2,5 SDR/kg hàng
hóa cả bì bị mất.
+ Trƣờng hợp chủng loại và giá trị hàng hóa đã đƣợc khai báo trƣớc khi bốc
hàng hoặc nêu rõ trong vận đơn thì ngƣời vận chuyển chịu trách nhiệm bồi thƣờng
mất mát, hƣ hỏng hàng hoá bằng hay theo tỷ lệ chênh lệch giữa giá trị khai báo và
giá trị còn lại của hàng.
137
Giới hạn trách nhiệm trong việc chậm giao hàng trong Công ƣớc Hamburg bằng
2,5 lần tiền cƣớc số hàng giao chậm và không vƣợt quá tổng số tiền cƣớc theo hợp
đồng.
Pháp luật Việt Nam cũng nhƣ các Công ƣớc đều quy định về các trƣờng
hợp ngƣời vận chuyển mất quyền đƣợc hƣởng giới hạn trách nhiệm trong việc giao
hàng. Đó là trƣờng hợp ngƣời vận chuyển có hành vi hay lỗi cố ý trong việc làm
mất mát, hƣ hỏng hàng hóa hoặc chậm giao hàng.
Những quy định pháp luật nhƣ vậy vừa tránh đƣợc cho ngƣời vận chuyển
trách nhiệm quá nặng nề, nhƣng cũng vừa tạo hàng rào để ngăn cản sự thiếu mẫn cán
trong hoạt động vận chuyển.
3. Cơ sở trách nhiệm của người vận chuyển
- Theo Công ƣớc Brussel 1924 và Nghị định thƣ Visby 1968: ngƣời vận chuyển
phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do mất mát, hƣ hỏng của hàng hóa khi hàng
hóa còn thuộc trách nhiệm của ngƣời vận chuyển
- Theo Công ƣớc Hamburg 1978: ngƣời vận chuyển phải chịu trách nhiệm về
thiệt hại do mất mát, hƣ hỏng của hàng hóa và chậm giao hàng khi hàng hóa còn
thuộc trách nhiệm của ngƣời vận chuyển
Hàng hóa bị coi là chậm giao nếu không đƣợc giao tại cảng dỡ hàng quy định
trong hợp đồng chuyên chở hàng hóa bằng đƣờng biển trong thời gian đã thỏa thuận
rõ ràng hoặc nếu không có thỏa thuận nhƣ vậy thì là trong thời gian hợp lý một
ngƣời vận chuyển cần mẫn phải giao, có tính đến hoàn cảnh của sự việc.
Hàng bị coi là mất nếu không đƣợc giao nhƣ trên trong thời hạn 60 ngày liên
tục kể từ ngày hết thời hạn giao hàng quy địnhVề nghĩa vụ “cần mẫn hợp lý”:
Pháp luật Việt Nam quy định nghĩa vụ của ngƣời vận chuyển là phải có một sự
“cần mẫn hợp lý” hay phải có sự “chăm sóc chu đáo hàng hóa”, “giữ hàng cẩn thận
và thích hợp”. Điều đó có nghĩa là trách nhiệm của ngƣời vận chuyển về thất thoát
của hàng hóa phải xuất phát từ nghĩa vụ cẩn trọng, chăm sóc chu đáo hàng hóa mà
bất kỳ một ngƣời vận chuyển thông thƣờng nào trong điều kiện nhất định đều phải
và có thể làm đƣợc. Điều này tƣơng tự nhƣ trong Quy tắc Hague - Visby, có nghĩa
là, trong trƣờng hợp khi có thiệt hại xảy ra, chủ hàng phải có nghĩa vụ chứng
138
minh rằng ngƣời vận chuyển đã không thực hiện nghĩa vụ cẩn trọng và chu đáo một
cách hợp lý.
Theo Quy tắc Hamburg, ngƣời vận chuyển phải chịu trách nhiệm về thiệt hại
xảy ra đối với hàng hóa hoặc chậm giao hàng xảy ra trong khi hàng hóa thuộc trách
nhiệm của mình, trừ khi họ chứng minh đƣợc việc đã áp dụng mọi biện pháp hợp lý,
cần thiết để tránh sự cố và hậu quả của nó.
4. Miễn trách cho ngƣời vận chuyển
Theo Công ƣớc Brussel 1924 và nghị định thƣ Visby 1968: ngƣời vận chuyển
đƣợc hƣởng 17 trƣờng hợp miễn trách:
1) Hành vi sơ suất hay khuyết điểm của thuyền trƣởng, thủy thủ, hoa tiêu hay
ngƣời giúp việc cho ngƣời vận chuyển trong thuật đi biển và quản trị tàu.
Thuật đi biển (Navigation) là những hành động có liên quan đến việc điều khiển
tàu chạy hoặc đỗ
Quản trị tàu (Management of ship) là hành động có liên quan đến việc quản lý và
chăm sóc tàu trong hành trình.
2) Cháy, trừ khi do lỗi lầm thực sự hay hành động cố ý của ngƣời vận chuyển
gây nên
3) Tai họa, nguy hiểm, tai nạn của biển gây ra
4) Thiên tai
5) Hành động chiến tranh
6) Hành động thù địch
7) Tàu và hàng hóa bị cầm giữ, bị câu thúc do lệnh của vua chúa, chính quyền
nhân dân hoặc bị tịch thu do lệnh của tòa án.
8) Hạn chế về kiểm dịch
9) Đình công, cấm xƣởng hoặc lao động bị ngƣng trệ vì bất cứ nguyên nhân nào,
xảy ra toàn bộ hay cục bộ
10) Hành vi hay thiếu sót của chủ hàng, của đại lý hoặc đại diện của chủ hàng
11) Bạo động hay nổi loạn
12) Cứu hay cố ý cứu sinh mạng và tài sản trên biển
13) Hao hụt về trọng lƣợng hoặc khối lƣợng hoặc hƣ hỏng do nội tỳ, ẩn tỳ hoặc
bản chất đặc biệt của hàng hóa
139
14) Bao bì không đầy đủ
15) Ký mã hiệu không đầy đủ hoặc sai
16) Do ẩn tỳ của tàu mà bằng sự cần mẫn hợp lý không phát hiện ra đƣợc
17) Mọi nguyên nhân khác không phải do lỗi lầm hoặc trách nhiệm của ngƣời
vận chuyển hoặc lỗi lầm do sơ suất của đại lý hay nhân viên của ngƣời vận chuyển
Công ƣớc Hamburg 1978 không liệt kê các trƣờng hợp miễn trách cho ngƣời vận
chuyển mà dƣa trên nguyên tắc suy đoán lỗi=> ngƣời vận chuyển đƣợc miễn trách nếu
chứng minh đƣợc mình đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết hợp lý nhằm ngăn ngừa
tổn thất và tổn thất không do lỗi lầm hay sơ suất của mình gây nên.
Đối với giao hàng chậm, Quy tắc Hamburg cho rằng việc chậm giao hàng cũng
là lỗi của ngƣời vận chuyển trừ khi bốn trƣờng hợp miễn trách do việc chậm giao
hàng. Chậm trả hàng là việc hàng hoá không đƣợc trả trong khoảng thời gian đã thoả
thuận theo hợp đồng hoặc trong khoảng thời gian hợp lý cần thiết mà ngƣời vận
chuyển mẫn cán có thể trả hàng đối với trƣờng hợp không có thoả thuận. Ngƣời vận
chuyển không phải chịu trách nhiệm đối với việc chậm trả hàng trong các trƣờng hợp
sau đây:
+ Đi chệch tuyến đƣờng khi đã có sự chấp thuận của ngƣời gửi hàng;
+ Do nguyên nhân bất khả kháng;
+ Phải cứu ngƣời hoặc trợ giúp tàu khác đang gặp nguy hiểm khi tính mạng con
ngƣời trên tàu có thể bị đe dọa;
+ Cần thời gian để cấp cứu cho thuyền viên hoặc ngƣời trên tàu (Điều 78,
khoản 3, Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015)
C. Kết luận
Hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đƣờng biển là thỏa thuận đƣợc giao kết
giữa ngƣời vận chuyển và ngƣời thuê vận chuyển, theo đó ngƣời vận chuyển thu giá
dịch vụ vận chuyển do ngƣời thuê vận chuyển trả và dùng tàu biển để vận chuyển
hàng hóa. Trách nhiệm của ngƣời vận chuyển là vận chuyển hàng hóa bằng đƣờng
biển từ việc nhận hàng từ ngƣời giao hàng, đảm bảo hàng hóa trong quá trình vận
chuyển và giao hàng cho ngƣời nhận hàng hợp pháp. Và ngƣời thuê vận chuyển phải
trả phí vận chuyển, đảm bảo hàng hóa khi giao hàng hoặc khi nhận hàng. Chứng từ
140
vận chuyển hoặc hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế là căn cứ pháp lý quan trọng
để xác định trách nhiệm của các bên trong quan hệ pháp luật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Văn Châu (2015), Công ước quốc tế về vận tải hàng hóa bằng
đường biển và vấn đề gia nhập của Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội
2. Công ƣớc LaHay 1986
3. Công ƣớc của Liên hợp quốc về vận chuyển hàng hoá bằng đƣờng biển
năm 1978 - Hamburg Rules (2003), bản dịch Tuyển tập các Công ước Hàng Hải
quốc tế, NXB Lao động, Hà Nội.
4. Công ƣớc Quốc tế Athens về Vận chuyển hành khách và hành lý bằng
đƣờng biển, 1974.
5. Công ƣớc quốc tế về thống nhất các quy tắc chung của luật liên quan đến
vận đơn và Nghị định thƣ ký kết (Hague Rules) năm 1924.
6. Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình luật thương mại quốc tế, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
7. Quốc hội (2015), Bộ luật hàng hải.
8. Quy tắc Hague- Visby năm 1968, bản dịch Tuyển tập các Công ước Hàng
Hải quốc tế (2003), NXB Lao động, Hà Nội.
9. Quy tắc Rotterdam 2009
10. Nguyễn Nhƣ Tiến (2009), "Bàn về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng
đƣờng biển theo quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2005", Tạp chí hàng
hải, số (1,2,3).
11. Hoàng Thị Đoan Trang (2014), “Công ƣớc Rotterdam 2009 và lợi ích của
Việt Nam khi gia nhập công ƣớc này”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại (68), tr.9-13.
12. Nguyễn Tiến Vinh (2011), Pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hoá
bằng đường biển trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật
học, (27), tr.178-188.
141
Bạn đang xem tài liệu "Trách nhiệm của các bên trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- trach_nhiem_cua_cac_ben_trong_hop_dong_van_chuyen_hang_hoa_q.pdf