Tài liệu Các phương pháp sáng tạo (Phần 2)

13.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP SÁNG TẠO  
PH I CỦA TRIZ  
K HÔNG  
13.3.1. Một số nhận xét chung về các phương pháp sáng tạo  
không phải của TRIZ  
Các phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ do nhiều tác giả  
độc lập đưa ra (xem mục 4.1. Một số cách tiếp cận truyền thống  
và kết quả của quyển một), tạo nên tình trạng “trăm hoa đua nở”  
trong lĩnh vực PPLSTVĐM (xem phần tương ứng trong mục 13.1.  
Mở đầu của quyển sáu này).  
Điều này đòi hỏi, khi đề cập từng phương pháp hoặc từng nhóm  
phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ trong các mục nhỏ tiếp  
theo, không chỉ trình bày nội dung mà người viết còn phải trình bày  
các đặc thù riêng của từng (nhóm) phương pháp, tương tự như các  
đặc thù riêng của từng loại hoa, kể cả “gai” của chúng. Nói cách khác,  
trong trình bày tổng quan mỗi (nhóm) phương pháp, người viết sẽ  
cho thêm những nhận xét về các đặc thù riêng của (nhóm) phương  
pháp đó.  
Các đặc thù riêng của từng (nhóm) phương pháp thể hiện trong  
cách tiếp cận, cơ sở lôgích để xây dựng phương pháp; các khái niệm  
được hiểu và sử dụng trong phương pháp; các công việc mà phương  
pháp nhắm tới thực hiện; phạm vi áp dụng của phương pháp.  
Trong trình bày của mình, người viết sẽ còn so sánh các phương  
pháp sáng tạo không phải của TRIZ với phương pháp thử và sai,  
với các phương pháp sáng tạo của TRIZ và so sánh chính các  
phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ với nhau.  
Như đã biết (xem mục 2.3. Các ưu và nhược điểm của phương  
pháp thử và sai của quyển một), tuy có một số ưu điểm nhất định  
nhưng phương pháp thử và sai có nhiều nhược điểm không chấp  
nhận được. Ở các nước phát triển, nhu cầu xã hội đã xuất hiện và đòi  
hỏi các nhà nghiên cứu xây dựng các phương pháp sáng tạo mới. Do  
vậy, việc so sánh các phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ với  
phương pháp thử và sai sẽ giúp bạn đọc thấy: Các phương pháp sáng  
tạo không phải của TRIZ có những ưu điểm gì, có thể khắc phục  
những nhược điểm nào của phương pháp thử và sai.  
Việc so sánh các phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ với  
các phương pháp sáng tạo của TRIZ giúp bạn đọc thấy hai loại  
phương pháp này giống, đặc biệt, khác nhau như thế nào; khả năng  
từ TRIZ suy ra các phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ; các  
điểm mạnh và yếu của chúng.  
Các phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ, nếu xét riêng,  
cũng có những điểm giống và khác nhau, các điểm mạnh và yếu. Việc  
so sánh chính các phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ với  
nhau giúp bạn đọc thấy: Có những phương pháp có thể thay thế  
nhau, có những phương pháp bổ sung cho nhau chứ chúng không  
phải là những phương pháp hoàn toàn độc lập.  
Tóm lại, việc so sánh các phương pháp sáng tạo không phải của  
TRIZ với các phương pháp khác và với nhau giúp bạn đọc hiểu các  
phương pháp sáng tạo nói chung tốt hơn cả về nội dung lẫn sự liên  
kết giữa chúng. Do vậy, tùy theo mục đích công việc của mình, hoàn  
cảnh, điều kiện cho phép khi giải bài toán, bạn đọc có thể chọn cho  
mình phương pháp sáng tạo thích hợp nhất trong số các phương  
pháp sáng tạo trình bày trong bộ sách này.  
Có nhiều phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ. Những  
phương pháp này lại khác nhau về nhiều mặt. Tất cả các phương  
pháp này người viết không thể trình bày và người đọc không thể  
tiếp thu cùng một lúc. Nói cách khác, người viết cần phải sắp xếp  
các phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ theo một tiêu  
chuẩn nhất định để trình bày chúng lần lượt, sao cho có lợi nhất  
đối với người đọc.  
Có thể trình bày các phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ  
theo thứ tự năm (thời điểm) mà những phương pháp này được công  
bố. Có thể trình bày chúng theo thứ tự chữ cái của tên phương pháp  
hoặc tên tác giả. Có thể trình bày chúng theo thứ tự các công việc, các  
giai đoạn cần phải trải qua khi thực hiện quá trình suy nghĩ giải  
quyết vấn đề và ra quyết định. Có thể trình bày chúng theo thứ tự từ  
phương pháp đơn giản đến phương pháp phức tạp; từ phương pháp  
cụ thể đến những phương pháp khái quát hơn;… Chọn cách trình  
bày nào đây?  
Nếu so sánh với các phương pháp sáng tạo của TRIZ, đối với  
người viết, đây là công việc lựa chọn khó khăn về tiêu chuẩn sắp xếp  
các phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ để trình bày với bạn  
đọc. Bởi vì, TRIZ có lôgích thống nhất của một tác giả và của một lý  
thuyết. Trong khi đó, hầu như mỗi phương pháp sáng tạo không  
phải của TRIZ thuộc về một tác giả, được xây dựng dựa trên một cơ  
sở riêng biệt, có khi chỉ phản ánh một ý nhỏ, một phương diện nào  
đó của sáng tạo và chỉ có phạm vi áp dụng rất hẹp.  
Cuối cùng, người viết quyết định chọn cách trình bày các phương  
pháp sáng tạo không phải của TRIZ theo thứ tự sau: Các phương  
pháp được xây dựng chủ yếu dựa trên các kinh nghiệm sáng tạo; các  
phương pháp được xây dựng chủ yếu dựa trên cách tiếp cận có cơ sở  
khoa học (lôgích hình thức, tâm lý học) nhất định và kinh nghiệm;  
các phương pháp dùng cho cả quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và  
ra quyết định nói riêng, quá trình thực hiện sáng tạo nói chung; các  
phương pháp được xây dựng dựa trên cách tiếp cận kết hợp hoạt  
động của bộ não con người và hoạt động của máy tính.  
Việc phân loại các phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ  
theo tiêu chuẩn nói trên không phải là phân loại lôgích (xem mục  
nhỏ 8.3.4. Phân chia khái niệm của quyển ba), mà chỉ mang tính  
chất tương đối, giúp việc trình bày của người viết dễ dàng hơn và  
giúp bạn đọc phần nào không chỉ thấy cây mà còn thấy rừng.  
Điều này có nghĩa, khi xếp phương pháp sáng tạo không phải của  
TRIZ nào đó vào một cách tiếp cận nhất định, người viết cho rằng,  
phương pháp cho trước chủ yếu thuộc về cách tiếp cận tương ứng,  
mặc dù, trong phương pháp cho trước còn có thể có những yếu tố  
của các cách tiếp cận khác. Không ai cấm bạn đọc chọn tiêu chuẩn  
sắp xếp khác, đưa ra cách phân loại khác.  
Để kết thúc mục nhỏ này, người viết muốn lưu ý bạn đọc về hình  
thức và nội dung trình bày các phương pháp sáng tạo không phải  
của TRIZ sẽ áp dụng cho các mục nhỏ tiếp theo:  
- Bạn đọc có thể tìm hiểu tiểu sử chi tiết các tác giả của các  
phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ trên Internet. Do vậy,  
các mục nhỏ tiếp theo chỉ tập trung trình bày nội dung của các  
phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ.  
- Những phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ được nhắc  
đến trong các mục nhỏ tiếp theo là những phương pháp được biết  
đến khá rộng rãi, và bản thân người viết cũng quan tâm đến chúng  
nhiều hơn so với các phương pháp khác. Do vậy, bạn đọc không nên  
hiểu rằng những gì được trình bày trong quyển sách này là tất cả các  
phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ.  
- Trình bày mang tính chất tổng quan chứ không phải trình bày  
chi tiết như người viết đã và sẽ trình bày các phương pháp sáng tạo  
của TRIZ. Do vậy, nếu quan tâm, bạn đọc cần đọc các sách nguyên  
bản của chính tác giả phương pháp (xem phần Tài liệu tham khảo ở  
cuối sách này). Nếu quan tâm hơn nữa, bạn đọc có thể tham dự các  
lớp học dạy phương pháp đó.  
- Trình bày các phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ trong  
các mục nhỏ tiếp theo, dù người viết cố gắng cách mấy, vẫn mang  
tính chủ quan. Do vậy, nếu có gì chưa rõ, một lần nữa, bạn đọc hãy  
quay trở về với các quyển sách của tác giả phương pháp tương ứng.  
13.3.2. Các phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ  
dựa trên các kinh nghiệ m  
Ở đây, kinh nghiệm được hiểu là cách thức có được nhờ sự quan  
sát trong hoạt động thực tế mối quan hệ nhân – quả lặp đi lặp lại  
nhiều lần kiểu: Nếu làm theo cách thức này thì thường thu được kết  
quả tốt.  
Các kinh nghiệm áp dụng hữu hiệu vào việc thực hiện một hoặc  
vài công việc nào đó của quá trình suy nghĩ sáng tạo, có thể được  
phát triển thành các phương pháp. Khi đưa ra các phương pháp dựa  
trên các kinh nghiệm, các tác giả của chúng thường không mấy quan  
tâm đến các cơ sở tri thức và tiêu chuẩn đòi hỏi phải có đối với các  
phương pháp khoa học. Mặc dù, các cơ sở và tiêu chuẩn này có thể  
sẽ được làm rõ và chính xác hóa trong tương lai.  
Điều này cũng tương tự những bài thuốc chữa bệnh theo kinh  
nghiệm dân gian được dùng qua nhiều đời. Nhưng mãi sau này, y –  
dược học hiện đại mới phát hiện ra và giải thích cơ sở, cơ chế chữa  
trị… của những bài thuốc kinh nghiệm dân gian đó một cách khoa  
học. Nhờ vậy, những bài thuốc chữa bệnh theo kinh nghiệm dân  
gian có được cơ hội nâng cao hiệu quả, giá trị và phát triển tiếp.  
Các phương pháp sáng tạo không phải của TRIZ được người viết  
chọn vào mục nhỏ này là các phương pháp chủ yếu dựa trên kinh  
nghiệm trong ý nghĩa vừa giải thích ở trên. Do vậy, không chỉ trình  
bày nội dung phương pháp như nó vốn có, mà người viết sẽ còn cho  
thêm các nhận xét giải thích cơ sở và cơ chế hoạt động của phương  
pháp, mà những nhận xét này có sau khi phương pháp ra đời, cũng  
như các nhận xét khác.  
Ngoài ra, người viết muốn lưu ý bạn đọc, “kinh nghiệm” nói đến  
ở đây có thể là kinh nghiệm của một người, nhiều người, nhiều thế  
hệ; kinh nghiệm khác nhau ứng với các công việc khác nhau; kinh  
nghiệm khác nhau về mức độ cụ thể; kinh nghiệm khác nhau về mức  
độ khó khi áp dụng;…  
13.3.2.1. Phương pháp sáu c  
â
u h  
ỏ i (Interrogatories  
(5  
W
s/  
H) Method ho ive W  
c
F
s and H Method)  
Sáu câu hỏi được Parnes, Moller và Biondi tập trung nhấn mạnh  
từ năm 1977 là:  
- Who? Ai? Con gì?  
- What? Cái gì? Cái nào? (“What” trong tiếng Anh còn được dùng  
như tính từ và dùng tương đối đa dạng. Ví dụ, “In what ways might  
we prevent this thing?” – Có những cách nào chúng ta có thể ngăn  
chặn được điều này  
? ; “What use is it?” – Cái này đem lại ích lợi gì? ;  
“He gave her what money he had” – Anh ấy đã đưa cho chị ta tất cả  
số tiền mà anh ấy có; “What a pity it is  
- Where? Ở đâu?  
! ” – Thật đáng tiếc…  
- When? Khi nào?  
- Why? Tại sao?  
- How? Như thế nào? Bằng cách nào? Bao nhiêu? (How much?  
How many?)…  
Trước đó rất lâu, sáu câu hỏi vừa nêu đã được Rudyard Kipling  
đánh giá cao và gọi là “sáu người phục vụ trung thực nhất” (Six  
honest serving-men) trong bài thơ của mình:  
I HAD SIX HONEST SERVING-MEN,  
THEY TAUGHT ME ALL I KNEW.  
THEIR NAMES WERE WHAT AND HOW AND WHY  
AND WHEN AND WHERE AND WHO.  
Tạm dịch ý:  
TÔI CÓ SÁU NGƯỜI PHỤC VỤ TRUNG THỰC NHẤT  
HỌ DẠY TÔI TẤT CẢ NHỮNG ĐIỀU TÔI BIẾT ĐẾN  
NAY  
TÊN CỦA HỌ LÀ CÁI GÌ, BẰNG CÁCH NÀO, TẠI SAO,  
KHI NÀO, Ở ĐÂU VÀ AI  
Phương pháp sáu câu hỏi có xuất xứ từ lĩnh vực báo chí  
(journalism). Những câu hỏi này giúp các phóng viên thu thập các  
thông tin cần thiết một cách có hệ thống.  
Trong quá trình giải quyết vấn đề và ra quyết định, phương pháp  
sáu câu hỏi thường được dùng ở giai đoạn tìm thông tin để làm rõ  
vấn đề, mặc dù nó cũng đem lại nhiều ích lợi cả ở những giai đoạn  
khác của quá trình suy nghĩ.  
Giả sử bạn cần làm rõ (hiểu) vấn đề, sáu câu hỏi có thể được dùng  
theo thứ tự các bước sau:  
1) Phát biểu bài toán.  
2) Đặt và trả lời các câu hỏi Ai  
?
Cái gì  
?
đâu? Khi nào? Tại sao?  
Bằng cách nào mà không phán xét.  
?
3) Xem xét và sử dụng các câu trả lời như là những gợi ý giúp làm  
rõ (hiểu) bài toán. Ghi lại những gì thu được ở bước này.  
4) Dựa trên bước 3, chọn ra phương án hoặc phương án tổng  
hợp giúp làm rõ (hiểu) bài toán nhất để từ đó chuyển sang giai đoạn  
suy nghĩ tiếp theo.  
Ví dụ: Bài toán khắc phục sự thụ động của sinh viên trong lớp  
học.  
1) Phát biểu bài toán: Có những cách nào chúng ta có thể (In what  
ways might we – viết tắt là IWWMW) khắc phục tính thụ động của  
sinh viên trong lớp học?  
2) Ghi lại các câu hỏi (H) và các câu trả lời (TL).  
H: Ai bức xúc về vấn đề này?  
TL: Các thầy cô tâm huyết và các sinh viên có ý thức học tập  
không hài lòng về sự thụ động của phần lớn sinh viên trong lớp học.  
H: Vậy chủ động là ?  
TL: Chủ động là sự tham gia tự giác, tích cực của tất cả (hoặc  
phần lớn) sinh viên vào các hoạt động trên giảng đường như xung  
phong trả lời các câu hỏi, lên bảng giải các bài tập thầy cô cho, đặt  
các câu hỏi liên quan đến việc đào sâu, mở rộng bài học… cho thầy  
cô, cho các bạn cùng học.  
H: Cái gì thúc đẩy sinh viên tham gia tích cực vào các hoạt động  
trong lớp học?  
TL: Sinh viên phải thắng được tính rụt rè; phải tự tin; phải làm  
chủ kiến thức. Môi trường lớp học phải khuyến khích, kích thích  
tính chủ động của sinh viên. Phải có biện pháp khen thưởng dành  
cho các sinh viên chủ động.  
H: Ở đâu sinh viên cần tham gia tích cực vào các hoạt động  
trong lớp học?  
TL: Ở các buổi nghe giảng, seminar, chữa bài tập, sinh viên  
thuyết trình trước lớp, bảo vệ khóa luận, làm các thí nghiệm…  
H: Khi nào sinh viên tham gia tích cực vào các hoạt động trong  
lớp học?  
TL: Khi họ chuẩn bị bài ở nhà (làm bài tập, ôn bài cũ, đọc trước  
bài mới) tốt. Khi họ có ý thức về các ích lợi của tính chủ động. Khi  
hiểu rằng không nắm vững kiến thức, họ rất khó xin việc làm sau  
này…  
H: Tại sao phải khắc phục tính thụ động của sinh viên trong lớp  
học?  
TL: Để thầy cô có được quan hệ phản hồi thường trực, thông  
suốt, từ đó, đánh giá đúng kết quả giảng dạy, học tập và có các biện  
pháp điều chỉnh cần thiết; để thầy cô có hứng thú dạy; để tăng cường  
ý thức học tập của sinh viên; để góp phần xây dựng phương pháp  
học tập của sinh viên…  
H: Bằng cách nào khắc phục tính thụ động của sinh viên trong  
lớp học?  
TL: Thầy cô giảng bài thật thuyết phục, thật hay, đáp ứng đúng  
nhu cầu của sinh viên để sinh viên yêu mến môn học; thầy cô có thái  
độ thân thiện, bao dung đối với sinh viên; thầy cô có các biện pháp  
thưởng-phạt phù hợp; giáo dục, rèn luyện tính chủ động ngay từ khi  
còn là học sinh phổ thông…  
3) Từ các câu hỏi và trả lời ở trên, vấn đề ban đầu được phát biểu  
ở bước 1 có thể được phát biểu lại và trở nên rõ ràng hơn như:  
- Có những cách nào chúng ta có thể (IWWMW) biết nhu cầu của  
sinh viên muốn học gì?  
- Có những cách nào chúng ta có thể làm cho sinh viên tự tin làm  
chủ kiến thức?  
- Có những cách nào chúng ta có thể xây dựng môi trường khuyến  
khích tính chủ động của sinh viên?  
- Có những cách nào chúng ta có thể xây dựng các biện pháp  
thưởng-phạt thích hợp cho các hoạt động của sinh viên trong lớp  
học?  
- Có những cách nào chúng ta có thể thuyết phục sinh viên rằng,  
tính chủ động đem lại nhiều ích lợi cho chính họ?  
- Có những cách nào chúng ta có thể làm các hoạt động trên lớp  
(bài giảng, seminar,…) trở nên hấp dẫn, thú vị hơn đối với sinh viên?  
- Có những cách nào chúng ta có thể giáo dục, huấn luyện tính  
chủ động của sinh viên?  
...................................  
4) Các phương án tìm ra ở bước 3 giúp người giải bài toán hiểu  
bài toán ban đầu tốt hơn. Từ đây, tùy theo điều kiện khách quan,  
mong muốn chủ quan, người giải có thể chọn một hoặc tổng hợp vài  
phương án để có được bài toán cụ thể cần giải.  
NHẬN XÉT:  
1) Trên đây người viết đã trình bày nội dung và cách sử dụng  
phương pháp sáu câu hỏi. Trong PPLSTVĐM còn có những phương  
pháp một câu hỏi như “Phương pháp còn gì khác? (What else  
Method), “Phương pháp cái gì, nếu” (What if Method), Phương  
pháp tại sao” (Why Method). Dưới đây là ví dụ minh họa việc sử  
dụng những phương pháp này.  
Trong phương pháp thử và sai (xem mục 2.2. Phương pháp thử  
và sai của quyển một), thường có được ý tưởng nào người giải thực  
hiện ngay ý tưởng đó. Chỉ khi thấy phép thử đó sai, người giải mới  
tìm kiếm ý tưởng khác để thực hiện tiếp. “Phương pháp còn gì khác”  
đòi hỏi người giải sau khi có một ý tưởng phải tìm thêm ý tưởng  
khác, khác nữa… mà khoan thực hiện chúng vội.  
Sau khi phát cạn ý tưởng, “phương pháp cái gì, nếu” đề nghị  
người giải thay vì thực hiện thử các ý tưởng thì tưởng tượng: Cái gì  
sẽ xảy ra nếu thực hiện ý tưởng này…, nếu thực hiện ý tưởng kia…  
Nhờ vậy, người giải có thể phát hiện ra các phép thử sai ngay trong  
tưởng tượng, tránh trả giá đắt trong thực tế.  
“Phương pháp tại sao” giúp trừu tượng hóa bài toán cụ thể ban  
đầu, nhờ vậy, giúp người giải tự tin quyết định nên hay không nên  
giải bài toán cụ thể ban đầu. Chẳng hạn, chúng ta quay trở lại ví dụ:  
Khắc phục sự thụ động của sinh viên trong lớp học.  
H: Tại sao chúng ta muốn khắc phục sự thụ động của sinh viên  
trong lớp học?  
TL: Vì chúng ta muốn đánh giá đúng thực trạng học tập của sinh  
viên một cách kịp thời. Chờ tới lúc có kết quả thi học kỳ hoặc cuối  
năm thì đã muộn.  
H: Tại sao chúng ta muốn đánh giá đúng thực trạng học tập của  
sinh viên một cách kịp thời?  
TL: Vì có như thế chúng ta mới biết phải điều chỉnh việc dạy học  
như thế nào để có được các chuyên gia giỏi, nhân cách tốt.  
H: Tại sao chúng ta cần có các chuyên gia giỏi, nhân cách tốt?  
TL: Vì chúng ta muốn đạt mục tiêu hiện đại hóa, công nghiệp hóa,  
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.  
Rõ ràng, bài toán cụ thể ban đầu (khắc phục sự thụ động của sinh  
viên trong lớp học) là bài toán cần thiết phải giải.  
2) Nói chung, loại phương pháp các câu hỏi (không phân biệt số  
lượng các câu hỏi) có cơ sở là: Người ta chỉ thực sự suy nghĩ, thậm  
chí, bị bắt buộc phải suy nghĩ khi có vấn đề (xem khái niệm “vấn đề”  
trong mục 1.2. Một số khái niệm cơ bản và các ý nghĩa của chúng  
của quyển một).  
Xét về mặt hình thức, vấn đề đơn giản nhất, nhỏ nhất là câu hỏi  
chưa có câu trả lời hoặc câu hỏi có nhiều câu trả lời nhưng chưa biết  
câu trả lời nào là tối ưu. Nói cách khác, các câu hỏi là điều kiện ban  
đầu của quá trình suy nghĩ, là nguồn kích thích tư duy làm việc, là  
thể hiện trí tò mò của những người muốn hiểu biết thêm.  
Quá trình suy nghĩ tiếp theo lại là quá trình người suy nghĩ đối  
thoại với chính mình, tự hỏi và đáp, lúc đóng vai trò thu thông tin,  
lúc đóng vai trò phát thông tin (xem mục 8.6.3. Tư duy lôgích:  
Người thu và phát thông tin). Lôgích và nghệ thuật tư duy, nếu  
không nói quá, là lôgích và nghệ thuật đặt các câu hỏi và đưa ra các  
câu trả lời.  
Từ đây, bạn đọc có thể thấy, sáu câu hỏi trong “Phương pháp sáu  
câu hỏi” chỉ là sáu câu hỏi thông dụng chứ không phải tất cả các câu  
hỏi dùng để tư duy.  
3) Các câu hỏi mồi cho tư duy hoạt động, trước hết, là để trả lời  
chính những câu hỏi đó. Trả lời các câu hỏi như thế nào phụ thuộc  
rất nhiều vào kiến thức, kinh nghiệm, các công cụ tư duy… mà cá  
nhân người giải có. Những người khác nhau thì các nguồn lực này  
cũng khác nhau. Do vậy, đối với cùng một câu hỏi, các câu trả lời có  
thể khác nhau về mặt giá trị giải bài toán.  
4) Tương tự như vậy, việc đặt các câu hỏi cũng phụ thuộc rất  
nhiều vào kiến thức, kinh nghiệm, các công cụ tư duy… mà cá nhân  
người giải có. Cùng giải một bài toán, những cá nhân khác nhau có  
thể đặt các câu hỏi khác nhau, dẫn đến các hướng suy nghĩ với các  
giá trị khác nhau.  
5) Từ những gì phân tích ở trên, nếu chỉ dừng ở các phương pháp  
câu hỏi kiểu như phương pháp một hoặc sáu câu hỏi thì các phương  
pháp này chỉ dùng để giải những bài toán có mức khó thấp.  
13.3.2.2.  
N hóm các phương pháp các câu hỏi kiểm tra  
(Check – listing Method ho  
Questions)  
ặ c Method of Control  
Từ những năm 1920, không ít nhà nghiên cứu đã có những cố  
gắng xây dựng các danh sách các câu hỏi kiểm tra nhằm giúp người  
giải bài toán suy nghĩ tốt hơn. Mỗi danh sách câu hỏi kiểm tra dùng  
cho một lĩnh vực nhất định, thậm chí, cụ thể hơn cho một loại công  
việc nhất định. Điều này có nghĩa, có rất nhiều danh sách các câu hỏi  
kiểm tra trong PPLSTVĐM.  
Mỗi danh sách bao gồm nhiều (chứ không chỉ sáu) câu hỏi đòi hỏi  
người sử dụng danh sách phải trả lời. Ngoài ra trong danh sách còn  
có những lời khuyên, lời đề nghị người sử dụng danh sách thực hiện  
một hoặc vài công việc nhất định, mà tác giả danh sách cho rằng đấy  
là công việc cần thiết phải làm để tăng năng suất, hiệu quả suy nghĩ  
giải bài toán.  
Thông thường, sau khi chọn cho mình một danh sách các câu hỏi  
kiểm tra thích hợp, bạn có thể sử dụng danh sách đó như sau:  
- Thỉnh thoảng giở danh sách ra xem, bạn nhớ được tới đâu thì  
nhớ, không nhất thiết phải học thuộc lòng toàn bộ “Danh sách”.  
- Khi giải bài toán, bạn để danh sách các câu hỏi kiểm tra bên  
cạnh và tùy từng giai đoạn suy nghĩ của mình, bạn chọn (các) câu hỏi  
để trả lời, (các) đề nghị để thực hiện.  
Dưới đây là ba danh sách các câu hỏi kiểm tra được đánh giá vào  
loại cao nhất dùng trong các lĩnh vực tương ứng.  
1. Danh sách các câu hỏi kiểm tra của A. Osborn, người  
Mỹ, đưa ra năm 1953, dùng cho lĩnh vực sáng chế.  
1) Bạn có đề nghị gì mới về việc sử dụng đối tượng kỹ thuật? Có  
thể có những cách sử dụng mới không? Làm biến thể những cách sử  
dụng đã biết như thế nào?  
2) Có thể có lời giải bài toán sáng chế bằng cách thích nghi hóa,  
đơn giản hóa, lược bớt không? Đối tượng kỹ thuật cho trước làm  
bạn nhớ đến cái gì? Sự tương tự hóa có đưa ra ý tưởng gì mới  
không? Trong quá trình sống và làm việc trước đây có những tình  
huống vấn đề nào tương tự để có thể sử dụng chúng? Có thể sao  
chép lại điều gì? Cần phải vượt trước đối tượng nào?  
3) Có thể có những.biến thể nào của đối tượng kỹ thuật? Liệu có  
biến thể bằng cách quay, uốn, vặn hay không? Có thể có những thay  
đổi nào về chức năng, màu sắc, mùi, hình dáng? Những thay đổi  
khác có thể?  
4) Cái gì có thể làm tăng lên trong đối tượng kỹ thuật? Có thể nối  
thêm gì ? Có thể làm tăng thời gian phục vụ, tăng tác động được  
không? Làm tăng tần số? Kích thước? độ bền? Nâng cao chất lượng?  
Ghép thêm các thành phần mới? Làm trùng lặp? Làm tăng số lượng  
các bộ phận làm việc, vị trí hoặc những yếu tố khác? Có thể tăng quá  
mức các yếu tố hay toàn bộ đối tượng được không?  
5) Cái gì có thể làm giảm xuống trong đối tượng kỹ thuật? Có thể  
trừ bớt cái gì ? Cái gì có thể làm chặt lại, co lại, đậm đặc, ngưng tụ, vi  
hóa, làm ngắn lại, làm hẹp lại, phân nhỏ ra?  
6) Cái gì trong đối tượng kỹ thuật có thể bị thay thế? Có thể thay  
thế cái gì và bao nhiêu, thay thế bởi cái gì? Thành phần khác? Vật  
liệu khác? Quá trình khác? Nguồn năng lượng khác? Sắp xếp khác?  
Màu, âm thanh, sự chiếu sáng khác?  
7) Cái gì có thể biến đổi được trong đối tượng kỹ thuật? Những  
yếu tố nào có thể thay thế lẫn nhau được? Thay đổi mô hình? Thay  
đổi sự phân bố? Thay đổi thứ tự các thao tác? Chuyển vị nguyên  
nhân và kết quả? Thay đổi vận tốc hoặc nhịp độ? Thay đổi chế độ  
làm việc?  
8) Cái gì có thể làm ngược lại trong đối tượng? Chuyển vị dương  
và âm? Những yếu tố đối diện nhau có thể đổi chỗ cho nhau được  
không? Quay chúng từ trước ra sau? Quay từ dưới lên trên? Đổi  
chỗ? Đổi vai trò? Đổi các đầu kẹp?  
9) Có thể có những tổ hợï p mới nào các yếu tố của đối tượng kỹ  
thuật? Có thể tạo ra hỗn hợp, hợp kim, mặt hàng mới, bộ phụ tùng  
mới không? Kết hợp các bộ phận, nút, khối, các tổ hợp máy? Kết  
hợp các mục đích? Kết hợp các dấu hiệu hấp dẫn? Kết hợp các ý  
tưởng?  
2. Danh sách các câu hỏi kiểm tra của T. Eiloart, người  
Anh, đưa ra năm 1969 dùng cho lĩnh vực sáng chế.  
1) Liệt kê tất cả các phẩm chất và định nghĩa của sáng chế cần có.  
Thay đổi chúng.  
2) Phát biểu bài toán rõ ràng. Thử phát biểu những cách khác.  
Xác định những bài toán thứ cấp, tương tự. Tách ra những bài toán  
chủ yếu.  
3) Liệt kê những nhược điểm cơ bản của những lời giải đã có, các  
nguyên tắc cơ bản, những giả thiết mới.  
4) Đưa ra các tương tự viễn tưởng, sinh học, kinh tế, hóa học,  
phân tử và những tương tự khác.  
5) Xây dựng các mô hình toán học, thủy lực, điện tử, cơ học và  
các mô hình khác (mô hình thể hiện ý tưởng chính xác hơn sự tương  
tự).  
6) Thử các loại vật liệu, năng lượng khác nhau: khí, chất lỏng,  
chất rắn, keo, bọt, bột nhão…; nhiệt, điện, từ, ánh sáng, lực va  
chạm…; các bước sóng khác nhau, các tính chất bề mặt…; các trạng  
thái chuyển pha: sự đông đặc, ngưng kết, sự chuyển tiếp qua điểm  
Curie…; các hiệu ứng Joule-Thomson, Faraday…  
7) Thiết lập các khả năng, các sự phụ thuộc, các liên kết có thể,  
các suy luận lô gích.  
8) Tìm hiểu ý kiến của những người hoàn toàn không am hiểu  
lĩnh vực cho trước.  
9) Tổ chức thảo luận tập thể, đặc biệt trong lúc ăn uống, nghe tất  
cả và từng ý tưởng mà không phê bình, chỉ trích.  
10) Thử những lời giải mang tính cách dân tộc: sự khôn ngoan  
của người Scotland, sự bao quát của người Đức, sự xa xỉ của người  
Mỹ, sự cầu kỳ phức tạp của người Trung quốc…  
11) Khi ngủ cũng nghĩ đến bài toán, đi làm việc, dạo chơi, tắm, đi  
ô tô, uống, ăn, chơi tennis đều nghĩ về bài toán.  
12) Đi dạo ở những nơi gợi ý sáng tạo: nghĩa địa máy móc, bãi rác  
sắt vụn, các bảo tàng kỹ thuật, các cửa hàng bán những đồ vật rẻ.  
Đọc lướt các tạp chí, tập san hài hước.  
13) Phác thảo bảng giá thành, độ lớn, độ dịch chuyển, phân loại,  
vật liệu… cho các lời giải khác nhau của bài toán hay các phần khác  
nhau của bài toán; tìm những chỗ thiếu trong các lời giải hoặc đưa ra  
những tổ hợp mới.  
14) Xác định lời giải lý tưởng, soạn thảo những lời giải có thể có.  
15) Làm biến thể lời giải bài toán theo thời gian (làm nhanh hơn  
hay chậm hơn), theo kích thước, theo độ nhớt…  
16) Trong tưởng tượng, biến mình thành đối tượng kỹ thuật  
(empathy).  
17) Xác định những bài toán và những hệ thống mà từ đó có thể  
chọn được một. Trong những hệ thống này thử lấy đi một mắt xích  
nhất định, do đó, có thể tạo nên cái gì đó khác.  
18) Bài toán này là của ai? Tại sao lại của chính người đó?  
19) Ai nghĩ ra cái này đầu tiên? Lịch sử của vấn đề? Đã có những  
giải thích sai nào về bài toán này?  
20) Ai còn đang giải bài toán này? Người ấy đã đạt được điều gì?  
21) Xác định những điều kiện biên và những nguyên nhân thiết  
lập chúng.  
3. Các câu hỏi kiểm tra của G. Polya, nhà toán học người  
Mỹ gốc Hungary, đưa ra năm 1945 dùng để giải các bài tập  
toán học trong các trường phổ thông.  
A. Hiểu cách đặt vấn đề của bài toán (cần phải hiểu bài toán một  
cách rõ ràng): Cái gì chưa biết? Cái gì cho trước? Điều kiện bài toán  
thể hiện ở chỗ nào? Có thể làm thỏa mãn điều kiện không? Điều kiện  
có đủ để xác định cái chưa biết không? Hay là không đủ? Hay là  
thừa? Hay là mâu thuẫn? Hãy vẽ hình, đưa vào những ký hiệu thích  
hợp. Hãy phân chia điều kiện thành từng phần. Cố gắng ghi chúng  
lại.  
B. Lập kế hoạch giải (cần phải đi tìm mối liên hệ giữa những cái  
cho trước và những cái chưa biết. Nếu chưa làm ngay được điều ấy,  
sẽ rất có ích khi xem xét thêm những bài toán phụ trợ. Cuối cùng cần  
đi tới kế hoạch giải bài toán):  
- Trước đây bạn đã gặp bài toán này chưa? Dù là ở dạng khác một  
chút? Bạn có biết bài toán họ hàng với bài toán cho trước hay  
không? Bạn có biết định lý nào có ích trong trường hợp này không?  
- Hãy xem xét kỹ cái chưa biết. Cố gắng nhớ lại bài toán quen  
thuộc có cùng hoặc gần giống về cái chưa biết.  
- Giả sử có bài toán họ hàng với bài toán cho trước và đã giải rồi.  
Có thể sử dụng nó được không? Sử dụng kết quả, phương pháp giải?  
Có cần đưa thêm yếu tố phụ trợ nào để có thể sử dụng bài toán đã  
giải?  
- Có cách khác phát biểu bài toán không? Khác nữa? Hãy quay trở  
về với định nghĩa.  
- Nếu như không giải được bài toán cho trước, cố gắng giải bài  
toán gần giống nó. Có thể nghĩ ra bài toán tương đồng mà dễ hơn  
không? Bài toán chung hơn? Đặc biệt hơn? Bài toán tương tự? Có  
thể giải một phần bài toán được không?  
- Hãy giữ lại một phần điều kiện bài toán, phần còn lại thì bỏ đi:  
cái chưa biết lúc đó ở mức độ xác định nào, nó thay đổi như thế nào?  
Có thể lấy được gì có ích từ những cái đã cho? Có thể nghĩ ra thêm  
dữ kiện để xác định cái chưa biết được không? Có thể thay đổi cái  
chưa biết hoặc điều kiện bài toán, hoặc nếu cần thiết cả điều kiện và  
cả cái chưa biết để điều kiện mới và cái chưa biết mới gần lại với  
nhau hơn? Bạn đã sử dụng tất cả các điều kiện chưa? Bạn đã thực sự  
chú ý tới những khái niệm cơ bản trong bài toán chưa?  
C. Thực hiện kế hoạch (cần phải thực hiện kế hoạch giải bài toán):  
Khi thực hiện kế hoạch, bạn hãy kiểm tra từng bước đi của mình.  
Bạn có thấy rõ bước mà bạn vừa quyết định là đúng hay không? Có  
thể chứng minh được điều đó không?  
D. Tổng kết (nghiên cứu lời giải nhận được):  
- Có thể kiểm tra lại kết quả giải được không? Quá trình giải?  
- Có thể nhận kết quả bằng cách khác được không?  
- Có thể sử dụng kết quả giải hay cách giải vừa thu được vào bài  
toán khác được không?  
NHẬN XÉT:  
1) Tuy có tên là “Danh sách các câu hỏi kiểm tra” nhưng về mặt  
hình thức, không phải tất cả các câu có trong danh sách là các câu  
hỏi, mà có cả các câu dưới dạng lời khuyên, lời đề nghị thực hiện  
một (vài) công việc nào đấy. Điều này hiểu được vì, trong rất nhiều  
trường hợp, các câu hỏi và các câu đề nghị có thể xem là tương  
đương nhau.  
Ví dụ, câu 1 trong “Danh sách các câu hỏi kiểm tra của A. Osborn”  
viết dưới dạng câu hỏi:  
1. Bạn có đề nghị gì mới về việc sử dụng đối tượng kỹ  
thuật? Có thể có những cách sử dụng mới không? Làm biến  
thể những cách sử dụng đã biết như thế nào?  
Có thể chuyển thành câu đề nghị:  
1. Hãy đưa ra những đề nghị mới về việc sử dụng đối  
tượng kỹ thuật: Hãy tìm kiếm những cách sử dụng mới.  
Hãy chỉ ra những cách làm biến thể cách sử dụng đã biết để  
có những cách sử dụng mới.  
Hoặc, câu 1 trong “Danh sách các câu hỏi kiểm tra của T. Eiloart”  
viết dưới dạng lời đề nghị:  
1. Liệt kê tất cả các phẩm chất và định nghĩa của sáng chế  
cần có. Thay đổi chúng.  
Có thể chuyển thành câu hỏi:  
1. Sáng chế cần có có những phẩm chất và định nghĩa gì?  
Có những cách nào thay đổi chúng?  
2) Thông thường, không có đòi hỏi bắt buộc phải sắp xếp các câu  
trong “Danh sách các câu hỏi kiểm tra” theo một trình tự hoặc một  
tiêu chuẩn nhất định. Điều này thể hiện khá rõ trong “Danh sách các  
câu hỏi kiểm tra của A. Osborn” và “Danh sách các câu hỏi kiểm tra  
của T. Eiloart”. Người sử dụng, do vậy, có thể chọn câu nào thích  
hợp nhất với mình tại thời điểm đang suy nghĩ trong ngữ cảnh giải  
bài toán cho trước, chứ không nhất thiết phải theo thứ tự của các  
câu, mặc dù các câu được đánh số.  
Tuy nhiên, có những tác giả không dừng lại ở việc tập hợp các câu  
mà còn sắp xếp chúng theo những cách giúp sử dụng “Danh sách” dễ  
dàng hơn hoặc “Danh sách” phát huy ích lợi cao hơn. “Danh sách các  
câu hỏi kiểm tra của G. Polya” thuộc loại này. Cụ thể, các câu trong  
“Danh sách” phản ánh một cách lôgích lần lượt các giai đoạn A, B, C,  
D của quá trình suy nghĩ giải các bài tập toán học phổ thông. Người  
sử dụng “Danh sách” phải suy nghĩ và thực hiện tuân theo thứ tự của  
các câu.  
3) Thông qua nghiên cứu ba “Danh sách” được người viết dẫn ra  
ở trên, bạn đọc có thể thấy:  
- Nói chung, mỗi “Danh sách các câu hỏi kiểm tra” là sự tập hợp:  
a) Các câu nhắc nhớ để giúp người suy nghĩ khỏi quên, khắc phục  
tính ì tâm lý “thiếu” (xem mục nhỏ 6.5.3. Tính ì tâm lý do ức chế  
(Tính ì tâm lý “thiếu”) của quyển hai).  
Điều này là cần thiết vì, khi người giải tập trung suy nghĩ về  
hướng này, người giải thường quên các hướng suy nghĩ có thể có  
khác.  
b) Các kinh nghiệm mạnh thường dùng trong lĩnh vực hoặc công  
việc cho trước.  
Ví dụ, điều này thể hiện khá rõ trong các câu 8, 9, 10, 11, 12 của  
“Danh sách các câu hỏi kiểm tra của T. Eiloart”.  
c) Các thủ thuật, phương pháp mạnh thường dùng trong lĩnh vực  
hoặc công việc cho trước.  
Ví dụ, trong hai “Danh sách” của A. Osborn và T. Eiloart, bạn đọc  
có thể thấy tên các thủ thuật như “sao chép”, “thay đổi màu sắc”, “kết  
hợp”, “phân nhỏ”…; các phương pháp như “thảo luận tập thể”, “sử  
dụng sự tương tự”… Tuy nhiên, bạn đọc cần lưu ý, cách hiểu các thủ  
thuật trong các “Danh sách” không thật sâu sắc và đầy đủ như trong  
TRIZ (xem quyển bốn và quyển năm của bộ sách “Sáng tạo và đổi  
mới”); cách hiểu các phương pháp cũng không đầy đủ như chính các  
“Phương pháp não công” (Brainstorming) về làm việc tập thể,  
“Phương pháp sử dụng các phép tương tự” (Synectics), sẽ được  
người viết trình bày trong những phần sau.  
Các kinh nghiệm, thủ thuật, phương pháp tập hợp trong “Danh  
sách các câu hỏi kiểm tra” có mục đích giúp người sử dụng phát  
được nhiều ý tưởng theo tinh thần: “Bạn có càng nhiều ý tưởng  
trong tay, xác suất có được ý tưởng dẫn đến lời giải càng lớn”.  
Tóm lại, những câu nhắc nhớ, kinh nghiệm, thủ thuật, phương  
pháp được tập hợp lại thành “Danh sách các câu hỏi kiểm tra”, chủ  
yếu, giúp khắc phục hai nhược điểm của phương pháp thử và sai là  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 269 trang Thùy Anh 13/05/2022 2980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Các phương pháp sáng tạo (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_cac_phuong_phap_sang_tao_phan_2.pdf