Cải cách pháp luật Việt Nam về đất đai

CẢI CÁCH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐẤT ĐAI  
PGS. TS. Ngô Huy Cương  
Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội  
Giới thiệu  
Chính sách và pháp luật về đất đai ở Việt Nam đã ngày càng nhanh  
chóng tỏ ra bất cập, trong khi, hiện nay trên thế giới, người ta luôn luôn xem  
chính sách về đất đai là một chính sách công hàng đầu ở tất cả các nước, nhất  
là ở những nước đang phát triển, những nước có nền kinh tế chuyển đổi. Vậy  
việc sửa đổi hay cải cách căn bản và toàn diện chính sách và pháp luật về đất  
đai ở Việt Nam là một nhu cầu bức bách để giảm bớt sự bất bình đẳng, căng  
thẳng và xung đột trong đời sống xã hội mà có nguy cơ ảnh hưởng tới cả an  
ninh và quốc phòng.  
Bài viết trình bày những vấn đề lý luận nền tảng, kinh nghiệm quốc tế  
về chính sách và pháp luật đất đai, đồng thời phê bình pháp luật đất đai của  
Việt Nam để tập trung làm rõ các định hướng chủ yếu trong việc cải cách căn  
bản pháp luật của Việt Nam về đất đai, kể cả về kỹ thuật pháp lý.  
Bài viết sử dụng các phương pháp mô tả và phân tích luật học, định  
danh pháp lý, phân loại pháp lý, quan hệ pháp luật hóa các quan hệ xã hội, so  
sánh pháp luật… Nội dung chủ yếu của bài viết được chia thành ba mục: (i)  
Mục I nói về “Nền tảng lý luận của chính sách và pháp luật đất đai”; (ii) Mục II  
nói về “Phê bình pháp luật đất đai hiện hành của Việt Nam; và (iii) Mục III nói  
về “Định hướng cải cách pháp luật đất đai của Việt Nam”.  
I. Nền tảng lý luận của chính sách và pháp luật đất đai  
1. Vai trò và ý nghĩa chung của chính sách đất đai và chỉnh sửa chính  
sách đất đai  
Chính sách đất đai luôn là một chính sách công hàng đầu, nhất là ở  
những nước đang phát triển hiện nay. Nó đã từng có vai trò cực lớn mang tính  
chất quyết định, làm thay đổi nền tảng đời sống xã hội ở những nước tiến hành  
cách mạng xã hội chủ nghĩa trước kia.  
6
Định nghĩa vắn tắt của ba tổ chức quốc tế (bao gồm: African Union,  
African Development Bank, và Economic Commission for Africa) về chính  
sách đất đai như sau: “Chính sách đất đai là một tập hợp các nguyên tắc được  
thỏa thuận để điều chỉnh quyền sở hữu (hoặc để tiếp cận tới), việc sử dụng và  
quản lý tài nguyên đất nhằm nâng cao sức sản xuất và đóng góp cho sự phát  
triển xã hội, kinh tế, chính trị và môi trường và làm giảm đói nghèo.”1 Định  
nghĩa này không chỉ cho thấy những nội dung chủ yếu của chính sách đất đai,  
mà còn cho thấy qui trình dân chủ trong việc thiết kế và quyết định chính sách  
thông qua đồng thuận xã hội. Đất đai của một quốc gia là nơi chung sống của  
cả cộng đồng chính trị xây dựng nên quốc gia đó, cho nên tạo được sự đồng  
thuận trong việc thiết lập chính sách đất đai là vô cùng cần thiết cho sự bình ổn  
và phát triển của cộng đồng ấy.  
Chính sách đất đai, theo một nghiên cứu của Ngân hàng Phát triển Châu  
Á (Asian Development Bank), luôn được bàn luận trong bối cảnh phát triển  
nông nghiệp; và qua đó người ta tìm thấy ở đó sự công bằng xã hội, “sức khỏe  
chính trị” (political health), sự gia tăng của sản lượng nông nghiệp và sự duy trì  
phát triển toàn diện2. Nhưng những nhận xét đó có lẽ chỉ là những nhận xét về  
vai trò của chính sách đất đai tại những nước có nền chính trị ổn định.  
Nếu xét đất đai từ giác độ là đối tượng của các quyền, thì có thể thấy sở  
hữu những thửa đất có sự khác biệt khá nhiều so với sở hữu những tài sản khác  
vì sở hữu đất không chỉ đơn thuần là một vấn đề pháp lý, mà còn là một vấn đề  
không thể bỏ qua của môi trường tự nhiên, công bằng xã hội và kinh tế, kể cả  
an ninh và quốc phòng.  
Vì thế, nói về thiết kế và quyết định chính sách đất đai ở những nước  
đang phát triển, nhiều nhà nghiên cứu chính sách quốc tế khuyến nghị:  
“Các chính sách đất đai là một yếu tố then chốt của những chính  
sách công. Chúng có tầm ảnh hưởng to lớn về chính trị, kinh tế và xã hội  
1 Africa Union-African Development Bank-Economic Commission for Africa, Land Policy in Africa:  
North Africa Regional Assessment, Edited and designed by the ECA Publications and Conference  
Management Section (PCMS), Addis Ababa, Ethiopia, 2010, p. VIII. Nguyên văn: “Land policy”: the  
set of agreed principles to govern ownership (or access to), use and management of land resources to  
enhance their productivity and contribution to social, economic, political and environmental  
development and poverty alleviation.”  
2 R. S. Deshpande, Emerging Issues in Land Policy, Asian Development Bank, New Delhi, 2007, p. 1.  
7
bởi vì chúng xác định cách thức mà theo đó mọi người quan hệ với nhau  
trong lĩnh vực đất đai và tài nguyên thiên nhiên. Chúng có thể là bao  
gồm hoặc loại trừ, tiếp cận tới đất đai, nhà ở và tài nguyên thiên nhiên  
linh động hơn hoặc khắt khe hơn, và giúp củng cố hòa bình hoặc gia  
tăng căng thẳng và xung đột. Các chính sách đất đai đã từ lâu là một  
nguồn của loại trừ hơn là bao gồm. Giờ đây, khi đất đai gia tăng bất bình  
đẳng, thì đó là vấn đề quan trọng hơn bao giờ hết mà thúc giục các chính  
quyền cần hành động có dự tính làm cân bằng lại giữa sự phức tạp và  
hỗn hợp những vấn đề luôn chất chứa sự bùng nổ liên quan tới đất đai  
trong đất nước họ.”3  
Những nhận định khái quát về chính sách đất đai, nhất là nhận định về  
sự bất bình đẳng, gia tăng căng thẳng và xung đột trong khuyến nghị này  
dường như đang được minh chứng thêm ở Việt Nam thông qua những vụ tranh  
chấp đất đai vô cùng phức tạp đã từng xảy ra ở Tây Nguyên, Thái Bình, Hải  
Phòng, Hà Nội, Hưng Yên, Thành phố Hồ Chí Minh..., và thông qua những vụ  
tranh chấp nhỏ lẻ hơn liên quan tới đền bù giải phóng mặt bằng khi nhà đầu tư  
lấy đất để làm các dự án khác nhau.  
Nhận thức rõ về tầm quan trọng của đất đai, và với mong muốn cần có  
một chính sách đất đai thích hợp với sự phát triển của đất nước, Tờ trình Dự án  
Luật Đất đai ra Quốc hội năm 2012, Chính phủ Việt Nam viết “Đất đai là vấn  
đề lớn, phức tạp và rất nhạy cảm, tác động trực tiếp đến kinh tế, chính trị, xã  
hội, sự ổn định và phát triển của đất nước”, tuy nhiên vẫn duy trì quan điểm  
“Tiếp tục khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ  
sở hữu và thống nhất quản lý”4. Là một nước nông nghiệp, nên chính sách đất  
đai ở nước ta không thể không nhằm tới phát triển nông nghiệp và nông thôn.  
Tuy nhiên việc cân đối để tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa  
luôn được đặt ra, thậm chí ngay cả vấn đề công nghiệp hóa và hiện đại hóa  
nông nghiệp và nông thôn. Gần đây Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh  
3 Technical Committee on “Land Tenure and Development”, Formalising land rights in developing  
countries- Moving from past controversies to future strategies, Printed by XL-Print & Mailing, Paris,  
March 2015, p. 15.  
4 Chính phủ, Tờ trình về Dự án Luật Đất đai (sửa đổi), Số 222/ TTr- CP ngày 06/09/2012, tr. 4.  
8
“Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan  
trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”5 với một  
trong các giải pháp chủ yếu là “Quy hoạch bố trí lại dân cư nông thôn gắn với  
việc quy hoạch xây dựng công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị ở các  
vùng”6. Thực tế ở Việt Nam hiện nay, nông thôn, nông nghiệp khởi động sự  
nghiệp đổi mới, cứu thua cho cái hiện đại và đô thị công nghiệp, nhưng người  
nông dân phải bỏ làng ra đi làm thuê với giá rẻ mạt do thiếu đất, mất đất…7.  
Vì vậy sự chỉnh sửa chính sách đất đai, thậm chí thiết kế lại chính sách  
này, là việc hết sức cần thiết. Ngay ở Hoa Kỳ (một liên bang có đất đai rộng  
lớn với mật độ dân cư thấp), nhưng các cơ quan hành pháp và tư pháp của liên  
bang này phải thường xuyên cố gắng thiết lập những chính sách sử dụng đất để  
đáp ứng các mối quan tâm mới nổi và nhu cầu phát triển8. Gần đây, Bộ Tài  
nguyên và Môi trường vẫn khẳng định: “Việc tích tụ, tập trung ruộng đất là  
bước đi cần thiết, đáp ứng đòi hỏi của tính hiệu quả trong sản xuất nông  
nghiệp, tạo điều kiện để thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa  
nông nghiệp, nông thôn.”, và cho rằng “Đây là quan điểm nhất quán của Đảng  
và Nhà nước ta”9.  
2. Những nội dung chủ yếu của chính sách đất đai và pháp luật đất đai  
FAO (Food and Agriculture Organization- Tổ chức Nông Lương Liên  
Hiệp Quốc) đưa ra định nghĩa về đất đai như sau: “Đất đai là một khu vực có  
thể phân định được của bề mặt trái đất, chứa đựng các thuộc tính sinh quyển  
trực tiếp trên hoặc dưới bề mặt đó bao gồm thuộc tính cận bề mặt, khí hậu, thổ  
nhưỡng và dạng địa hình, thủy học bề mặt (như những hồ nông, sông, đầm lầy,  
và đất ngập nước), những lớp trầm tích cận bề mặt và trữ lượng nước ngầm liên  
quan, thực vật và quần thể động vật, mô hình định cư của con người và kết quả  
5 Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương  
Khóa X về Nông nghiệp, Nông dân và Nông thôn số 26- NQ/TW ngày 05/8/2008, điểm 1, Mục II.  
6 Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương  
Khóa X về Nông nghiệp, Nông dân và Nông thôn số 26- NQ/TW ngày 05/8/2008, điểm 2, Mục I.  
7 Tương Lai, “Về nông thôn và nông dân” (tr. 9 – 127), Nông dân, nông thôn & nông nghiệp, những  
vấn đề đang đặt ra, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2008, tr. 13.  
8 Robert R. Wright and Susan Webber Wright, Land Use in a Nutshell, Second Edition, St. Paul, Minn.  
West Publishing Co., 1985, p. 9.  
9 Bộ Tài nguyên và Môi trường, Đề án thí điểm tính tụ, tập trung đất đai phục vụ thu hút đầu tư sản  
xuất nông nghiệp tập trung, 2018, tr. 1.  
9
vật lý của hoạt động trong quá khứ và hiện tại của con người (tôn tạo, các công  
trình trữ nước hoặc thoát nước, đường xá, xây dựng…)”10 Như vậy đất đai là  
một khái niệm rất rộng, gắn chặt với môi trường và đời sống của con người,  
nhất là các hoạt động kinh tế nông nghiệp và lâm nghiệp. Vì vậy nội dung  
chính sách đất đai không chỉ dừng lại ở sử dụng đất. Tuy nhiên trong phạm vi  
của luật đất đai, nội dung của chính sách đất đai có thể được xem xét ở mức độ  
hẹp hơn.  
Nội dung của chính sách đất đai bao gồm, nhưng không chỉ bao gồm:  
(1) những vấn đề liên quan tới việc thủ đắc, phân bổ, bảo tồn, tôn tạo và phát  
triển đất đai; (2) định hướng, mục tiêu và biện pháp chủ yếu liên quan tới lập  
qui hoạch, kế hoạch và quản lý “sử dụng đất”; và (3) các khuyến khích liên  
quan tới đất đai và phát triển bền vững, tăng trưởng xanh…  
Chính sách công, nhất là chính sách đất đai ảnh hưởng rất lớn tới pháp  
luật nếu như không muốn nói nó là linh hồn của pháp luật về đất đai, luật tài  
sản. Ngoài việc xem lập qui hoạch và quản lý tài nguyên đất đai có ảnh hưởng  
tích cực tới sự phát triển của đất nước bởi chúng giúp giành được sự phát triển  
bền vững toàn diện11, người ta còn nhận định rằng: Sự quan tâm của chính sách  
công ảnh hưởng tới pháp luật về sử dụng đất với mức độ lớn hơn rất nhiều so  
với bất kỳ lĩnh vực nào của pháp luật tài sản12.  
Khi nói tới chính sách đất đai ở những nước có nền kinh tế chuyển đổi  
từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung sang nền kinh tế thị trường, trước hết  
phải nói về chế độ sở hữu đất đai.  
Xét từ giác độ kinh tế, người ta cho rằng tư tưởng trung tâm của hệ tư  
tưởng cộng sản là sự đối lập với quyền tư hữu về tư liệu sản xuất; và như một  
hệ quả trực tiếp, điều cấm chống lại quyền tư hữu tài sản được thể hiện trước  
hết và cao nhất trong quan hệ đất đai; và vì thế ngay ngày hôm sau khi mới  
giành được chính quyền từ Chính phủ lâm thời vào tháng 10/2017, những  
10 Xem Filipe Batista e Silva, Land Function: Origin and Evolution of the Concept, Cadernos Curso de  
Doutoramento Em Geografia Flup, 2011, p. 68.  
11 Africa Union-African Development Bank-Economic Commission for Africa, Land Policy in Africa:  
North Africa Regional Assessment, Edited and designed by the ECA Publications and Conference  
Management Section (PCMS), Addis AbabaEthiopia, 2010, p.1.  
12 Robert R. Wright and Susan Webber Wright, Land Use in a Nutshell, Second Edition, St. Paul,  
Minn. West Publishing Co., 1985, p. 9.  
10  
người Bolshevik đã ban hành Sắc lệnh về đất đai xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân  
về đất đai13. Chế độ sở hữu này được củng cố qua Hiến pháp 1936 cho tới Hiến  
pháp 1977 (bản Hiến pháp cuối cùng) của Liên Bang Cộng hòa Xã hội chủ  
nghĩa Xô Viết (cũ). Các nước xã hội chủ nghĩa cũ cũng theo đó mà thiết lập  
chế độ sở hữu khác biệt hay gọi xa xôi hơn là chế độ sở hữu toàn dân về đất  
đai.  
Bộ luật Dân sự 1950 theo kiểu Xô viết của Tiệp Khắc (từ Điều 155 tới  
Điều 165) bắt đầu tách quyền sở hữu đất đai khỏi quyền sở hữu các công trình  
được xây dựng trên đất. Và từ đó Đảng Cộng sản Tiệp Khắc từng bước tiến tới  
xóa bỏ quyền tư hữu đất đai và biến Nhà nước thành chủ sở hữu tuyệt đối, tuy  
nhiên vẫn cho phép các công trình được xây dựng trên đất thuộc sở hữu của  
Nhà nước không chỉ thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, mà còn thuộc quyền sở  
hữu của các cơ quan Nhà nước, các pháp nhân và thậm chí thuộc quyền sở hữu  
của công dân- những người được phép sở hữu những ngôi nhà nhỏ của gia  
đình14. Như vậy xét từ khía cạnh kỹ thuật pháp lý, Nhà nước Tiệp Khắc đã cấp  
quyền bề mặt cho mọi tổ chức và cá nhân. Nói cách khác, mọi tổ chức và cá  
nhân tại Tiệp Khắc chỉ có quyền bề mặt trên đất của Nhà nước liên quan tới các  
công trình xây dựng. Điều này khác ở Việt Nam vì ở Việt Nam thực chất có  
nhiều công trình được xây dựng như vậy nhưng pháp luật không cho rằng chủ  
sở hữu công trình có quyền bề mặt trên thửa đất đó của Nhà nước bởi cho đến  
khi Bộ luật Dân sự 2015 ra đời, tại đó mới có các qui định về quyền bề mặt.  
Cũng là một nước theo con đường xã hội chủ nghĩa nhưng Việt Nam  
không giống Trung Quốc về chế độ sở hữu đất đai. Luật Đất đai 1986 của  
Trung Quốc trong lần sửa đổi gần đây vào năm 2004 vẫn duy trì một chế độ đa  
hình thức sở hữu về đất đai. Điều 2, đoạn 1 của đạo luật này qui định: “Nước  
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa theo đuổi công hữu xã hội chủ nghĩa về đất đai,  
cụ thể là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể tập thể của người lao động.” Sở hữu  
13 Encyclopedia.com, Land Tenure, Soviet and Post-Soviet,  
soviet-and-post-soviet], 17:01,10/10/2021, p. 1.  
14 George E. Glos, “The Czechoslovak Civil Code of 1964 and Its 1982 Amendment Within the  
Framework of Czechoslovak Civil Law”, NYLS Journal of International and Comparative Law: Vol. 6  
: No. 2 , Article 2, 1985, p. 244.  
11  
toàn dân về đất đai được giải thích chính thức bởi đạo luật này như sau: “Sở  
hữu toàn dân có nghĩa là quyền sở hữu đối với đất đai của Nhà nước được thi  
hành bởi Hội đồng Nhà nước nhân danh Nhà nước.” (Điều 2, đoạn 2). Chế độ  
sở hữu này gần với chế độ sở hữu được thiết lập bởi Hiến pháp 1977 của Liên  
Bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết hơn so với chế độ sở hữu được Việt  
Nam thiết lập trong Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013.  
Ấy thế mà khi xây dựng kinh tế thị trường, sau khi Liên Xô sụp đổ, Liên  
Bang Nga hiện nay ban hành một Bộ luật Đất đai vào năm 2001 (được sửa đổi  
và bổ sung vào các năm 2003, 2004, 2005, 2006 và 2007) có quan điểm ngược  
lại hẳn với tư tưởng trên. Ngay tại Điều 1 của Bộ luật này, hai nguyên tắc15 nền  
tảng nhất về đất đai được tuyên bố như sau:  
“1. Bộ luật này và các đạo luật khác về đất đai được ban hành  
phù hợp với nó phải tuân thủ các nguyên tắc sau:  
1) cân nhắc tới tầm quan trọng của đất đai như là nền tảng của  
đời sống và hoạt động của con người mà theo đó việc điều chỉnh các  
mối quan hệ trong việc sử dụng và bảo tồn đất đai được theo đuổi xuất  
phát từ ý tưởng rằng đất đai là một điều kiện tự nhiên được gìn giữ như  
thành tố quan trọng nhất của tự nhiên, một tài nguyên thiên nhiên được  
sử dụng như một tư liệu sản xuất trong nông nghiệp và lâm nghiệp và là  
nền tảng của các hoạt động kinh tế trên lãnh thổ Liên Bang Nga và đồng  
thời là bất động sản, đối tượng của quyền sở hữu và các quyền khác liên  
quan tới đất;  
2) ưu tiên bảo tồn đất đai như một thành phần quan trọng nhất  
của môi trường và của tư liệu sản xuất trong nông nghiệp và lâm nghiệp  
đối với việc sử dụng đất như bất động sản, có nghĩa là việc chiếm hữu,  
sử dụng và định đoạt đất được thực hiện một cách tự do bởi các chủ sở  
hữu những thửa đất, trừ khi nó có hại cho môi trường;”.  
Quyền sở hữu tư nhân về đất đai ở Liên Bang Nga được Bộ luật này  
thừa nhận, phát triển và bảo vệ như sau:  
15 Tại Điều 1, khoản 1, Bộ luật Đất đai của Liên Bang Nga tuyên bố 11 nguyên tắc cơ bản về đất đai.  
12  
“1. Tài sản của công dân và pháp nhân (tài sản tư) là những thửa  
đất được thủ đắc bởi công dân và pháp nhân căn cứ theo luật của Liên  
Bang Nga.  
2. Công dân và pháp nhân có quyền ngang nhau tiếp cận tới việc  
thủ đắc quyền sở hữu những thửa đất. Những thửa đất của nhà nước  
hoặc của chính quyền thành phố có thể được chuyển nhượng cho công  
dân và pháp nhân để trở thành tài sản của họ, trừ những thửa đất không  
thể là tài sản tư theo Bộ luật này và pháp luật liên bang.” (Điều 15)  
Điều luật này khuyến khích tư nhân hóa đất đai- một vấn đề quan trọng  
trong chính sách xây dựng kinh tế thị trường.  
Tuy nhiên có quan điểm khác với quan điểm tư nhân hóa đất đai xuất  
hiện ở Trung Quốc và ở Việt Nam. Khi nghiên cứu về chế độ sở hữu đất đai  
(một vấn đề vật quyền) ở Trung Quốc, có nhận định rằng chế độ này sẽ giữ vai  
trò chủ chốt trong việc làm biến đổi cơ cấu hiện tại mà đang chuyển Trung  
Quốc từ một xã hội nông nghiệp và nông thôn chiếm ưu thế sang một xã hội  
thành thị và công nghiệp16.  
Ở Việt Nam có quan điểm cho rằng vì những thửa đất là những bộ phận  
của lãnh thổ quốc gia mà cả dân tộc ta đã đổ biết bao xương máu để giành giật  
và gìn giữ, cho nên để thi hành nguyên tắc Hiến pháp 1980 về chế độ sở hữu  
toàn dân về đất đai, Luật Đất đai 1987 của Việt Nam đưa ra lập luận cho chế độ  
đất đai này tại lời mở đầu như sau: “Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý  
giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì thay thế được của nông nghiệp, lâm  
nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn  
phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và  
quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta tốn bao công sức và xương máu  
mới khai thác, bồi bổ, cải tạo và bảo vệ được vốn đất như ngày nay.” Và căn cứ  
vào đó, đạo luật này tuyên bố trong Điều 1 rằng “Đất đai thuộc sở hữu toàn  
dân, do Nhà nước thống nhất quản lý.” Kế tiếp các lập luận đó để khẳng định  
lại một lần nữa rằng “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất  
16 Dwight H. Perkins, “China’s Land System: Past, Present, and Future”, Property Rights and Land  
Policies, Edited by Gregory K. Ingram and Yu-Hung Hong, Proceedings of the 2008 Land Policy  
Conference, The Lincoln Institute of Land Policy, 2009, p. 70.  
13  
quản lý” (Điều 1), Luật Đất đai năm 1993 cũng tại lời mở đầu đưa ra một  
khẳng định nhất quán làm căn cứ xây dựng nên đạo luật này như sau: “Đất đai  
là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành  
phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân  
cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng; Trải  
qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo  
vệ được vốn đất đai như ngày nay;”.  
Đồng ý rằng một quốc gia phải hội đủ ba yếu tố theo luật quốc tế hiện  
đại, bao gồm: (1) phải có lãnh thổ; (2) phải có dân cư; và (3) phải có một chính  
quyền có khả năng duy trì quyền kiểm soát có hiệu quả đối với lãnh thổ của  
mình và có khả năng tiến hành quan hệ quốc tế với các quốc gia khác. Các luật  
gia về công pháp quốc tế hiện đại cho rằng: đối với yếu tố lãnh thổ trong khái  
niệm quốc gia, thì sự chắc chắn hoàn toàn về biên giới quốc gia không được  
yêu cầu (nguyên văn: But absolute certainty about a state’s frontiers is not  
required)17. Lãnh thổ theo cách hiểu thông thường là một khu vực đất hoặc  
nước hoặc bao gồm cả hai thuộc về một cộng đồng hay một cá nhân nào đó.  
Quốc gia có chủ quyền trên lãnh thổ của mình. Và chủ quyền quốc gia luôn  
được xem xét trên hai phương diện bên trong và bên ngoài. Trước hết chủ  
quyền của một quốc gia thuộc về cơ quan có quyền làm ra luật cho toàn bộ đất  
nước- đó là chủ quyền bên trong (internal sovereignty); và chủ quyền mở rộng  
ra bên ngoài (external sovereignty) được thừa nhận bởi luật quốc tế rằng quốc  
gia có quyền tài phán trên lãnh thổ của mình18. Trong mối quan hệ với các thửa  
đất, lãnh thổ được xem là một phần của không gian mà trong đó bao gồm các  
thửa đất thuộc về những tổ chức hoặc cá nhân nào đó. Vì vậy khi chúng ta  
chiến đấu bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc có nghĩa là chúng ta bảo vệ  
cho cái không gian mà tại đó cộng đồng chính trị của chúng ta có chủ quyền  
bên trong và bên ngoài đối với nó, chứ việc chiến đấu như vậy không có ý  
nghĩa thô thiển là bảo vệ cho những thửa đất cụ thể thuộc về ai đó. Trước khi  
17 Michael Akehurst, A Modern Introduction to International Law, Sixth Edition, Routledge, London  
and New York, 1995, p. 53.  
18 Rod Hague, Martin Harrop, Shaun Breslin, Political Science: A Comparative Introduction, St.  
Martin’s Press, New York, 1992, p. 7.  
14  
có Hiến pháp năm 1980, dân tộc ta đã chiến đấu bảo vệ tổ quốc mà trong đó có  
cả công thổ và tư thổ. Hiện nay chúng ta chiến đấu giành lại Hoàng Sa mà  
không loại trừ trong không gian đó có cả tư thổ tại thời điểm mà quân Trung  
Quốc xâm chiếm? Việc tranh chấp quần đảo Senkaku giữa Trung Quốc và  
Nhật Bản cho chúng ta thấy rõ điều này.  
Nhận thức khoa học về sở hữu toàn dân về đất đai của nhiều nhà nghiên  
cứu Việt Nam có những nội dung khá “khó hiểu” như đoạn trích dẫn dưới đây:  
“Sở hữu toàn dân có nghĩa là sở hữu của toàn thể nhân dân trong  
xã hội xã hội chủ nghĩa, cũng có nghĩa là sở hữu xã hội chủ nghĩa Nhà  
nước. Chế độ này ra đời cùng với việc thiết lập Nhà nước xã hội chủ  
nghĩa. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, sở hữu xã hội chủ nghĩa  
thể hiện dưới hai hình thức: Sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể. Trong  
hai hình thức sở hữu đó, sở hữu Nhà nước là hình thức cao, vì nó thể  
hiện đầy đủ nhất nguyên tắc xã hội hóa xã hội chủ nghĩa”19.  
Tuy nhiên ở Việt Nam, tiến trình công hữu hóa đất đai diễn ra chậm hơn  
so với hầu hết các nước làm cách mạng xã hội chủ nghĩa khác do điều kiện và  
hoàn cảnh đặc biệt. Cách tiếp cận ban đầu của cuộc cách mạng ở Việt Nam khá  
khác biệt góp phần quyết định thời điểm muộn của công hữu hóa đất đai mãi về  
sau này.  
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thực chất là một cuộc Cách mạng dân  
tộc, dân chủ do nhân dân Việt Nam tiến hành và xây dựng nên chính quyền của  
mình, thể hiện rất rõ qua khởi nghĩa cướp chính quyền và xây dựng nên nền tài  
chính cho chính quyền cách mạng... Nhưng không thể phủ nhận được vai trò  
tập hợp lực lượng và lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc cách mạng này.  
Tuy nhiên trước đó, bản chất của cuộc cách mạng này được xác định là cách  
mạng “tư sản dân quyền” với nhiệm vụ “phản đế và phản phong kiến”, sau đó  
19 Xem Nguyễn Mạnh Hùng, Tìm hiểu Luật Đất đai mới – Chính sách ruộng đất mới, Nxb. Chính trị  
Quốc Gia, Hà Nội, 1993, tr. 9 – 10.  
15  
được thay đổi chút ít cho phù hợp với tình hình mới vào tháng 11/1939 mà tại  
đó Đảng đã chỉ rõ việc đặt nhiệm vụ phản đế lên vị trí chủ yếu nhất20.  
Vì vậy, như một hệ quả tất yếu, Tuyên ngôn Độc lập 1945 đã dẫn lại  
những danh ngôn nổi tiếng của các cuộc cách mạng cùng bản chất, rằng:  
“Hỡi đồng bào cả nước,  
‘Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho  
họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền  
ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc’.  
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của  
nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế  
giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung  
sướng và quyền tự do.  
Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp  
năm 1791 cũng nói: ‘người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi,  
và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi’.  
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.”  
Qua đó, Tuyên ngôn Độc lập 1945 của chúng ta đã khẳng định mấy  
điểm sau xét từ khía cạnh lãnh thổ:  
Thứ nhất, cũng giống như mỗi con người, mỗi dân tộc đều phải được  
bình đẳng với các dân tộc khác về quyền lợi mà trong quyền lợi đó có quyền  
lợi về lãnh thổ. Còn vấn đề lãnh thổ là đối tượng của quyền lợi đó rộng hay hẹp  
và với vị trí và địa hình ra sao hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn gốc lịch sử để  
lại.  
Thứ hai, cũng giống như mỗi con người, mỗi dân tộc đều có quyền tự do  
đối với lãnh thổ của mình để xây đắp hạnh phúc và có quyền chống lại sự xâm  
chiếm lãnh thổ hay biến lãnh thổ của dân tộc khác thành thuộc địa.  
Xét cho cùng, con người luôn luôn có khuynh hướng nhìn và đánh giá  
các sự vật, sự việc từ các phẩm chất của mình (chính con người). Quốc gia dân  
20 Xem Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội, Viện Kinh tế Việt Nam, Cách mạng Ruộng Đất ở Việt Nam,  
Tái bản theo bản in năm 1968, Trần Phương (Chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội- MaiHa Books, 2021,  
tr. 62-65.  
16  
tộc cũng được con người xem xét theo kiểu nhân cách hóa để cho nó có một  
đời sống pháp lý và có chủ quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn như vậy.  
Do đó, rất logic, Hiến pháp 1946 tuyên bố (tại Điều 12) một nguyên tắc  
nền tảng để xây dựng pháp luật, xây dựng chính quyền và thiết lập nên nhiệm  
vụ và mục tiêu bảo vệ của pháp luật và của chính quyền như sau: “Quyền tư  
hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”. Ngắn gọn, dứt khoát, đầy  
tính nhân văn và pháp lý là những gì mà không thể không nhận thấy từ tuyên  
bố đó.  
Quyền tư hữu tài sản là nội dung nền tảng của “quyền được sống, quyền  
tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”, và là nội dung quan trọng nhất để bảo  
đảm “tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Việc đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh  
thần theo kiểu ban phát hay “cào bằng” là trái với phẩm chất của con người, là  
chống lại “tự do và bình đẳng về quyền lợi”.  
Rõ ràng có quy luật phân bổ không đồng đều mà con người hoàn toàn ý  
thức được. Trí tuệ, sức khỏe, tài năng, khả năng lao động và cống hiến, tình  
cảm, sự nhanh nhậy, giới tính, nhu cầu… không thể được phân bổ đồng đều  
giữa mọi người, dù hết lòng mong muốn. Do đó sự công bằng và bình đẳng  
phải giải thích theo nghĩa công bằng và bình đẳng về cơ hội.  
Rõ ràng chúng ta đều thấy, thủ tiêu quyền tư hữu đồng nghĩa với thủ tiêu  
động lực phát triển của xã hội loài người. “Mỗi người làm việc bằng hai, để  
cho chủ nhiệm mua đài, mua xe; Mỗi người làm việc bằng ba, để cho chủ  
nhiệm xây nhà, xây sân” là một câu dân thơ từ thời còn tồn tại hợp tác xã nông  
nghiệp mà mỗi trong số chúng đều đặt dưới sự lãnh đạo của một vị chủ nhiệm  
hợp tác xã. Câu dân thơ đó đang nhắc chúng ta về hậu quả của sự thủ tiêu  
quyền tư hữu ruộng đất. Cái đói dày vò những con người đầy tình yêu đối với  
quê hương và đất nước bởi họ không có động lực để lao động, sản xuất. Tư  
tưởng của Kim Ngọc xuất hiện gây một cú sốc. Thực chất của tư tưởng ấy là trả  
lại ruộng đất cho nông dân, nhưng buộc phải sử dụng hình thức khác.  
Vẫn theo tư duy về sở hữu của truyền thống Sovietique Law, Hiến pháp  
năm 2013 cũng như Bộ luật Dân sự năm 2015 đều nhầm lẫn giữa tài sản chung  
và tài sản công. Hiến pháp năm 2013 qui định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài  
17  
nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên  
khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu  
toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”21. Bộ luật  
Dân sự năm 2015 đã sao chép nguyên văn qui định trên của Hiến pháp năm  
2013 vào Điều 197 để qui kết đó là hình thức sở hữu toàn dân.  
Rất đáng tiếc, lịch sử không diễn ra như vậy. Luật La Mã cổ đại dựa vào  
tài sản có thuộc sở hữu tư hay không để phân loại tài sản thành: tài sản chung  
(res communes) bao gồm không khí, nước chảy, biển… không thể thuộc sở hữu  
của bất kỳ ai, chung cho tất cả mọi người hưởng thụ, và tài sản công (res  
publicae) thuộc về nhà nước như đường xá, cầu cống, bến cảng công…22. Trên  
căn bản đó, luật dân sự của Québec (Canada) xem các vật thể vật chất là tài sản  
chung không phụ thuộc vào sự chiếm giữ (occupation) dù rằng pháp luật có thể  
qui định về việc sử dụng chúng23. Bộ luật Dân sự Louisiana cũng phân loại tài  
sản thành tài sản chung (common things), tài sản công (public things) và tài sản  
tư (private things) trước khi phân loại tài sản thành hữu hình (corporeals), vô  
hình (incorporeals), bất động sản (immovables) và động sản (movables)24. Tuy  
nhiên khi xem lại, Hiến pháp 1977 của Liên Xô (cũ) có sự khác biệt với những  
nhầm lẫn của pháp luật Việt Nam như trên đã dẫn.  
Hiến pháp 1977 của Liên Xô (cũ) có sự phân biệt giữa quyền sở hữu và  
tài sản. Điều 10 của Hiến pháp này quy định (theo bản dịch chính thức ra tiếng  
Anh của Liên Xô) như sau:  
“Chế độ kinh tế của Liên Bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô  
Viết dựa trên sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dưới hình thức  
tài sản nhà nước, và tài sản của các nông trang tập thể.” (Nguyên văn:  
“The economic system of the USSR shall be based on socialist  
ownership of the means of production in the form of state (public)  
property, and collective farm-and-co-operative property.”).  
21 Hiến pháp năm 2013, Điều 53.  
22 Xem Andrew Borkowski & Paul du Lessis, Textbook on Roman Law, Third Edition, Oxford  
University Press, New York, 2005, tr. 154.  
23 John E. C. Brierley, Roderick A. Macdonald, Quebec Civil Law – An Introduction to Quecbec  
Private Law, Edmond Montgomery Publications Limited, Toronto, Canada, 1993, p. 278.  
24 Louisiana Civil Code, Article 448.  
18  
Điều 11 của Hiến pháp này quy định:  
“Tài sản nhà nước, tức là tài sản chung của nhân dân Xô Viết, là  
hình thức chủ yếu của tài sản xã hội chủ nghĩa.  
Đất đai, khoáng sản, nước, và rừng là tài sản riêng của nhà nước.  
Nhà nước sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu trong công nghiệp, xây  
dựng, và nông nghiệp, các phương tiện giao thông và thông tin, liên lạc;  
ngân hàng; tài sản của các tổ chức thương mại nhà nước và dịch vụ công  
cộng, và doanh nghiệp nhà nước; hầu hết nhà ở đô thị; và tài sản khác  
cần thiết cho mục đích nhà nước.” (Nguyên văn: “State property, i.e. the  
common property of the Soviet people, is the principal form of socialist  
property. The land, its minerals, waters, and forests shall be the  
exclusive property of the state. The state shall own the basic means of  
production in industry, construction, and agriculture; means of transport  
and communication; the banks; the property of state-run trade  
organisations and public utilities, and other state-run undertakings; most  
urban housing; and other property necessary for state purposes.”  
Để bênh vực cho chế độ sở hữu toàn dân về đất đai và thiết lập các qui  
chế pháp lý khác nhau đối với quyền sử dụng đất ở Việt Nam, có quan niệm  
cho rằng quyền sử dụng đất ở Việt Nam giống với chế định ‘estate’ trong luật  
tài sản của Anh Quốc.  
Vậy luật tài sản của Anh Quốc nói gì về đất đai với tính cách là tài sản,  
và ‘estate’ là gì và có thật giống với quyền sử dụng đất ở Việt Nam không?  
Trả lời cho các câu hỏi này, trước hết chúng ta cần khảo sát sơ lược về  
luật tài sản của Anh Quốc và đặc biệt là chế định ‘estate’. Tuy nhiên cần lưu ý  
rằng: pháp luật Anh Quốc là truyền thống Common Law rất khác biệt với  
truyền thống Civil Law và truyền thống Sovietique Law. Có nhiều khái niệm  
chỉ có ở Common Law mà không có ở các truyền thống pháp luật khác, nhất là  
những khái niệm trong khuôn khổ của luật tài sản- phần cổ nhất trong pháp luật  
Anh Quốc. Vì vậy việc dịch chính xác thuật ngữ luật tài sản của Anh Quốc ra  
tiếng Việt là không thể, mà chỉ có thể cố gắng dùng thuật ngữ tương đương của  
19  
tiếng Việt để dịch thuật, kèm theo dùng nguyên văn thuật ngữ tiếng Anh, cộng  
với mô tả trong một chừng mực nhất định để hiểu.  
Nói tới luật tài sản của Anh Quốc phải nói tới các khái niệm chủ yếu  
liên quan bao gồm: chiếm hữu (possession); vật quyền (title)25; và quyền sở  
hữu (ownership). “Pháp luật Anh chưa bao giờ trình bày thấu đáo và logic hoàn  
toàn về khái niệm chiếm hữu” bởi nó được nhào nặn qua những sự áp dụng  
khác nhau26. Tuy nhiên để hiểu được luật tài sản của Anh Quốc trước hết cần  
tìm hiểu ‘the doctrine of tenure’ và ‘the doctrine of estate’ (tạm dịch là: ‘học  
thuyết về chiếm hữu bất động sản’ và ‘học thuyết về sở hữu bất động sản’).  
Một cuốn sách nói về luật tài sản của Anh và Úc có viết: theo ‘the  
doctrine of tenure’ và ‘the doctrine of estate’, thì không thể nói rằng một cá  
nhân có được quyền sở hữu tuyệt đối (absolute ownership) bất động sản; hậu  
quả là một người chỉ có ‘title’ (quyền sở hữu hạn chế) trên bất động sản27. Và  
thuật ngữ ‘title’ được giải thích là biểu hiện của ‘quyền sở hữu’ (ownership) tới  
mức độ mà quyền sở hữu được thừa nhận bởi pháp luật với giả định rằng (hay  
căn cứ vào) Nhà vua là người nắm giữ tối cao bất động sản (nguyên văn: Title  
represents ‘ownership’ to the degree that ownership is recognised by the law,  
given that the Crown is ultimate holder of real property.28). Bản chất của ‘title’  
là quyền được chiếm hữu và có thể được thủ đắc bởi các căn cứ như: được Nhà  
vua cấp quyền, mua bán, tặng cho hoặc thừa kế.  
Có thể hiểu ‘tenure’ trong học thuyết chiếm hữu bất động sản (the  
doctrine of tenure) là một phương thức chiếm hữu bất động sản đã được xác  
định bởi mối quan hệ giữa người chiếm hữu và chủ sở hữu mà có nguồn gốc từ  
việc nhà vua ban phát bất động sản cho các quần thần; và ‘estate’ (quyền sở  
hữu bất động sản) xuất phát từ căn cứ đó và bị thay đổi tùy thuộc vào đặc tính  
của mối quan hệ29. ‘Tenure’ có thể hiểu đơn giản là sự chiếm hữu những thửa  
đất nhất định với các dạng thức khác nhau được phát triển từ thời Trung cổ ở  
25 Thuật ngữ “title” trong luật tài sản của Anh Quốc cũng có thể gọi là “quyền sở hữu” như nhiều công  
trình nghiên cứu. Song nó có những khác biệt với “ownership”.  
26 Bruce Ziff, Principles of Property Law, Second Edition, Carswell, Canada, 1996, p. 116.  
27 Bronwen Jackman, Kip Werren, Property Law, LexisNexis Butterworths, Autralia, 2011, p.26.  
28 Bronwen Jackman, Kip Werren, Property Law, LexisNexis Butterworths, Autralia, 2011, p.26.  
29 Nguyễn Thế Kỳ, Phạm Quốc Toản, Lương Hữu Định, Từ điển Pháp luật Anh-Việt, Nxb. Khoa học  
xã hội, Hà Nội, 1994, tra từ “tenure”, tr. 406.  
20  
Anh Quốc với giả định là Nhà vua nắm giữ quyền tối cao đối với đất đai. Theo  
hệ thống này, người chiếm hữu đất được gọi là ‘tenant’ (người chiếm hữu đất)  
chiếm hữu đất của một người có tước hiệu (a lord) để người có tước hiệu (còn  
được gọi không chính xác lắm là người chủ đất) đổi lấy những gì do người  
chiếm hữu đất cung cấp hay tuân thủ. ‘Tenure’ có nhiều dạng thức khác nhau,  
tiêu biểu là dạng thức cung cấp dịch vụ quân sự, hoạt động nông nghiệp, cống  
nạp hay thực hành tôn giáo… để đổi lấy chiếm hữu đất, do người có tước hiệu  
và người chiếm hữu đất dàn xếp với nhau. Câu chuyện bắt nguồn từ khi người  
Norman xâm chiếm đất đai ở Anh Quốc vào năm 1066, William I lên ngôi xây  
dựng chế độ quân chủ chuyên chế và cấp đất cho quần thần trên căn bản sự tin  
tưởng của ông ta về tính xứng đáng với quyền được cấp trong từng trường hợp  
cụ thể. Nhà vua không chuyển giao quyền sở hữu tuyệt đối (absolute  
ownership) bất động sản được cấp mà chỉ cấp những quyền trên bất động sản  
dựa vào người được cấp hoàn thành những nhiệm vụ cụ thể như chi trả tiền,  
cung cấp các dịch vụ cần thiết, phong tước hiệu phong kiến để bảo vệ vương  
quốc… Người được Nhà vua cấp đất ngay lập tức trở thành ‘tenant-in-chief’  
(người chiếm hữu chính đối với đất đai). Rồi người này có thể cấp những phần  
của đất cho những người khác để đổi lấy những thứ khác. Cứ như vậy kế tiếp  
để trở thành một hệ thống phức tạp mà trong đó một thửa đất có thể bị cắt khúc  
hay phân đoạn ra nhiều lần30. Bởi đổi cấp đất lấy dịch vụ hơn là lấy tiền, cho  
nên người ta chia dịch vụ thành nhiều loại, và mỗi loại dịch vụ được biết đến  
như một ‘tenure’, chẳng hạn: dịch vụ hiệp sỹ (knight service) được cấp ‘tenure  
in chivalry’, có nghĩa là người được cấp đất theo dạng thức đó phải có nghĩa vụ  
thực hiện các dịch vụ quân sự; thấp hơn loại ‘tenure’ này là ‘tenure in socage’  
(lĩnh canh trả tô) được cấp để đổi lấy các dịch vụ phi quân sự31. Dạng thức  
‘socage’ được gọi là ‘freehold’ (ngày nay ‘freehold’ có nghĩa là đất làm rẽ, tô  
địa được toàn quyền sử dụng trọn đời32).  
30 Bronwen Jackman, Kip Werren, Property Law, LexisNexis Butterworths, Autralia, 2011, p.27.  
31 H. R. Light, The Legal Aspects of Business and General Principles of Law, Sixth Edition, Sir Isaac  
Pitman & Sons LTD., London, 1965, p. 32.  
32 Nguyễn Thế Kỳ, Phạm Quốc Toản, Lương Hữu Định, Từ điển Pháp luật Anh-Việt, Nxb. Khoa học  
xã hội, Hà Nội, 1994, tra từ “freehold”, tr. 173.  
21  
Người chiếm hữu đất (tenant) không sở hữu đất mà có lợi ích (interest)  
trên đất. Pháp luật gọi lợi ích đó là ‘estate’. Và mỗi một ‘tenant’ sở hữu một  
‘estate’ trên đất. Tóm lại: ‘Estate’ là một mớ quyền mà không đạt tới quyền sở  
hữu tuyệt đối (nguyên văn: The estate is a bundle of rights which fall short of  
absolute ownership.33).  
Thuật ngữ ‘tenure’ được sử dụng để chỉ ra mối quan hệ giữa ‘tenant’  
(người chiếm hữu đất) và ‘lord’ (người có tước hiệu và có quyền cấp quyền hay  
lợi ích trên thửa đất), chứ không chỉ mối quan hệ giữa người chiếm hữu đất và  
thửa đất, có nghĩa là các lợi ích về bất động sản đó không được cấp dứt khoát  
cho người chiếm hữu đất mà chúng có thể bị thu hồi khi ‘tenant’ (người chiếm  
hữu đất) không thực hiện được nghĩa vụ để đổi lấy các lợi ích đó; và như một  
hệ quả, trên một bất động sản như vậy, cả người cấp và người được cấp đều có  
những lợi ích đồng thời trên cùng một thửa đất34.  
Bởi cho phép nhiều người có thể nắm giữ lợi ích tài sản (proprietary  
interests) trên cùng một thửa đất, cho nên học thuyết chiếm hữu bất động sản  
(the doctrine of tenure) tạo ra một nền tảng để phân chia bất động sản khác với  
quan hệ chiếm hữu (tenurial relationship). Học thuyết sở hữu bất động sản (the  
doctrine of estate) ra đời cho phép các lợi ích tài sản có thể được phân khúc về  
thời gian, tức là một người có thể có quyền chiếm hữu hiện tại (present right to  
possession), nhưng cùng tại thời điểm đó những người khác cũng có những lợi  
ích trên cùng thửa đất đó, ban cho họ những quyền chiếm hữu tương lai (future  
rights to possession). Người có lợi ích tương lai không nắm giữ quyền chiếm  
hữu hiện tại, nhưng lợi ích đó vẫn là một lợi ích đầy đủ (a full interest) theo  
nghĩa rằng lợi ích đó có khả năng chuyển nhượng, có nghĩa là ‘estate’ tách khỏi  
đất và khái niệm chuyển nhượng quyền chiếm hữu tương lai có thể được chấp  
nhận35.  
Thuật ngữ ‘estate’ nói về mối quan hệ giữa người chiếm hữu (tenant)  
với đất (vật quyền) bởi chỉ ra phạm vi lợi ích về tài sản hoặc số lượng lợi ích  
của người này trên đất và được chia thành nhiều loại: (1) được cấp chỉ trong  
33 Bronwen Jackman, Kip Werren, Property Law, LexisNexis Butterworths, Autralia, 2011, p.27.  
34 Bronwen Jackman, Kip Werren, Property Law, LexisNexis Butterworths, Autralia, 2011, p.27.  
35 Bronwen Jackman, Kip Werren, Property Law, LexisNexis Butterworths, Autralia, 2011, p.27.  
22  
thời hạn người được cấp còn sống (life estate); (2) được cấp trong thời hạn  
người được cấp hoặc bất kỳ hậu duệ nào của người được cấp còn sống (fee  
tail); và (3) được cấp trong thời hạn người được cấp hoặc bất kỳ người thừa kế  
nào của người này, không kể có là hậu duệ hay không, còn sống (fee simple).  
Tuy nhiên, theo Đạo luật về Luật Tài sản (Law Property Act 1925), bây giờ chỉ  
còn mỗi ‘quyền sở hữu pháp lý’ (legal estates) có thể tồn tại trên đất mà là  
‘quyền sở hữu hoàn toàn tuyệt đối được chiếm hữu’ (an estate in fee simple  
absolute in possession) còn được gọi là ‘freehold tenure’, và “thời hạn nhiều  
năm tuyệt đối” (a term of years absolute) còn được biết đến là ‘lease of land’  
36  
(thuê đất) . Lưu ý: ở Anh Quốc ‘estate’ lớn nhất đối với đất trong thực tế  
tương đương với “quyền sở hữu tuyệt đối với đất” (absolute ownership of the  
land) là dạng ‘the fee simple’.  
Quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam là một quyền rất rành mạch  
xuất phát từ quyền sở hữu sẽ được nói tới ở mục ngay dưới đây. Như vậy  
‘quyền sử dụng đất’ theo pháp luật Việt Nam không giống với ‘estate’ của Anh  
Quốc từ nguồn gốc, quan niệm, căn cứ phát sinh, nội dung của quyền, phân  
loại, căn cứ chấm dứt quyền…  
Xét nguồn gốc thủ đắc quyền sở hữu đất đai, chúng ta thấy có sự khác  
biệt lớn giữa Liên Xô (cũ) và Việt Nam hiện tại, dù rằng pháp luật Việt Nam là  
‘cái bóng’ của pháp luật Liên Xô (cũ).  
Khi Liên Xô chưa sụp đổ, luận về Hiến pháp 1977 của Liên Xô, học giả  
Xô Viết Boris Topornin nhấn mạnh rằng: “Tài sản xã hội chủ nghĩa sinh ra từ  
tài sản của tư sản và các chủ đất bị quốc hữu hóa từ ngay từ những năm đầu  
tiên của Cách mạng Tháng Mười.”37, có nghĩa là quốc hữu hóa đất đai của từng  
chủ đất là căn cứ duy nhất làm phát sinh ra quyền sở hữu xã hội chủ nghĩa đối  
với đất đai ở Liên Xô (cũ). Có lẽ theo thế, Luật Cải cách ruộng đất 1953 của  
Việt Nam cũng quy định rành mạch rằng:  
36 H. R. Light, The Legal Aspects of Business and General Principles of Law, Sixth Edition, Sir Isaac  
Pitman & Sons LTD., London, 1965, p. 33.  
37 Boris Topornin, The New Constitution of the USSR, Translated from the Russian by Murad Saifulin,  
Progress Publishers, Moscow, 1980, p. 85.  
23  
“Đối với nhân sĩ dân chủ, địa chủ kháng chiến, địa chủ thường,  
thì:  
Trưng thu toàn bộ ruộng đất hiện có cùng trâu bò và nông cụ.  
Không đụng đến tài sản khác.  
Giá trưng mua ruộng đất là giá sản lượng trung bình hàng năm  
của ruộng đất trưng mua.  
Giá trưng mua trâu bò, nông cụ là giá thị trường ở địa phương.  
Giá trưng mua được trả bằng một loại công phiếu riêng.  
Công phiếu ấy được trả lãi 1,5 phần trăm mỗi năm.  
Sau thời hạn mười năm sẽ hoàn vốn.” (Điều 4).  
Tất nhiên bên cạnh trưng thu và trưng mua ruộng đất của các đối tượng  
trên, ruộng đất của thực dân, địa chủ Việt gian, phản động, cường hào gian ác  
bị tịch thu38. Nếu qui luật của xã hội loài người phải trải qua các hình thái kinh  
tế xã hội khác nhau mà cái sau “tiến bộ” hơn cái trước như nghiên cứu của  
Mác, thì xã hội “mới” phải tiếp thu và chấp nhận những gì của xã hội “cũ” để  
“cải tạo”. Vì vậy phương pháp “cải tạo” luôn phải nhân văn hơn và phải chăm  
chút hơn như “cải tạo” chính mình? Hiến pháp 1980 bằng một tuyên bố tại  
Điều 19 trở thành căn cứ để Nhà nước thủ đắc quyền sở hữu đối với tất cả  
nguồn của cải và tài sản chủ yếu của xã hội như sau:  
“Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên  
trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa, các xí nghiệp công nghiệp,  
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp quốc doanh; ngân  
hàng và tổ chức bảo hiểm; công trình phục vụ lợi ích công cộng; hệ  
thống đường sắt, đường bộ, đường sông, đường biển, đường không; đê  
điều và công trình thuỷ lợi quan trọng; cơ sở phục vụ quốc phòng; hệ  
thống thông tin liên lạc, phát thanh, truyền hình, điện ảnh; cơ sở nghiên  
cứu khoa học, kỹ thuật, cơ sở văn hoá và xã hội cùng các tài sản khác  
mà pháp luật quy định là của Nhà nước - đều thuộc sở hữu toàn dân.”  
38 Luật Cải cách ruộng đất 1953, Điều 2 và Điều 3.  
24  
II. Phê bình pháp luật đất đai hiện hành của Việt Nam  
“Quả thực, đất đai là một thực tại tâm lý cất giữ những ý niệm bền chặt,  
vĩnh cửu, và thiếu vắng sự mạo hiểm.”39 Nhận định về đất đai như vậy được  
đưa ra sau khi người ta nghiên cứu so sánh pháp luật về tài sản của những  
truyền thống pháp luật khác nhau.  
Thế nhưng ở Việt Nam, các cuộc cách mạng hay cải cách về đất đai xảy  
ra liên tục trong một giai đoạn ngắn khoảng 2/3 thế kỷ sau Cách mạng Tháng  
Tám bắt đầu từ Cải cách ruộng đất năm 1953. Trong khi Hiến pháp 1946 tuyên  
bố “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm” (Điều thứ  
12), thì Luật Cải cách ruộng đất ngày 4/12/1953 quy định: “Đối với nhân sĩ dân  
chủ, địa chủ kháng chiến, địa chủ thường, thì: Trưng thu toàn bộ ruộng đất hiện  
có cùng trâu bò và nông cụ” (Điều 4). Cuộc cải cách này thu hẹp sở hữu đất đai  
xuống còn hai hình thức chủ yếu là sở hữu của Nhà nước và sở hữu của người  
nông dân40. Sau đó, Hiến pháp 1959 lại tuyên bố: “Ở nước Việt Nam dân chủ  
cộng hòa trong thời kỳ quá độ, các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất  
hiện nay là: hình thức sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, hình thức sở  
hữu hợp tác xã tức là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, hình thức  
sở hữu của người lao động riêng lẻ, và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân  
tộc” (Điều 11). Sự đảo lộn chủ yếu và toàn diện về chế độ sở hữu đất đai bắt  
đầu từ khi Hiến pháp 1980 được thông qua. Tính chất cực đoan của bản Hiến  
pháp này về mặt kinh tế thể hiện rất rõ tại Điều 19 như đã trích dẫn ở mục trên.  
Tuy nhiên xét tính rõ ràng về chính sách, thì bản Hiến pháp này là một  
mẫu mực. Rất nhiều chính sách về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc  
phòng được tuyên bố rất rành mạch. Mức độ hiện thực của chúng thì luôn cần  
bàn tới để làm gương cho những mong ước phi hiện thực. Thế nhưng tuyên bố  
bất ngờ về chính sách đất đai tại đó lại làm cơ sở cho những quyết sách “loay  
hoay chạy chữa” về sau này.  
39 Xem Ugo Mattei, Basic Principles of Property Law- A Comparative Legal and Economic  
Introduction, Greenwood Press, Westport, Connecticut, London, 2000, p. 83.  
40 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật đất đai, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009, tr. 9.  
25  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 42 trang Thùy Anh 3700
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Cải cách pháp luật Việt Nam về đất đai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfcai_cach_phap_luat_viet_nam_ve_dat_dai.pdf