Chủ nghĩa hướng ngoại và ý định mua hàng ngoại của người tiêu dùng đô thị Việt Nam

INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019  
ICYREB 2019  
CHỦ NGHĨA HƯỚNG NGOẠI VÀ Ý ĐỊNH MUA HÀNG NGOẠI  
CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG ĐÔ THVIT NAM  
COSMOPOLITANISM AND FOREIGN PURCHASE INTENTION OF URBAN  
VIETNAMESE CONSUMERS  
Đặng ThKim Thoa  
Trường Đại hc Kinh tế Quốc dân  
TÓM TẮT  
Nghiên cứu này sử dụng lý thuyết hành vi có kế hoch của Ajzen (1991) để đánh giá tác động ca chủ nghĩa  
hướng ngoại đến ý định mua hàng ngoại của người tiêu dùng Việt. Mt cuc khảo sát được thc hin vi dliu  
thu thập được là 332 người tiêu dùng tại thủ đô Hà Nội và hàng hóa được la chọn là hàng may mặc. Kết quả  
phân tích hi quy bi ng h6/7 githuyết nghiên cứu. Tt cba tin tố trong mô hình TPB bao gồm thái độ đối  
với hành vi mua hàng ngoại, chun chủ quan và nhận thc kiểm soát hành vi có tác động tích cực đối với ý định  
mua hàng ngoại. Kết quả cũng cho thấy tư duy mở và đánh giá tính đa dạng là hai trong ba thành phần ca chủ  
nghĩa hướng ngoi (bao gồm tư duy mở, đánh giá tính đa dạng và tiêu dùng vượt biên) có tác động thun chiu  
đến ý định mua hàng ngoại. Các kết quả nghiên cứu được tho luận và cung cấp các hàm ý về quản lý cho các  
nhà quản tr.  
Từ khóa: Ý định mua hàng ngoại, chủ nghĩa hướng ngoại, hàng may mặc, lý thuyết hành vi có kế hoch,  
người tiêu dùng đô thị.  
ABSTRACT  
This study focuses on examining the impact of cosmopolitanism on foreign purchase intention for urban  
consumers in Vietnam. An extended Theory of Planned Behavior (TPB) (Ajzen,1991) is applied as a conceptual  
framework for this study. A survey data obtains from 332 consumers in Hanoi, the capital of Vienam. The  
regression results show support 6/7 our hypotheses. All three antecedents in the TPB model, including attitude  
towards foreign purchase, subjective norm, and perceived behavioral control are found to have positive impacts  
on foreign purchase intention. The findings also indicate that two out of three components of cosmopolitanism  
(including open-mindedness, diversity appreciation, and consumption transcending borders) are significant  
predictors of foreign purchase intention. The research findings are discussed and implications for managers are provided.  
Keywords: Foreign purchase intention, cosmopolitanism, clothing, theory of planned behavior, urban consumer.  
1. Gii thiu  
Toàn cầu hóa thúc đẩy sự kết nối và phụ thuộc lẫn nhau không chỉ giữa các quốc gia và các doanh  
nghiệp mà còn giữa các nền văn hóa và các cá nhân (Steger, 2009). Người tiêu dùng ngày càng được tiếp  
xúc với các nền văn hóa và các cách thức tiêu dùng khác nhau thông qua sự dịch chuyển của các cá nhân  
và sự phát triển của các phương tiện thông tin, đặc biệt là internet (Beckmann và cộng sự, 2001). Quan  
niệm về người tiêu dùng theo chủ nghĩa hướng ngoại (Cosmopolitan consumer) (Cannon và cộng sự,  
1994) hay những công dân toàn cầu (citizens of the world) (Delanty, 2014) xuất hiện và được nghiên cứu  
ngày càng nhiều trong lĩnh vực marketing và quản trị (Cleveland và cộng sự, 2011). Theo đó, người tiêu  
dùng theo chủ nghĩa hướng ngoại có khuynh hướng sử dụng phương tiện truyền thông quốc tế, sách, phim  
nước ngoài (Hannerz, 1990); là những người có thái độ, niềm tin và tính cách đặc trưng cho một tư duy  
văn hóa mở (dẫn từ Cleveland và cộng sự, 2011); coi cả thế giới đều là thị trường của mình (Cannon và  
Yaprak, 2002; Caldwell và cộng sự, 2006; Cleveland và cộng sự, 2009) và thường có khuynh hướng giải  
quyết những nhu cầu cần thiết với các sản phẩm và dịch vụ theo hướng tốt nhất mà không cần quan tâm đến  
những giá trị truyền thống hay ảnh hưởng xã hội (Riefler và Diamantopoulos, 2009).  
Tại các nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, tăng trưởng kinh tế cũng dẫn đến sự gia tăng chủ nghĩa  
hướng ngoại của người tiêu dùng (Lee và cộng sự, 2014), kích thích mong muốn sở hữu các mặt hàng có  
liên quan với lối sống phương Tây (Alden và cộng sự, 2006; Caldwell và cộng sự, 2006; Cannon và  
871  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019  
ICYREB 2019  
Yaprak, 2002; Cleveland và cộng sự, 2009a; Cleveland và cộng sự, 2011a). Theo Speece và Nguyen  
(2005), rất nhiều người tiêu dùng Việt Nam đánh giá cao các sản phẩm có nguồn gốc từ các nước phát  
triển; còn theo điều tra của Grey Group (2008), 77% người tiêu dùng Việt Nam ưa thích các sản phẩm  
nước ngoài hơn là các sản phẩm tương tự ở trong nước. Điều này đặt ra yêu cầu đối với cả các doanh  
nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài trong việc hiểu và phục vụ tốt nhu cầu của phân khúc  
khách hàng đặc biệt này.  
Dệt may là một trong những ngành hàng mũi nhọn ca Vit Nam trong chiến lược phát triển kinh  
tế - xã hội, tuy nhiên ngay tại thị trường nội địa, hiện có rất nhiều thương hiệu may mặc nước ngoài đã  
xut hiện và tạo nên những “cơn sốt mua sắm” như Zara, H&M, Uniqlo… Tâm lý “sính ngoại” khiến các  
doanh nghip dt may Vit Nam gặp khó khăn trong việc chiếm lĩnh thị trường trong nước.  
Nghiên cứu này xem xét mối quan hgia chủ nghĩa hướng ngoi với ý định mua hàng ngoại trong  
bi cảnh đô thị Việt Nam. Đặc biệt, tác giả kiểm tra tác động của ba khía cạnh ca chủ nghĩa hướng ngoi  
lên ý định mua hàng ngoại của người tiêu dùng Việt. Tác giả đã phát triển một mô hình nghiên cứu được  
mrng từ lý thuyết hành vi có kế hoch (TBP) của Ajzen (1991) và kiểm định các giả thuyết nghiên cứu  
bng phân tích hồi quy bi. Trong nghiên cứu này, tác giả trình bày cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên  
cứu, phương pháp nghiên cứu và các thảo lun vkết quả nghiên cứu. Hàm ý quản lý và hướng nghiên  
cứu trong tương lai cũng được đưa ra trong nghiên cứu này.  
2. Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu  
2.1. Chủ nghĩa hướng ngoi  
Chủ nghĩa hướng ngoại là một chủ đề được nhiu hc giả trên thế giới quan tâm nghiên cứu từ khá  
lâu. Ngày nay, cùng với sự phát triển xã hội và công nghệ, xu hướng toàn cầu hóa đã gia tăng các phân  
khúc người tiêu dùng theo chủ nghĩa hướng ngoi, dẫn đến nhng mong muốn được hiu biết cvề lý  
luận và thực tin ca chủ nghĩa hướng ngoi.  
Khái niệm vchủ nghĩa hướng ngoi bắt đầu được Merton (1957) và Gouldner (1957) đưa ra và  
ng dụng trong lĩnh vực quản lý kinh doanh từ những năm 1950. Merton (1957) định nghĩa đó là một  
người có định hướng cá nhân vượt ra khi cộng đồng địa phương, trong khi Gouldner (1957) mô tả từ góc  
độ hành vi tổ chức như là "những người có mức độ trung thành thấp vi tchc của mình, nhưng có  
nhng cam kết mc cao vkỹ năng ở vai trò chuyên biệt và dường như có định hướng bên ngoài  
nhóm". Dye (1963) ủng hộ quan điểm ca Merton (1957) rng, những người theo chủ nghĩa hướng ngoi  
có liên quan đến "các vấn đề, skiện và tổ chức xã hội bên ngoài cộng đồng địa phương của mình". Chủ  
nghĩa hướng ngoại là sự ci mở đối với các nền văn hóa khác nhau, cùng với mong muốn tích cực tìm  
kiếm tri nghim từ các nền văn hóa không phải của riêng mình (Hannerz, 1990; Roudometof, 2005;  
Thompson và Tambyah, 1999).  
Riefler và cộng sự (2012) là những người đầu tiên khám phá các đặc điểm chính của chủ nghĩa  
hướng ngoi trong bi cảnh nghiên cứu hành vi người tiêu dùng. Họ mô tả về người tiêu dùng định hưng  
theo chủ nghĩa hướng ngoại là "mức độ mà người tiêu dùng (1) tỏ ra ci mở đối với các nước và nền văn  
hóa nước ngoài, (2) đánh giá cao sự đa dạng do ssẵn có của các sản phm tngun gốc văn hóa và quốc  
gia khác nhau, và (3) có xu hướng tích cực tiêu thụ sn phm từ nước ngoài "(Riefler và cộng s, 2012).  
Sci mở được định nghĩa là "sự ci mở đối với con người, giá trị, và hiện vt của các nền văn hóa khác"  
(Sharma và cộng sự, 1995), hay như là "một sci mở có ý thức vi thế giới và những khác biệt về văn  
hóa" (Skrbis và cộng s, 2004); đồng thi, ci mở liên quan đến ssẵn lòng tìm kiếm thông tin (Hannerz,  
1992) vi một thái độ chủ động đối vi "nhng thứ khác biệt". Đánh giá sự đa dạng là một đặc điểm quan  
trọng. Tambyah và Chen (2012) cho rằng, những người theo chủ nghĩa hướng ngoại tìm kiếm "sự khác  
bit về đa dạng văn hóa hơn là sự tương đồng" và "tận hưởng sự đa dạng trong thị trường toàn cầu và  
cũng trân trọng giá trị của các thương hiệu địa phương". Holt (1997, 1998) giải thích rằng người theo chủ  
nghĩa hướng ngoại tìm kiếm sự đa dạng để gim bớt tính địa phương hóa. Vì ưu tiên sự đa dạng đích thực  
872  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019  
ICYREB 2019  
(Beverland và Farrelly, 2010), người theo chủ nghĩa hướng ngoại thường cn trng kim tra các khía cạnh  
xác thực của các thương hiệu địa phương. Ngoài sự ci mở và đa dạng, Riefler và cộng sự (2012) đề xut  
"tiêu dùng vượt biên", thể hin "một xu hướng tích cực đối với tiêu thụ hàng hóa và dịch vtừ nước  
ngoài." So với sci mở và đa dạng, tiêu dùng vượt biên là một hành vi tiêu dùng cụ thể. Trong thang đo  
chủ nghĩa hướng ngoi C-COSMO (Riefler và cộng sự, 2012), khía cạnh tiêu dùng vượt biên được tính  
bng mức tiêu dùng ưa thích của phim nước ngoài, âm nhạc và thực phm...  
2.2. Hàng ngoại  
Theo quan điểm phổ biến, quốc gia xuất xứ của hàng hóa (Country of Origin - COO) là một khái  
niệm được sử dụng để phân biệt giữa hàng hóa trong nước (hàng nội) và hàng hóa nhập khẩu (hàng  
ngoại). Ở phương diện thương mại quốc tế cũng như pháp lý, xuất xứ của một mặt hàng được quyết định  
bởi những quy tắc xuất xứ (rules of origin). Hiện nay, quy tắc xuất xứ được quyết định bởi từng quốc gia  
riêng biệt và mỗi quốc gia cũng có những quy định xuất xứ khác nhau dành cho các nước khác nhau. Ti  
Vit Nam, cách xác định nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa được quy định tại Nghị định số 19 2006 -CP  
ngày 20 02 2006 của Chính phủ. Theo quy định này, khái niệm cơ bản về xuất xứ hàng hóa được giải  
thích là quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nơi sản xuất ra toàn bộ hàng hóa hoặc nơi thực hiện công đoạn chế  
biến cơ bản cuối cùng đối với hàng hóa trong trường hợp có nhiều nước hoặc vùng lãnh thổ tham gia vào  
quá trình sản xuất ra hàng hóa đó”. Như vậy, hàng ngoại hay hàng nhập khẩu là hàng hóa được sản xuất  
từ một nước khác và nhập qua cửa khẩu Việt Nam, có xuất xứ từ nước ngoài (Diệp Thành Kiệt, 2012). Dù  
nhà máy này do người Việt Nam làm chủ, sử dụng nhân công Việt Nam, thậm chí có dùng một phần  
nguyên liệu từ Việt Nam cũng đều phải xem là hàng nhập khẩu. Điều này phù hợp với quy tắc xuất xứ  
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).  
Người tiêu dùng ở các thị trường mới nổi như Việt Nam thích các thương hiệu nước ngoài vì  
nhận thức toàn cầu của họ và họ cũng thu được lợi ích từ việc tự thể hiện và trạng thái tiêu dùng (Batra và  
cộng sự, 2000). Srivastava và Balaji (2018) cho rằng, nhận thức toàn cầu có chức năng như một thuộc  
tính thương hiệu riêng biệt cung cấp cho người tiêu dùng tại các thị trường mới nổi cơ hội thể hiện sự  
tham gia của họ trong một nền văn hóa tiêu dùng toàn cầu. Khi nhiều người tiêu dùng trẻ ở châu Á mới  
nổi đã chấp nhận nhiều giá trị phương Tây và cá nhân hơn (Neuliep, 2012), giá trị của họ đối với các  
thương hiệu nước ngoài cũng có thể đã thay đổi. Người ta có thể nói rằng, trong thái độ và tình cảm  
chung của họ, họ cũng đã trở nên quốc tế hơn và hoặc ít dân tộc hơn đối với các thương hiệu nước ngoài  
(Han, 2017).  
2.3. Chủ nghĩa hướng ngoại và ý định mua  
Levy và cộng s(2007, dn từ Parts và Vida, 2011) đã vận dng cấu trúc chủ nghĩa hướng ngoi  
trong nghiên cứu kinh doanh và tiếp thquc tế. Theo Parts và Vida (2011), cấu trúc này liên quan đến sự  
ưa thích của các sản phẩm nước ngoài của Balabanis và Diamantopoulos (2008), Crawford và Lamb  
(1982) và Suh và Kwon (2002). Hơn nữa, theo Caldwell và cộng sự (2006), định hướng tiêu dùng toàn  
cu thhin khi mọi người coi thị trường thế giới là thị trường ca họ, có ý thức tìm cách tiêu thụ sn  
phẩm có nguồn gc từ các nền văn hóa khác.  
Theo Rawwas và cộng s(1996), chủ nghĩa hướng ngoại có thể làm cho người tiêu dùng có nhận  
thc tốt hơn về các sản phẩm nước ngoài, bao gồm chất lượng sn phẩm nước ngoài (Parts và Vida,  
2013). Parts và Vida (2011) cho rằng chủ nghĩa hướng ngoại có tác đng trc tiếp và tích cực đến hành vi  
mua hàng ngoại. Mức độ chủ nghĩa hướng ngoại cao hơn có thể làm cho người tiêu dùng cởi mở hơn để  
thử các sản phẩm nước ngoài (Parts và Vida, 2013). Khi các hoạt động thương mại quc tế gia tăng, nhiều  
nhà nghiên cứu đã nghiên cứu về thái độ dân chủ của người tiêu dùng để hiểu rõ hơn về hành vi của  
người tiêu dùng (Shimp và Sharma, 1987; Han, 1988; Rybina và cộng sự, 2010; Purwanto, 2014). Người  
tiêu dùng vị chủng quan tâm hơn đến vic mua sn phẩm trong nước, trong khi người tiêu dùng hướng  
ngoại quan tâm đến vic mua sn phm ở nước ngoài hơn. Tuy nhiên, có thể cho rằng người tiêu dùng  
873  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019  
ICYREB 2019  
hướng ngoại không bị ảnh hưởng bởi các sản phm tmt quc gia nhất định và do đó không có sự khác  
bit về hành vi với những nước có định hướng quc tế cao. Vi sci mca hvi những ý tưởng mi,  
người tiêu dùng trên toàn cầu có xu hướng tập trung vào nhu cầu và đánh giá khách quan về sn phm  
nhkhả năng cung cấp các tính năng mong muốn bt kngun gc ca sn phẩm (Cannon và cộng s,  
1994; Riefler và Diamantopoulos, 2009). Theo Cannon và Yaprak (2002) "người theo chủ nghĩa hướng  
ngoại có xu hướng độc lập hơn và khách quan, đặc bit trong việc đánh giá các sản phẩm và dịch v".  
Ý định và hành vi tiêu dùng hàng ngoại đã được mt số nhà nghiên cứu Vit Nam khảo sát và phân  
tích, tuy nhiên chủ nghĩa hướng ngoại là một vấn đề tương đối mới và chưa được nghiên cứu nhiu trong  
lĩnh vực kinh tế ti Việt Nam. Theo nghiên cứu ca Cao Quc Việt (2015), tác giả đã kiểm định mi quan  
hgia chủ nghĩa hướng ngoi vi chủ nghĩa vị chủng tiêu dùng và chủ nghĩa hướng ngoi với hành vi  
tiêu dùng hàng nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy không đủ bng chng thống kê để chp nhn mi quan  
hgia chủ nghĩa hướng ngoi vi chủ nghĩa vị chủng tiêu dùng, đồng thời cũng không đủ minh chng  
thống kê để chp nhn mi quan hgia chủ nghĩa hướng ngoại và hành vi tiêu dùng hàng nội.  
Có rất nhiều lý thuyết khác nhau để giải thích cho ý định mua hàng ngoại như lý thuyết định hướng  
giá trị (Vinson và cộng s, 1977; Hofstede, 1989); lý thuyết hành vi hợp lý – TRA (Ajzen và Fishbein,  
1980) và lý thuyết hành vi có kế hoch (TPB) ca Ajzen (1991) hoặc lý thuyết ca Lee (1990). Tuy  
nhiên, các lý thuyết khác thường đề cập đến mt số nhóm tiền đề cthcủa ý định mua, trong khi đó lý  
thuyết TPB đưa ra một khái nim tổng quát hơn, giúp giải thích các tiền đề khác nhau của ý định hành vi.  
Do vy, trong nghiên cứu này tác giả sdụng lý thuyết TPB như là khung phân tích bao quát.  
Lý thuyết TPB được phát triển và cải tiến từ lý thuyết hành động hợp lý (TRA) (Ajzen và Fisbein,  
1980; Fishbein và Ajzen, 1975). Theo lý thuyết TPB, ý định hành vi đóng vai trò trung tâm và là yếu tố  
dự báo mạnh mẽ cho hành vi (Ajzen, 2011). Lý thuyết TPB cho rằng ý định hành vi của người tiêu dùng  
bị ảnh hưởng bởi ba nhân tố: thái độ đối với hành vi; chuẩn chquan; và nhận thc vkiểm soát hành vi.  
Trong nghiên cứu này, tác giả tp trung giải thích ý định mua hàng ngoi của người tiêu dùng hơn là hành  
vi mua thc tế.  
Trong nghiên cứu này, dựa vào lý thuyết TPB, thái độ (ATT) là những đánh giá tích cực hoặc tiêu  
cc của người tiêu dùng về việc mua hàng ngoại; chun chủ quan (SN) là nhận thc về áp lực xã hội đối  
với hành vi mua hàng ngoại của cá nhân và nhận thc kiểm soát hành vi (PBC) hướng ti nhn thc về  
vic dễ hay khó của mỗi các nhân khi mua hàng ngoại. Tuy nhiên, nghiên cứu của Ajzen và Fishbein (2005)  
cho thấy khi áp dụng lý thuyết TPB trong các bối cảnh khác nhau của hành vi tiêu dùng, ba tiền đề quan  
trọng trong mô hình thường không giải thích được quá 54% sự thay đổi ca biến số ý định. Do đó, tùy  
thuc vào bối cảnh nghiên cứu cthể, các nhà nghiên cứu có thể khám phá các biến độc lập khác để tăng  
phương sai giải thích của biến phthuc. Theo lp lun của Ajzen (2011), tùy thuộc vào từng khu vc,  
các biến có khả năng được thêm vào có thể bao gồm các yếu tnn tảng như sự khác biệt cá nhân. Đối  
với ý định tiêu dùng hàng ngoại, chủ nghĩa hướng ngoại có thể là một yếu tcần được nghiên cứu kỹ hơn.  
2.4. Mô hình và giả thuyết nghiên cứu  
Mô hình nghiên cứu này được xây dựng dựa trên lý thuyết hành vi có kế hoch (TPB) ca Ajzen  
(1991) về ý định - hành vi mua của người tiêu dùng. Về cơ bản, mô hình vẫn sdng tt cả các biến ca  
mô hình lý thuyết gốc, trong đó thái độ đối với hành vi mua hàng ngoại, chun chủ quan và nhận thc  
kiểm soát hành vi tác động thun chiều đến ý định mua hàng ngoại. Thnht, thái độ đối với hành vi có  
thể được hiểu là một đánh giá tích cực hoặc tiêu cực ca một hành vi cụ thể (Fishbein và Ajzen, 1975).  
Thhai, chun chủ quan được định nghĩa là áp lực ca nhn thức xã hội khuyến khích người ta tham gia  
vào một hành vi cụ thể (Fishbein và Ajzen, 1975). Khi dự đoán một hành vi, chuẩn chquan sẽ được  
đánh giá liên quan đến một nhóm tham chiếu (Wu và Chen, 2014). Thba, nhn thc kiểm soát hành vi  
có thể được định nghĩa là khó khăn mà một cá nhân nhận thấy để thc hin một hành vi cụ th(Fishbein  
và Ajzen, 1975). Ý định hành vi có thể được định nghĩa là mức độ mà một người có khả năng hoặc sn  
874  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019  
ICYREB 2019  
sàng thực hin một hành vi cụ thể (Ajzen, 1991; Fishbein và Ajzen, 1975). Lý thuyết này đã được thử  
nghim trong nhiều nghiên cứu trong các lĩnh vực khác nhau (Ajzen và Fishbein, 2005). Nghiên cứu này  
tiếp tc kiểm định lại các giả thuyết dưới đây trong bối cảnh mua hàng ngoại ti Vit Nam. Các giả thuyết  
được đề xuất như sau:  
H1: Thái độ đối vi hành vi mua hàng ngoại có tác động thun chiều đến ý định mua hàng ngoại.  
H2: Chun chủ quan có tác động thun chiều đến ý định mua hàng ngoại.  
H3: Nhn thc kiểm soát hành vi có tác động thun chiều đến ý định mua hàng ngoi.  
Parts và Vida (2011) cho rằng, chủ nghĩa hướng ngoại có tác đng trc tiếp và tích cực đến hành vi  
mua sn phẩm nước ngoài. Một mức độ cao hơn của chủ nghĩa hướng ngoại có thể làm cho người tiêu  
dùng cởi mở hơn để thử các sản phẩm nước ngoài (Parts và Vida, 2013). Nghiên cứu ca Pecotich and  
Rosent (2001), Hui and Zhou (2002), Parts và Vida (2013), và Purwanto (2014) cho thấy chủ nghĩa  
hướng ngoi của người tiêu dùng có tác động tích cực đến ý định mua hàng ngoại. Tại các nền kinh tế  
mi nổi như Việt Nam, tăng trưởng kinh tế cũng dẫn đến sự gia tăng chủ nghĩa hướng ngoi của người  
tiêu dùng (Lee và cộng sự, 2014), kích thích mong muốn shữu các mặt hàng có liên quan với li sng  
phương Tây (Alden và cộng sự, 2006; Caldwell và cộng s, 2006; Cannon and Yaprak, 2002; Cleveland  
và cộng sự, 2009a; Cleveland và cộng s, 2011a). Tuy nhiên, tác động trc tiếp ca chủ nghĩa hướng  
ngoi hoặc các cấu trúc liên quan ca chủ nghĩa hướng ngoi đến ý định - hành vi còn chưa phổ biến  
trong nghiên cứu hin tại (Cannon và Yaprak 2002; Cleveland và cộng sự 2011; Crawford và Lamb,  
1982; Lee và Chen, 2008; Rawwas và cộng s, 1996). Ví dụ, Lee và Chen (2008) đã chứng minh tác động  
trc tiếp ca chủ nghĩa hướng ngoi tới ý đnh mua sn phm từ các nước láng giềng của người tiêu dùng  
Đài Loan. Crawford và Lamb (1982) đã kiểm tra ảnh hưởng ca chủ nghĩa hướng ngoại đối với ý định  
mua sn phẩm nước ngoài giữa những người mua chuyên nghiệp và nhận thy rằng thái độ cá nhân đối  
với nước ngoài trên thực tế có liên quan đến vic một người sẵn sàng mua sản phm từ các nước này. Mặt  
khác, Cannon và Yaprak (2002) đã kết luận trong nghiên cu ca hrng, trong khi người tiêu dùng ngày  
càng trở nên quốc tế hơn, điều này không nhất thiết dẫn đến hành vi của họ vượt qua văn hóa địa phương  
ca h.  
Trong phần lý thuyết, chủ nghĩa hướng ngoi bao gồm ba khía cạnh: tư duy mở, đánh giá tính đa  
dng và tiêu dùng vượt biên (Riefler và cộng s, 2012). Tư duy mở là sự ci mchung của người theo  
chủ nghĩa hướng ngoại đối vi những con người và nền văn hóa khác (Skrbis và cộng s, 2004; Urry,  
2000). Sci mở này phản ánh sự đồng cảm và quan tâm ca họ đối với các nền văn hóa khác (Skrbis và  
cng sự, 2004) và đại din cho mt ssẵn lòng khám phá và học hi từ các tổ chức khác (Levy và cộng  
sự, 2007). Trong khi đó, đánh giá tính đa dạng trong chủ nghĩa hướng ngoại được hiểu là thay vì những  
đánh giá mang tính đồng nht, chủ nghĩa hướng ngoại hướng ti sự đa dạng văn hóa (Caldwell và cộng  
s, 2006) bao gm một khuynh hướng tích cực đối với các sản phm sẵn có từ các nền văn hóa đa dạng.  
Người tiêu dùng hướng ngoại đánh giá cao sự tn ti của các sản phm tnhiu quốc gia hơn là tìm kiếm  
các thương hiệu tương tự cả ở nước chủ nhà và nước ngoài mà họ có thể tiếp cận được. Cuối cùng, vì  
người theo chủ nghĩa hướng ngoại coi mình ít mang tính địa phương hơn (Hannerz, 1990), họ là những  
người tiêu dùng năng động vi nhiều hàng hóa và dch vụ ở nước ngoài, ví dụ như giáo dục và y tế. Ngoài  
việc đánh giá cao các sản phẩm có nguồn gc quốc gia và văn hóa đa dạng, người tiêu dùng theo chủ  
nghĩa hướng ngoại cũng có xu hướng tích cực tiêu thụ các sản phẩm đó với mục đích trải nghiệm. Như  
vy, cả ba khía cnh ca chủ nghĩa hướng ngoại đều có mối quan hệ tích cực vi ý định mua hàng ngoại.  
Ti Vit Nam, trong bi cảnh phát triển thị trường thi trang, dưới ảnh hưởng của toàn cầu hóa và  
mc thu nhập tăng lên, người tiêu dùng Việt có nhiều la chọn hơn và tiếp cn với các thương hiệu toàn  
cầu hơn. Nguyen và Tambyah (2011) cho rằng, Việt Nam, nơi các sản phẩm nước ngoài thường vượt  
tri so với hàng nội địa, nhiều người tiêu dùng, đặc biệt là tầng lớp trung lưu và thượng lưu, thể hin  
mong mun mnh mvề các biểu tượng trạng thái thể hin bằng các sản phm cao cp, nhp khu  
(Nguyen và Tambyah, 2011).  
875  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019  
ICYREB 2019  
Do vy, các giả thuyết có thể được xây dựng như sau:  
H4: Chủ nghĩa hướng ngoại (tư duy mở) có tác động thun chiều đến ý định mua hàng ngoại.  
H5: Chủ nghĩa hướng ngoại (tính đa đạng) có tác động thun chiều đến ý định mua hàng ngoại.  
H6: Chủ nghĩa hướng ngoại (tiêu dùng vượt biên) có tác động thun chiều đến ý định mua hàng ngoại.  
Mô hình nghiên cứu được đề xuất như sau:  
Thái độ đối với hành vi mua  
hàng ngoại  
Chun chquan  
Nhn thc kiểm soát hành vi  
Ý định mua hàng ngoại  
Tư duy mở  
Đánh giá tính đa dạng  
Tiêu dùng vượt biên  
Sơ đồ 1: Mô hình nghiên cứu  
Nguồn: Tác giả đề xut  
3. Phương pháp nghiên cứu  
3.1. Mẫu và thu thập dliu  
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, tác giả tiến hành một khảo sát tại Hà Ni. Thủ đô Hà Nội là một  
trong các thành phố ln nhất và có thu nhập bình quân đầu người cao nht cả nước đồng thời cũng là một  
trong nhng thị trường tiêu thụ ln nht Việt Nam. Đây cũng là nơi các thương hiệu nước ngoài chọn  
để đặt văn phòng đại din hoc cửa hàng giới thiu sn phm. Do vậy, nghiên cứu này chọn Hà Nội là địa  
điểm để thc hin khảo sát.  
Các nghiên cứu trước đó cho thấy người tiêu dùng theo chủ nghĩa hướng ngoại tương đối trẻ và  
thường tp trung khu vực thành thị (Terasaki, 2016). hu hết các nước, khách hàng thế hệ Y là nhóm  
người tiêu dùng được sinh ra trong khong thi gian từ năm 1981 - 2000, là phân khúc khách hàng chiếm  
thphần và sức mua khá lớn. Ti Việt Nam, nghiên cứu của công ty Nielsen năm 2016 cho thấy thế hY  
chiếm 30% dân số ca Việt Nam, tương đương với khong 27 triệu người. Do vậy, nghiên cứu này sẽ tp  
trung khảo sát đối tượng người tiêu dùng thuộc thế hY (t18 37 tui).  
Ngành hàng được chọn để đánh giá hành vi mua của người tiêu dùng theo chủ nghĩa hướng ngoi  
là hàng may mặc. Theo điều tra ca Công ty cổ phn W&S (2012), tlệ chi tiêu cá nhân cho nhu cu may  
mc của người dân Việt Nam chiếm khoảng 14%, đứng th3 trong tổng các khoản chi tiêu cá nhân.  
Ngoài ra, trong những năm gần đây, một loạt thương hiệu may mặc nước ngoài xuất hin tạo nên một thị  
trường kinh doanh rất sôi động ti Việt Nam. Đặc biệt, “cơn sốt” mua sắm trong ngày ra mắt ca hai  
thương hiệu thời trang bình dân là H&M và Zara trong năm 2017 đã chứng tsức hút và xu hướng mua  
hàng ngoại của người tiêu dùng Việt Nam. Tuy nhiên, với mc thu nhập bình quân của người Vit Nam  
mi chỉ trên mức trung bình, khả năng để một người tiêu dùng chọn các thương hiệu may mc cao cp  
876  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019  
ICYREB 2019  
như Louis Vuitton, Gucci, Versace,… là rất hn chế, do vậy nghiên cứu này chọn hàng may mặc thương  
hiệu nước ngoài bình dân như Zara, H&M, Mango, Uniqlo để đánh giá ý định mua hàng ngoại của người  
tiêu dùng Việt.  
Nghiên cứu sdụng phương pháp chọn mu thun tin. Đối tượng khách hàng mà nghiên cứu  
hướng tới để thu thp dliệu là những người tiêu dùng thuộc nhóm Y có độ tui t18 - 37 hiện đang học  
tập, làm việc và sinh sng tại Hà Nội. Kích thước mu ti thiu bng 5 ln tng sbiến quan sát dựa theo  
chun kinh nghim của Hair và cộng s(2010), do vy cmu ti thiểu là: 34*5 = 170 quan sát. Mt  
nhóm sinh viên đại hc trong mt lp qun trị kinh doanh được đào tạo và hướng dn cn thn vthu  
thp dliu khảo sát, gửi câu hỏi đến bạn bè, thành viên gia đình và người quen ca họ. Để đảm bảo tính  
đa dạng ca mẫu, người trlời được yêu cầu phải đa dạng vgiới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, trình độ hc  
vấn và mức thu nhp. Sau 2 tháng khảo sát (tháng 10 -11/2018) vi tng sgn 1.000 phiếu đã được  
phát ra, số phiếu thu về là 425 phiếu trong đó 332 phiếu đạt yêu cầu vcht lượng được đưa vào phân  
tích. Kết qucủa các đối tượng nghiên cứu như sau: nam chiếm 47% và nữ chiếm 53%. Cơ cấu độ tui  
gm: từ 18 đến 22 tui chiếm 39.8%; 34.6% t23 - 29 tui; 26.6% t30 - 37 tuổi. Cơ cấu trình độ hc  
vn bao gm: 7.5% tt nghip phổ thông trung học; 68.4% cao đẳng, đại học; sau đại hc chiếm 24.1%.  
Cơ cấu công việc gồm: 10.8% là chủ doanh nghip/quản lý; 14.8% là marketing, bán hàng, sản xut;  
41.3% là sinh viên và 33.1% là nhân viên văn phòng. Về tình trạng hôn nhân, có 67.8% còn độc thân;  
30.7% đã kết hôn và 1.5% thuộc tình trạng khác. Cơ cấu vthu nhập hàng tháng, dưới 5 triệu đồng là  
36.7%; từ 5 đến dưới 10 triệu đồng là 26.8%; từ 10 đến dưới 15 triệu đồng là 19.3%; còn lại 17.2% có thu  
nhập trên 15 triệu đồng.  
3.2. Phát triển thang đo  
Tác giả thc hiện nghiên cứu định tính thông qua các cuộc phng vấn sâu với 02 chuyên gia  
marketing, 02 chuyên gia trong lĩnh vực may mc ca Việt Nam và 04 người tiêu dùng ở Hà Nội nhm  
kiểm tra, sàng lọc và xác định mi quan hgiữa các biến trong mô hình lý thuyết ban đầu (đã được hình thành  
dựa trên nghiên cứu tổng quan lý thuyết) từ đó điều chnh, bổ sung các biến quan sát và gợi ý các hướng điều  
chỉnh khung nghiên cứu lý thuyết sao cho phù hợp vi mục đích nghiên cứu.  
Các thang đo được rút ra ttổng quan nghiên cứu nhưng có sự điều chỉnh phù hợp vi bi cnh  
nghiên cứu để đảm bảo tính thực tế. Đầu tiên, các thang đo này được dch ttiếng Anh sang tiếng Việt và  
sau đó dịch ngược li ttiếng Vit sang tiếng Anh để đảm bo vic chuyển đổi ngôn ngữ là chính xác, rõ  
ràng, mạch lạc và không làm thay đổi đáng kể ý nghĩa của các thang đo. Tiếp đó, các thang đo này được  
trao đổi với các chuyên gia để đảm bảo các thang đo này được dịch sát nghĩa. Sau giai đoạn này, bảng câu  
hỏi nháp được tho lun vi một nhóm sinh viên cao học (05 sinh viên) ngành quản trị kinh doanh để  
kim tra mức độ dhiểu, súc tích của các phát biểu.  
Các biến trong mô hình được đo bằng thang đo Likert với thang điểm đánh giá từ 1 - 5. 07 thang đo  
chính thức cho 07 biến trong mô hình được đưa vào phiếu điều tra vi 25 biến quan sát (items). Ngoài ra,  
khảo sát cũng bao gồm các câu hỏi về nhân khẩu học như giới tính, tuổi tác và thu nhập. Để đảm bo sự  
hiu biết chung gia những người được hi, phiếu câu hỏi cũng chỉ rõ một smặt hàng được đề cập đến  
là hàng may mặc thương hiệu ngoại tương đối phbiến Việt Nam là Zara, H&M, Mango, Uniqlo.  
Thang đo chủ nghĩa hướng ngoi: Sdụng thang đo C-COSMO của Riefler và cộng s(2012)  
gm ba chiu: sci m, sự đánh giá đa dạng và tiêu dùng vượt biên với mi chiu gm 04 biến quan sát.  
Mặc dù các nhà nghiên cứu cho rằng thang đo C-COSMO vn cn tiếp tục có sự điều chỉnh, đến thi  
điểm này thang đo C-COSMO vẫn là thang đo được sdng phbiến trong các nghiên cứu vchủ nghĩa  
hướng ngoi của người tiêu dùng. Thang đo TPB: Bao gồm thái độ đối với hành vi mua hàng ngoại, chun  
chquan, nhn thc kiểm soát hành vi và ý định mua hàng ngoại sdụng thang đo của Chang (1998), Ajzen  
(1991), Ang và cộng sự (2001). Trong đó, thái độ đối với hành vi mua hàng ngoại có 3 biến quan sát và nhận  
thc kiểm soát hành vi có 3 biến quan sát được ly tChang (1998), chun chquan gm 3 biến quan sát  
được ly từ Ajzen (1991) và ý định mua hàng ngoại gm 4 biến quan sát được ly từ Ang và cộng s(2001).  
877  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019  
ICYREB 2019  
3.3. Phương pháp xử lý dữ liu  
Các kết quả nghiên cứu được xử lý bằng phn mm thống kê SPSS.23. Các thang đo khái niệm  
nghiên cứu được đánh giá bằng hsố độ tin cậy Cronbach’s alpha và tiếp tục được kiểm định giá trị hi tụ  
và giá trị phân biệt bằng phương pháp phân tích nhân tố (EFA). Sau đó, tác giả sdụng phân tích hi quy  
bi để kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu.  
4. Kết quả nghiên cứu  
4.1. Kết quả đánh giá thang đo  
Tt cả các thang đo trong nghiên cứu được đánh giá qua hệ stin cy Cronbach’s alpha và phương  
pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA) với phép trích PCA và phép quay Varimax được sdụng để đánh  
giá giá trị hi tụ và phân biệt của thang đo. Trong nghiên cứu này, tác giả chọn thang đo có hệ số  
Cronbach’s alpha lớn hơn 0.6 và hệ số tương quan biến tng lớn hơn 0.4, tiêu chí Eigenvalue lớn hơn  
1.0, hstải nhân tố lớn hơn 0.4. Kết quả đánh giá thang đo cho thấy hsố KMO = 0.816 > 0.5; giá trị  
sig = .000 < 0.5; tiêu chuẩn Eigenvalue = 1.100 > 1; tổng phương sai trích = 66.6% > 50%. Hsố  
Cronbach’s alpha > 0.6. Như vậy, tt cả các biến quan sát đều đảm bảo độ tin cậy, giá trị phân biệt và giá  
trhi t.  
Bng 1: Bng tng hp kết quEFA  
PI  
OM CTB DA  
PBC ATT SN  
Ý định mua (PI) (alpha = .888)  
Tôi có khả năng mua bất khàng may mặc thương hiệu  
ngoại nào.  
.849  
.831  
Tôi luôn có ý định mua hàng may mặc thương hiệu  
ngoi.  
Mức độ sẵn sàng mua hàng may mặc thương hiệu ngoi  
của tôi là cao.  
.814  
.784  
Tôi dự định mua hàng may mặc thương hiệu ngoi.  
Tư duy mở (OM) (alpha = .761)  
Tôi thích gặp gmọi người tnhiu quốc gia khác  
nhau.  
.835  
Tôi muốn tiếp xúc với những người từ các nền văn hóa  
khác nhau.  
.810  
.640  
.616  
Tôi thực sự quan tâm đến các quốc gia khác.  
Khi đi du lịch, tôi luôn có ý thức liên hệ với văn hóa và  
truyn thống địa phương.  
Tiêu dùng vượt biên (CTB) (alpha = .760)  
Tôi thích nghe nhạc của các nền văn hóa khác.  
.805  
.748  
Tôi thích thử nhng thứ được tiêu dùng ở những nơi  
khác trên thế gii.  
Tôi thích thử các món ăn nguyên bản từ các nước khác.  
Tôi thích xem phim của các quốc gia khác nhau.  
Đánh giá tính đa dạng (DA) (alpha = .745)  
.724  
.655  
Việc luôn mua các sản phm của cùng một địa phương  
trở nên nhàm chán theo thi gian.  
.758  
.751  
Tôi thích được cung cp mt loạt các sản phẩm đến từ  
các quốc gia khác nhau.  
878  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019  
ICYREB 2019  
Sxut hin của các sản phẩm nước ngoài tại thị trường ni  
.744  
địa to ra đánh giá tính đa dạng của nhà cung cp.  
Vic tiếp xúc các sản phẩm đến tnhiu quốc gia khác  
nhau có ý nghĩa đối với tôi.  
.432  
Kiểm soát hành vi (PBC) (alpha = .768)  
Nếu muốn mua, tôi có thể dễ dàng tìm được hàng may  
mặc thương hiệu ngoi.  
.868  
Tôi không gặp khó khăn khi mua hàng may mặc thương  
hiu ngoi.  
.851  
Tôi toàn quyền quyết định việc mua hàng may mặc  
thương hiệu ngoi.  
.685  
Thái độ (ATT) (alpha = .779)  
Mua hàng may mặc thương hiệu ngoại mang đến rt  
nhiu lợi ích.  
.820  
Mua hàng may mặc thương hiệu ngoại là một vic tt  
nên làm.  
.728  
Mua hàng may mặc thương hiệu ngoại là một sla  
chọn sáng suốt.  
.725  
Chun chquan (SN) (alpha = .732)  
Bạn bè và người thân của tôi muốn tôi mua hàng may  
mặc thương hiệu ngoi.  
.788  
Bạn bè và người thân của tôi nghĩ rằng tôi nên mua  
hàng may mặc thương hiệu ngoi.  
.765  
.690  
Bạn bè và người thân của tôi sẽ chp nhn việc tôi mua  
hàng may mặc thương hiệu ngoi.  
Nguồn: Tác giả tng hp  
Sau đó, tác giả tiến hành kiểm định tương quan giữa biến phthuộc và các biến độc lp. Kết quả  
cho thấy các biến độc lập đều có tương quan với biến phthuc (sig=.000).  
Bng 2: Thống kê mô tả và hệ số tương quan (n = 332)  
Trung  
bình  
Độ lệch  
chuẩn  
1
1
2
3
4
5
6
7
OM  
DA  
4.022  
3.896  
.523  
.532  
.420**  
1
.392**  
.336**  
1
CTB  
4.020  
.552  
ATT  
SN  
3.160  
3.279  
3.759  
3.177  
.591  
.581  
.498  
.664  
.144**  
.083  
.071  
.045  
.335**  
.253**  
.206**  
.315**  
.159**  
1
.094  
.416**  
.144**  
.531**  
1
PBC  
PI  
.192**  
.146**  
.219**  
.416**  
1
.236**  
1
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).  
Nguồn: Tác giả thống kê  
879  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019  
ICYREB 2019  
4.2. Kết qukiểm định các giả thuyết nghiên cứu  
Tác giả tiến hành ước lượng hi quy OLS vi biến phthuộc là ý định mua hàng ngoại. Ba mô  
hình hồi quy M1, M2, M3 đưc thc hin (bng 3). Tt cả ba mô hình hồi quy đều có ý nghĩa với các giá  
trlần lượt là: F = 2.98, p< .05; F = 19.68, p <.001 và F = 21.26, p < .001. Mô hình 1 giải thích được 2.7%  
sbiến thiên của dliệu, trong khi đó mô hình 2 giải thích được 35.4% và mô hình 3 giải thích được  
37.3%. R2 của mô hình đầy đủ (M3) có sự ci thiện nhưng không đáng kể so với mô hình không có chủ  
nghĩa hướng ngoi (M2): sự thay đổi ca R2 = .019 (p < .001).  
Bng 3: Kết quhi quy với ý định mua hàng ngoại là biến phthuc  
Biến độc lp  
M1  
-.026  
M2  
-.018  
M3  
-.006  
Giới tính  
Trình độ  
Thu nhp  
-.093  
.143*  
-.089  
-.095  
.058  
.048  
Thái độ đối với hành vi mua hàng ngoại  
.418***  
.212***  
.124**  
.393***  
.199***  
.106*  
Chun chquan  
Ý định kiểm soát hành vi  
Tư duy mở  
.122*  
Đánh giá tính đa dạng  
Tiêu dùng vượt biên  
R2  
.133*  
.048  
.027  
.018  
.354  
.342  
.373  
R2 điều chnh  
Thay đổi R2  
.355  
.327***  
19.68***  
.019***  
21.26***  
F
2.98*  
P: mức ý nghĩa; ***= p<0.001; **= p<.01; *=p<.05  
Nguồn: Tác giả thống kê  
Kết quhi quy cho thy chỉ có thu nhập có mối quan hthun chiu với ý định mua hàng ngoại (β  
= .143, p < .05) trong mô hình 1. Từ mô hình lý thuyết gốc, thái độ đối với hành vi mua hàng ngoại,  
chun chủ quan và nhận thc kiểm soát hành vi đều có mối quan hvới ý định mua hàng ngoại trong cả  
mô hình M2 và M3. Như vậy, githuyết H1, H2, H3 được ng h. Trong ba yếu tố này, thái độ đối vi  
hành vi mua hàng ngoại có tác động mnh nht, tiếp đó là chuẩn chủ quan và sau cùng là nhận thc kim  
soát hành vi.  
Đối với các khía cạnh ca chủ nghĩa hướng ngoi, kết quhi quy cho thấy tư duy mở có tác động  
thun chiều đến ý định mua hàng ngoại (β = .122, p < .05) nên giả thuyết H4 được ng hộ. Tương tự như  
vậy, đánh giá tính đa dạng cũng có tác động tích cực đến ý định mua hàng ngoại (β = .133, p < .05) nên  
githuyết H5 cũng được ng hộ. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu không cho thấy mi quan hgiữa tiêu  
dùng vượt biên và ý định mua hàng ngoại do p > 0,05, vì thế githuyết H6 không được chp nhn. Điều  
này cần được tho lun kỹ hơn trong phần tiếp theo.  
5. Tho luận, hàm ý quản lý và hướng nghiên cứu trong tương lai  
5.1. Tho lun kết quả nghiên cứu  
Mô hình nghiên cứu dựa trên nền tảng lý thuyết hành vi có kế hoch ca Ajzen (1991). Kết quả  
nghiên cứu cho thy trong 7 githuyết nghiên cứu có 6 githuyết được ng hộ và 1 githuyết bị bác bỏ.  
Trong các nhân tố, thái độ đối với hành vi mua hàng ngoại có ảnh hưởng mnh nhất đến ý định mua hàng  
ngoi (0.393) và kiểm soát nhận thức hành vi tác động yếu nhất đến ý định mua hàng ngoại (0.106).  
880  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019  
ICYREB 2019  
Nhìn từ khía cạnh lý thuyết hành vi có kế hoch ca Ajzen (1991), kết quả nghiên cứu cho thy cả  
thái độ đối với hành vi mua hàng ngoại, chun chủ quan và nhận thc vkiểm soát hành vi đều có tác  
động đến ý định mua hàng ngoại. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với các nghiên cứu trước đây (Choo và  
cng sự, 2004: Shen và cộng sự, 2003; Kang và cộng sự, 2006; Lim và Dubinsky, 2005; Shim và cộng s,  
2001). Nói cách khác, khi người tiêu dùng có thái độ tích cực với hàng ngoại, được sự ủng hca nhng  
người xung quanh và cảm nhn sdễ dàng khi mua hàng ngoại, hsẽ có ý định mua hàng ngoại.  
Trong các giả thuyết nghiên cứu, thái độ đối với hành vi mua hàng ngoại có tác động mạnh nhất  
đến ý định mua hàng ngoại (0.393). Các nghiên cứu của Parts và Vida (2013) và Rawwas và cộng sự  
(1996) đều cho thấy người tiêu dùng theo chủ nghĩa hướng ngoại có ảnh hưởng tích cực đến thái độ đối  
với hành vi mua hàng ngoại. Rõ ràng, người Việt có thái độ tích cực với hàng ngoại và có ý định mua  
hàng ngoại vì họ tin rằng hàng hóa ngoại nhập có chất lượng tốt hơn hàng Việt Nam. Đây cũng là hệ quả  
của một giai đoạn mà hàng Việt tốt được ưu tiên xuất khẩu, hàng nội địa cho người Việt dùng thường  
kém về chất lượng hoặc hàng lỗi không xuất khẩu được nên người tiêu dùng không tin tưởng vào chất  
lượng hàng nội.  
Đối vi chủ nghĩa hướng ngoi, nhiu kết quả nghiên cứu đã xác nhận mi quan hgia chủ nghĩa  
hướng ngoại và ý định – hành vi mua hàng ngoại (Cannon và Yaprak, 2002; Cleveland và cộng s, 2011;  
Lee và Chen, 2008; Rawwas và cộng sự, 1996; Riefler và Diamantopoulos, 2009; Parts và Vida, 2011;  
2013). Kết quả nghiên cứu này chra hai thuộc tính của chnghĩa hướng ngoại là tư duy mở và đánh giá  
tính đa dạng có mối quan hệ tích cực với ý định mua hàng ngoại. Như vậy có thể nhn thy khi người tiêu  
dùng cởi mvới các nền văn hóa khác, từng đi du lịch nước ngoài hoặc thường xuyên tiếp xúc với nhng  
người đến từ các nền văn hóa khác nhau sẽ dễ dàng có ý định mua hàng ngoại hơn như gợi ý của Riefler  
và cộng s(2012). Ngoài ra, những người đánh giá cao tính đa dạng vngun gc ca sn phẩm, không  
thích mua một loi sn phm cố định sẽ có ý định mua hàng ngoại nhiều hơn. Tại Việt Nam, điều này  
cũng hoàn toàn đúng đắn do gii trhin gidch chuyn nhiều, thường xuyên đi du lịch, được tiếp xúc  
với các nền văn hóa bên ngoài nên họ có cơ hội so sánh, đánh giá giữa hàng nội với hàng ngoại, từ đó  
hình thành ý định mua hàng ngoại do hàng ngoại thường được cho là tốt hơn. Bên cạnh đó, một lượng ln  
hàng ngoại nhập bình dân, đặc biệt là hàng may mặc đã xuất hiện trên thị trưng Việt Nam hoàn toàn phù  
hp vi thu nhp ca gii trViệt nên thúc đẩy ý định mua hàng của họ cao hơn. Ví dụ, các thương hiệu  
may mặc nước ngoài trong nghiên cứu này như Zara, H&M, Mango và Uniqlo thực ra là các thương hiệu  
bình dân, sản phẩm phong phú, mẫu mã đa dạng, giá không quá cao và rt phù hợp vi cá tính của mt bộ  
phận người tiêu dùng trẻ và dân văn phòng nên rất được ưa chuộng Vit Nam.  
Với khía cạnh tiêu dùng vượt biên, nghiên cứu này không tìm thấy mối quan hệ với ý định mua  
hàng ngoại. Điều đó có nghĩa là mặc dù người tiêu dùng thích nghe nhạc, xem phim nước ngoài hay  
thưởng thức ẩm thực của nước ngoài nhưng họ không nhất định muốn mua sản phẩm nước ngoài. Việc  
tiêu dùng đó đơn giản vì tò mò, muốn thử cho biết hoặc họ xem phim, nghe nhạc nước ngoài chỉ để giải  
trí chứ không đánh giá cao các sản phẩm của nước ngoài, từ đó dẫn đến ý định mua. Tuy nhiên, để hiểu rõ  
điều này, có lẽ cần tiếp tục có những nghiên cứu sâu hơn trong tương lai.  
5.2. Hàm ý quản lý  
Chủ nghĩa hướng ngoại được coi là một thái độ tích cực đối với người nước ngoài (Russell, 2004)  
và sự hiu biết vchủ nghĩa hướng ngoi của người tiêu dùng nhằm xác định các mô hình tiêu thụ sn  
phm của các quốc gia khác nhau (Caldwell và cộng s, 2006). Những thái độ này có ảnh hưởng trc tiếp  
đến sở thích của người tiêu dùng đối với các thương hiệu và các công ty nước ngoài (Crawford và Lamb,  
1982). Kết quả nghiên cứu này chỉ ra rằng người tiêu dùng đô thị Việt có ý định mua hàng ngoại do họ có  
thái độ tích cực với hàng ngoại, được người thân, bạn bè khuyến khích mua hàng và họ cm thy rt dễ  
dàng tiếp cn với hàng ngoại. Sự đa dạng của các loại hàng ngoại và việc thường xuyên tiếp xúc với hàng  
ngoi khiến người tiêu dùng có ý định mua hàng ngoại.  
881  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019  
ICYREB 2019  
Nhiều người tiêu dùng đô thị Vit Nam thhin sự yêu thích mạnh mẽ đối với các sản phẩm nước  
ngoài khiến cho các doanh nghiệp trong nước phi gii quyết bài toán sản xuất và tiêu thụ phù hợp vi  
nhu cu của khách hàng. Một gợi ý là các doanh nghiệp có thể tìm cách chống lại xu hướng đó theo hai  
hướng: ci thin chất lượng sn phm thc tế ca họ và phát triển các thông điệp tiếp thtốt hơn vsn  
phm ca htới người tiêu dùng thành thị. Mt la chọn khác cho các doanh nghiệp nội địa là tập trung  
vào một phân khúc khác có thể dtiếp nhận hơn như thị trường nông thôn vì người tiêu dùng nông thôn  
thường nhy cảm hơn về giá.  
Đối với hàng may mặc, người tiêu dùng hướng ngoại thường đánh giá tích cực về hàng ngoại do  
hàng ngoại có chất lượng tt, mẫu mã đẹp, sdụng công nghệ hiện đại do vậy các doanh nghiệp Vit cn  
chú trọng vào thiết kế, đa dạng hóa sản phẩm theo các tiêu chí khác nhau. Vì thế, giải pháp là các doanh  
nghip cần đầu tư cho khâu thiết kế thông qua mở rộng đào tạo chuyên ngành thời trang, thiết kế, tích cực  
tchức các cuộc thi thiết kế thời trang. Các doanh nghiệp dệt may đã có bộ phn phụ trách thiết kế  
chuyên biệt thì vẫn phải tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ các nhà thiết kế theo hướng: mở các lớp  
tp hun, bồi dưỡng thường xuyên; mời các chuyên gia trong và ngoài nước ging dy; gửi đi đào tạo  
chính quy ở nước ngoài để hình thành được đội ngũ các nhà thiết kế chuyên nghiệp, có trình độ và năng  
lực. Đầu tư cho các show trình diễn thời trang trong và nước ngoài, tạo ra môi trường để các nhà thiết kế  
thi trang Việt Nam có điều kiện tham gia trao đổi, hc hi kinh nghiệm, hình thành, định hướng nhãn  
quan tt vxu thế thời trang trên thế gii.  
5.3. Hn chế và hướng nghiên cứu trong tương lai  
Thnht, mẫu nghiên cứu mi chtp trung ở thành phố Hà Nội. Mặc dù đây là thành phố ln vi  
sự đa dạng về các thành phần trong xã hội nhưng khó có cơ sở để khẳng định nhng kết luận, đánh giá về  
hành vi tiêu dùng của họ đại diện cho người tiêu dùng trong cả nước. Nghiên cứu tiếp theo có thể mở  
rng ở các thành phố khác hoặc đưa về khu vực nông thôn để đảm bo đánh giá tính đa dạng.  
Thhai, phương pháp chn mu thun tiện khó mang tính đi diện cao. Các nghiên cứu tiếp theo có thể  
sdng những phương pháp chn mẫu khác để đảm bảo tính đi din ca mẫu là cao hơn.  
Thba, nghiên cứu hin ti tập trung vào người tiêu dùng trẻ (thế hệ Y) vì theo các nghiên cứu  
trước đây, người tiêu dùng theo chủ nghĩa hướng ngoại tương đối trẻ, có trình độ hc vấn cao và giàu  
kinh nghim quc tế. Nghiên cứu tiếp theo có thể tập trung vào đối tượng khách hàng trẻ hơn (thế hệ Z) là  
đối tượng sớm được tiếp xúc với văn hóa nước ngoài để đánh giá về chủ nghĩa hướng ngoại và ý định tiêu  
dùng hàng ngoại.  
TÀI LIỆU THAM KHO  
[1] Ajzen, I. (1991), The theory of planned behavior, Organizational Behavior và Human Decision  
Processes, 50, 179211.  
[2] Ajzen, I. and Fishbein, M. (2005), The Influence of Attitudes on Behavior, The Handbook of  
Attitudes, Erlbaum, Mahwah, 173-221.  
[3] Alden, D. L., J-BEM, Steenkamp & R. Batra (2006), Consumer attitudes toward marketplace  
globalization: structure, antecedents and consequences, International Journal of Research in Marketing,  
23(3), 227-39.  
[4] Ang, S.H., Cheng, P.S., Lim, E.A.C and Tambyah, S.K (2001), Spot the difference: Consumer  
responses towards counterfeits, Journal of Consumer Marketing, 18(3), 219-235.  
[5] Beckmann, S., S. Douglas, G. Botschen, M. Botschen, S. Friese & E. Nijssen (2001), The  
worldminded consumer: An Emic exploration. In M.C. Gilly & J. Meyers-Levy (Eds.), Advances in  
consumer research, 28, 138- 144.  
[6] Beverland, M. B. & F. J. Farrelly (2010), The quest for authenticity in consumption:  
Consumers’ purposive choice of authentic cues to shape experienced outcomes, Journal of Consumer  
Research, 36(5), 838-856.  
882  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019  
ICYREB 2019  
[7] Caldwell, M., K. Blackwell & K. Tulloch (2006), Cosmopolitan as a consumer orientation:  
Replicating and extending prior research, Qualitative Marketing Research: An International Journal,  
9(2), 126-139.  
[8] Cannon H. M., S. J. Yoon, L. McGowan & A. Yaprak (1994), In search of the global consumer,  
Proceedings for the 1994 Annual Meeting of the Academy of International Business, Boston, MA.  
[9] Cannon, H. M., & A. Yaprak (2002), Will the real-world citizen please stand up! The many  
faces of cosmopolitan consumer behavior, Journal of International Marketing, 10(4), 30-52.  
[10] Cao Quc Việt (2015), “Bản sắc dân tộc, chủ nghĩa hướng ngoi, chủ nghĩa vchủng và hành  
vi tiêu dùng hàng nội”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 26, tháng 9 2015.  
[11] Chang, M.K (1998), Predicting Unethical Behaviour: A Comparison of the Theory of  
Reasoned Action and the Theory of Planned Behaviour, Journal of Business Ethics, 17, 1825-1834.  
[12] Cleveland, M., M. Laroche & N. Papadopoulos (2009a), Cosmopolitanism, consumer  
ethnocentrism, and materialism: An eight-country study of antecedents and outcomes, Journal of  
International Marketing, 17(1), 116-146.  
[13] Cleveland, M., S. Erdogan, G. Arikan & T. Poyraz (2011a), Cosmopolitanism, individual-level  
values and cultural-level values: A cross-cultural study, Journal of Business Research, 64(9), 934-943.  
[14] Delanty, G. (2014), Not all is lost in translation: World varieties of cosmopolitanism, Cultural  
Sociology, 8(4), 374- 391.  
[15] Diệp Thành Kiệt (2012), “Khái niệm “hàng nhập khẩu”, “hàng nội địa hóa” và “hàng Việt  
Nam”, truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2016, thttp://infonet.vn/khai-niem-hang-nhap-khau-hang-noi-dia-  
[16] Dye, T. R. (1963), The local-cosmopolitan dimension and the study of urban politics, Social  
Forces, 41(3), 239-246.  
[17] Grey Group. (2008), Grey Group: 77% Vietnamese Consumers Prefer Imported Products,  
(accessed July 15, 2009), [available at http://www.thesaigontimes.vn].  
[18] Hannerz, U. (1990), Cosmopolitans and locals in world culture, Theory, Culture, and Society, 7,  
237-251.  
[19] Han, C. (2017), "Cosmopolitanism and ethnocentrism among young consumers in emerging  
Asia", Asia Pacific Journal of Marketing and Logistics, Vol. 29 No. 2, pp. 330-346.  
[20] Lee, K-T., You-Il, Lee & R. Lee (2014), Economic nationalism and cosmopolitanism: A study  
of interpersonal antecedents and differential outcomes, European Journal of Marketing, 48(5/6), 1133-  
1158. Journal of International Business Research Volume 15, Issue 1, 2016 45.  
[21] Merton, R. K. (1957), Patterns of influence: Local and cosmopolitan influential, Social  
Theory and Social Structure. New York, NY: The Free Press.  
[22] Parts, O., & Vida, I. (2011), The effects of consumer cosmopolitanism on purchase behavior  
of foreign vs. domestic products, Managing Global Transitions, 9(4), 355-370.  
[23] Part, O. and Vida, I. (2013), The Effects of Cosmopolitanism on Consumer Ethnocentrism,  
Product Quality, Purchase Intentions and Foreign Product Purchase Behavior”, American International  
Journal of Contemporary Research, Vol.3 No.11.  
[24] Pecotich, A., & Rosenthal, M. J. (2001), Country of origin, quality, brand and consumer  
ethnocentrism, Journal of Global Marketing (2), 31- 60.  
[25] Purwanto, E. (2014), The effect of consumer ethnocentrism on perceived domestic product  
quality and purchase intentions among young consumers in Jakarta, Indonesia, International Journal of  
Asian Social Science, 4(8), 1003-1012.  
883  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019  
ICYREB 2019  
[26] Rawwas, M.Y.A., Rajendran, K.N. and Wuehrer, G.A. (1996), The influence of worldmindedness  
and nationalism on consumer evaluation of domestic and foreign products, International Marketing  
Review, Vol. 13 No. 2, pp. 20-38.  
[27] Riefler, P. & A. Diamantopoulos (2009), Consumer cosmopolitanism: Review and replication of  
the CYMYC scale, Journal of Business Research, 62(4), 407-419.  
[28] Riefler, P., A. Diamantopoulos & J. A. Siguaw (2012), Cosmopolitan consumers as a target  
Segmentation, Journal of International Business Studies, 43, 285-305.  
[29] Sharma, S., Shimp, T.A., & Shin, J. (1995), Consumer Ethnocentrism: A Test of Antecedents  
and Moderators, Journal of Academy of Marketing Science, 23(1), 26-37.  
[30] Skrbis, Z., G. Kendall & I. Woodward (2004), Locating cosmopolitanism: Between humanist  
ideal and grounded social category, Theory, Culture & Society, 21(6), 115-136.  
[31] Speece, M. and Phung Nguyen, D. (2005), Countering negative countryoforigin with low  
prices: a conjoint study in Vietnam, Journal of Product & Brand Management, Vol. 14 No. 1, pp. 39-48.  
brands", Marketing Intelligence & Planning, Vol. 36 No. 6, pp. 618-632.  
[33] Steger, M. B. (2009), Globalization: A Very Short Introduction Second Edition, Oxford:  
Oxford University Press.  
dispositions  
toward  
global  
[34] Tambyah, S. K. & D, Chen (2012), Cosmopolitans go shopping, In M. Prince (Ed.) Consumer  
Cosmopolitanism in the Age of Globalization (pp. 3-28), New York, NY: Business Expert Press.  
884  
pdf 14 trang Thùy Anh 14/05/2022 3660
Bạn đang xem tài liệu "Chủ nghĩa hướng ngoại và ý định mua hàng ngoại của người tiêu dùng đô thị Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfchu_nghia_huong_ngoai_va_y_dinh_mua_hang_ngoai_cua_nguoi_tie.pdf