Vị trí pháp lý, thẩm quyền của chính quyền Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh

CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG  
vị Trí pháp lý, ThẨm quyền của chính quyền  
Thành phố Thủ đức Thuộc Thành phố hỒ chí minh  
Cao Vũ Minh  
TS.-Đại-học-Luật-TP.-Hồ-Chí-Minh  
Thông tin bài viết:  
Tóm tắt:  
Từ khóa: Thẩm quyền, thành phố  
Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.  
Trong lịch sử phát triển của Nhà nước ta, sáp nhập hay chia tách một  
đơn vị hành chính lãnh thổ là một yêu cầu mang tính khách quan. Tuy  
nhiên, khi sáp nhập hay chia tách một đơn vị hành chính lãnh thổ thì  
phải trả lời hai câu hỏi rất quan trọng. Một là, mục đích của việc sáp  
nhập hay chia tách là để làm gì; và hai là, việc sáp nhập hay chia tách  
sẽ có những thay đổi như thế nào về thẩm quyền quản lý? Trong phạm  
vi bài viết này, tác giả phác thảo thẩm quyền chung và một số nhiệm  
vụ, quyền hạn cụ thể của chính quyền thành phố Thủ Đức trong bối  
cảnh Chính phủ đang trình Ủy ban thường vụ Quốc hội Đề án thành  
lập thành phố Thủ Đức thuộc thành phố Hồ Chí Minh.  
Lịch sử bài viết:  
Nhận bài  
Biên tập  
Duyệt bài  
: 15/10/2020  
: 25/10/2020  
: 28/10/2020  
Article Infomation:  
Key words: Authority, Thu Duc city,  
Ho Chi Minh city.  
Abstract:  
In the development history that it is to merge or separate a territorial  
administrative unit is an objective requirement. However, when it  
intends to merge or separate a territorial administrative unit, there are  
two very important questions that must be addressed. First, what is the  
purpose of the merging or separation; and secondly, how will the  
merging or separation have changes in management authority? under  
the scope of this article, the author provides outlines of the general  
authority and some specific mandates and powers of the administration  
of Thu Duc city in the context that the proposal for the establishment  
of Thu Duc city within Ho Chi Minh City is submitted by the  
Government to the Standing Committee of the National Assembly.  
Article History:  
Received  
Edited  
: 15 Oct. 2020  
: 25 Oct. 2020  
: 28 Oct. 2020  
Approved  
1. Cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn cho  
việc thành lập thành phố Thủ Đức  
Theo khoản 1 Điều 110 Hiến pháp năm  
2013 thì các đơn vị hành chính của nước  
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được  
phân định như sau:  
Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và  
thành phố thuôc tỉnh chia thành phường va  
xã; quận chia thành phường.  
̣
̀
Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do  
Quốc hội thành lập”.  
Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, Luật  
Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015  
đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm  
2019 (Luật Tổ chức chính quyền địa  
phương) quy định các đơn vị hành chính  
được gọi chung theo ba cấp: cấp tỉnh, cấp  
huyện và cấp xã. So với Luật Tổ chức Hội  
“Nước chia thành tỉnh, thành phố trực  
thuộc trung ương;  
Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành  
phố thuô  
ương chia thành quận, huyê  
vị hành chính tương đương;  
̣
̣
NLGHPIÊPNHCÁPU  
55  
Số 22 (422) - T11/2020  
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG  
đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân  
(UBND) năm 2003, Luật Tổ chức chính  
quyền địa phương đã bổ sung thêm đơn vị  
hành chính: thành phố thuộc thành phố trực  
thuộc Trung ương đơn vị hành chính -  
kinh tế đặc biệt.  
Hiện nay, thành phố Hồ Chí Minh (Tp.  
HCM) đang triển khai xây dựng thành phố  
Thủ Đức. Cụ thể, ngày 12/10/2020, 100%  
đại biểu HĐND Tp. HCM thông qua Nghị  
quyết về việc sáp nhập ba quận 2, 9, Thủ  
Đức và 19 phường vào năm 2021. Ngày  
10/11/2020, theo đề nghị của Bộ Xây dựng,  
Chính phủ công nhận kết quả rà soát, đánh  
giá khu vực thành lập thành phố Thủ Đức là  
Đô thị loại 1 trực thuộc Tp. HCM. Ngày  
12/11/2020, Chính phủ đã trình Ủy ban  
thường vụ Quốc hội (UBTVQH) Đề án  
thành lập thành phố Thủ Đức thuộc Tp.  
HCM.  
phương tại thành phố Thủ Đức sẽ có HĐND  
và UBND.  
Khác với HĐND hoạt động không  
thường xuyên, UBND là thiết chế hoạt động  
thường xuyên, liên tục, thực hiện chức năng  
quản lý theo sự phân cấp2. Chính vì vậy,  
trong mối tương quan với cơ quan dân cử thì  
cơ quan hành chính luôn thể hiện tính năng  
động, kịp thời. Với tư duy đó, hoạt động của  
thành phố Thủ Đức có đạt tính hiệu quả,  
sáng tạo hay không phải phụ thuộc rất nhiều  
vào hoạt động của UBND thành phố Thủ  
Đức. Như vậy, khi thành phố Thủ Đức được  
thành lập và đi vào hoạt động thì vấn đề trao  
quyền cho UBND thành phố Thủ Đức đóng  
vai trò quyết định, ảnh hưởng lớn đến hoạt  
động của chính quyền địa phương nơi đây.  
Trao quyền cho chính quyền thành phố Thủ  
Đức không chỉ đơn giản là, trao nhiệm vụ và  
buộc chính quyền thành phố Thủ Đức tuân  
theo các quy định trong nghị định, thông tư,  
văn bản hướng dẫn của cấp trên, mà cần phải  
trao quyền tự do lựa chọn phương pháp,  
cách thức thực hiện các nhiệm vụ của mình3.  
Nói cách khác, UBND thành phố Thủ Đức  
cần được trao những quyền hạn cụ thể trên  
cơ sở phát huy sự chủ động, sáng tạo, xứng  
tầm với tên gọi thành phố thuộc thành phố  
trực thuộc trung ương.  
Thành phố Thủ Đức được thành lập  
nhằm mục đích dẫn dắt kinh tế tri thức, trung  
tâm đổi mới sáng tạo, thúc đẩy Tp. HCM và  
Đông Nam Bộ phát triển1.  
2. Vị trí pháp lý của thành phố Thủ Đức  
Điều 51 Luật Tổ chức chính quyền địa  
phương quy định, chính quyền địa phương  
ở thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung  
ương là cấp chính quyền địa phương gồm có  
Hội đồng nhân dân (HĐND) thành phố  
thuộc thành phố trực thuộc trung ương và Ủy  
ban nhân dân (UBND) thành phố thuộc  
thành phố trực thuộc trung ương. Nghị quyết  
của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị  
tại Tp. HCM ngày 16/11/2020 cũng khẳng  
định chính quyền địa phương ở thành phố  
thuộc Tp. HCM có HĐND và UBND. Như  
vậy, có thể khẳng định rằng, chính quyền địa  
Theo quy định của khoản 2 Điều 3 Luật  
Tổ chức chính quyền địa phương, việc phân  
loại đơn vị hành chính phải dựa trên các tiêu  
chí sau: i) Quy mô dân số; ii) Diện tích tự  
nhiên; iii) Trình độ phát triển kinh tế - xã hội;  
iv) Số đơn vị hành chính trực thuộc; v) Các  
yếu tố đặc thù của từng loại đơn vị hành  
chính ở nông thôn, đô thị, hải đảo. Tuy  
nhiên, xét trên thực tế không phải tất cả các  
1
2
Xem thêm Đề án thành lập thành phố Thủ Đức thuộc thành phố Hồ Chí Minh.  
Vũ Thư, “Phân cấp quản lý giữa các cấp chính quyền và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Quản lý pháp luật,  
số 222, năm 2014.  
3
Võ Trí Hảo, “Từ triết lý thiết kế chính quyền địa phương đến những gợi mở cho Dự thảo Luật Tổ chức  
chính quyền địa phương”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 3+4, năm 2015.  
NLGHPIÊPNHCÁPU  
56  
Số 22 (422) - T11/2020  
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG  
đơn vị hành chính khi phân loại đều dựa trên  
năm tiêu chí này4. Trong các tiêu chí trên thì  
hai tiêu chí là quy mô dân số diện tích tự  
nhiên đóng vai trò rất quan trọng.  
quá 30 điểm; diện tích tự nhiên từ 1.000 km2  
trở xuống được tính 10 điểm; trên 1.000 km2  
thì cứ thêm 200 km2 được tính thêm 0,5  
điểm, nhưng tối đa không quá 30 điểm5.  
Đề án thành lập thành phố Thủ Đức xác  
định sau khi sáp nhập để hình thành đơn vị  
hành chính thì thành phố Thủ Đức có tiêu  
chuẩn quy mô dân số hơn 1.013.795 triệu  
người, diện tích tự nhiên gần 211.56 km2.  
Nếu chỉ tính về tiêu chí diện tích tự nhiên thì  
thành phố Thủ Đức không thể sánh với các  
đơn vị hành chính cấp tỉnh. Tuy nhiên, nếu  
so sánh về quy mô dân số thì thành phố Thủ  
Đức có số dân đông hơn khoảng 20 tỉnh  
khác6. Nếu tính cả hai tiêu chí là quy mô dân  
Cụ thể hóa hai tiêu chí này, UBTVQH  
ban  
hành  
Nghị  
quyết  
số  
1211/2016/UBTVQH13 ngày 25/05/2016 về  
tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân  
loại đơn vị hành chính (Nghị quyết số 1211).  
Tiêu chí quy mô dân số diện tích tự nhiên  
được tính điểm để phân loại đơn vị hành  
chính tỉnh. Theo đó, nếu dân số từ 500.000  
người trở xuống được tính 10 điểm; trên  
500.000 người thì cứ thêm 30.000 người  
được tính thêm 0,5 điểm, nhưng tối đa không  
4
5
6
Nguyễn Đặng Phương Truyền, “Hoàn thiện pháp luật về tiêu chuẩn, thẩm quyền, thủ tục phân loại đơn vị  
hành chính ở nước ta”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6, năm 2019.  
Điều 12 Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị  
hành chính.  
Bạc Liêu (900.000 người), Bắc Kạn (327.900 người), Bình Phước (994.679 người), Cao Bằng (530.341  
người), Đắc Nông (622.168 người), Điện Biên (598.856 người), Hà Giang (854.679 người), Hậu Giang  
(733.017 người), Hòa Bình (854.131 người), Kon Tum (520.048 người), Lai Châu (460.196 người), Lạng  
Sơn (781.655 người), Lào Cai (705.600 người), Ninh Bình (982.487 người), Ninh Thuận (590.467 người),  
Phú Yên (961.152 người), Quảng Bình (895.430 người), Quảng Trị (632.375 người), Trà Vinh (1.009.168  
người), Tuyên Quang (784.811 người), Yên Bái (821.030 người).  
NLGHPIÊPNHCÁPU  
57  
Số 22 (422) - T11/2020  
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG  
số diện tích tự nhiên thì thành phố Thủ  
Đức có thể sánh ngang với các đơn vị hành  
chính cấp tỉnh có diện tích nhỏ và quy mô  
dân số không đông. Cụ thể, căn cứ theo cách  
tính điểm về quy mô dân số diện tích tự  
nhiên trong Nghị quyết số 1211, có thể thấy,  
điểm số của thành phố Thủ Đức xấp xỉ nhiều  
đơn vị hành chính cấp tỉnh, thậm chí còn cao  
điểm hơn so với hai tỉnh là tỉnh Hà Nam và  
tỉnh Ninh Thuận.  
Do đó, nếu xác định thẩm quyền của  
thành phố Thủ Đức tương tự như thẩm  
quyền của chính quyền hành chính cấp tỉnh  
cũng không phải là khiên cưỡng. Ngoài ra,  
nếu kết hợp với tiêu chí thứ ba về trình độ  
phát triển kinh tế - xã hội thì có thể thấy  
điểm số của thành phố Thủ Đức sẽ được cải  
thiện rất nhiều. Thông thường, việc đánh giá  
trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một  
đơn vị hành chính cấp huyện sẽ dựa vào các  
tiêu chí7: i) Cân đối thu, chi ngân sách địa  
phương; ii) Tỷ trọng công nghiệp, xây dựng  
và dịch vụ; iii) Tỷ lệ lao động phi nông  
nghiệp; iv) Tỷ lệ lao động qua đào tạo; v) Tỷ  
lệ đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc đạt  
tiêu chí quốc gia về y tế; vi) Diện tích nhà ở  
bình quân đầu người; vii) Tỷ lệ số hộ dân cư  
được dùng nước sạch. Đối chiếu với các số  
liệu trong Đề án thành lập thành phố Thủ  
Đức sẽ cho thấy những ưu điểm vượt trội  
của thành phố Thủ Đức một khi được thành  
lập và đi vào hoạt động.  
7
Nguyễn Đặng Phương Truyền, “Hoàn thiện pháp luật về tiêu chuẩn, thẩm quyền, thủ tục phân loại đơn vị  
hành chính ở nước ta”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6, năm 2019.  
NLGHPIÊPNHCÁPU  
58  
Số 22 (422) - T11/2020  
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG  
Theo  
Nghị  
quyết  
số  
thể, về vị trí chức năng, vai trò cơ cấu và  
trình độ phát triển kinh tế xã hội thì khu vực  
dự kiến thành lập thành phố Thủ Đức đạt 20/  
20 điểm; về quy mô dân số thì khu vực dự  
kiến thành lập thành phố Thủ Đức đạt 6,69/  
8 điểm; về mật độ dân số thì khu vực dự kiến  
thành lập thành phố Thủ Đức đạt 5,98/ 6  
điểm; về tỷ lệ lao động phi nông nghiệp thì  
khu vực dự kiến thành lập thành phố Thủ  
Đức đạt 6/ 6 điểm; về trình độ phát triển cơ  
sở hạ tầng và kiến trúc cảnh quan đô thị thì  
khu vực dự kiến thành lập thành phố Thủ  
Đức đạt 48,51/ 60 điểm.  
1210/2016/UBTVQH13 ngày 25/05/2016  
của UBTVQH (Nghị quyết số 1210), thành  
phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương  
được phân loại đô thị theo tiêu chí đô thị loại  
I hoặc loại II hoặc loại III7. Việc phân loại  
đô thị được thực hiện bằng phương pháp tính  
tổng số điểm đạt được của các tiêu chí8.  
Theo đó, có năm tiêu chí: i) Vị trí, chức  
năng, vai trò, cơ cấu và trình độ phát triển  
kinh tế - xã hội; ii) Quy mô dân số; iii) Mật  
độ dân số; iv) Tỷ lệ lao động phi nông  
nghiệp toàn đô thị; v) Trình độ phát triển cơ  
sở hạ tầng và kiến trúc, cnh quan đô thị.  
Căn cứ vào điểm số thì khu vực dự kiến  
thành lập thành phố Thủ Đức đạt 87,18/ 100  
điểm, bảo đảm đạt tiêu chí đô thị loại I. Cụ  
Ngày 12/12/2001, Chính phủ ban hành  
Nghị định số 93/2001/NĐ-CP về phân cấp  
quản lý một số lĩnh vực cho Tp. HCM. Nghị  
định số 93/2001/NĐ-CP đã phân cấp cho Tp.  
HCM bốn nội dung lớn.  
8
9
Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.  
Khoản 4 Điều 2 Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.  
NLGHPIÊPNHCÁPU  
59  
Số 22 (422) - T11/2020  
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG  
NLGHPIÊPNHCÁPU  
60  
Số 22 (422) - T11/2020  
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG  
- Quản lý quy hoạch, kế hoạch, đầu tư  
và phát triển kinh tế xã hội;  
- Quản lý nhà đất và hạ tầng kỹ thuật đô  
thị;  
- Quản lý ngân sách nhà nước;  
- Tổ chức bộ máy và quản lý cán bộ,  
công chức.  
Đức chỉ ngang tầm với các đơn vị hành  
chính cấp huyện. Hiện nay, quy định của  
Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Chính  
quyền địa phương đều không tạo ra sự khác  
biệt trong thẩm quyền của thành phố thuộc  
thành phố trực thuộc trung ương. Do đó, dựa  
vào các quy định pháp luật hiện hành cũng  
như những thế mạnh về kinh tế, văn hóa, xã  
hội, có thể xác định thẩm quyền của thành  
phố Thủ Đức thuộc Tp. HCM như sau:  
Tiếp nối những tích cực trong phân cấp  
quản lý, ngày 24/11/2017, Quốc hội khóa  
XIV ban hành Nghị quyết số 54/2017/QH14  
về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát  
triển Tp. HCM. Nghị quyết này được đánh  
giá là quy định mang tính đột phá, đồng bộ,  
kịp thời, phù hợp với tình hình của “đầu tàu  
kinh tế” sau 43 năm thống nhất đất nước.  
Trong bối cảnh Nghị quyết số  
54/2017/QH14 đã có hiệu lực pháp luật và  
việc thành lập thành phố Thủ Đức đang là  
một tất yếu thì những vấn đề về thẩm quyền  
của chính quyền thành phố Thủ Đức cũng  
cần có những thay đổi nhằm bảo đảm cho  
việc thực hiện cơ chế, chính sách đặc thù. Sẽ  
không thể có những chính sách đặc thù nếu  
không có những thẩm quyền mang tính đặc  
thù. Chính vì vậy, thừa nhận những đặc thù  
trong thẩm quyền của chính quyền thành phố  
Thủ Đức là lời giải hợp lý nhất cho việc thực  
hiện cơ chế, chính sách đặc thù của thành  
phố Thủ Đức.  
Thứ nhất, về thẩm quyền chung.  
Như đã trình bày ở trên, xét về quy mô  
dân số diện tích tự nhiên thì thành phố  
Thủ Đức có điểm số cao hơn một số tỉnh  
nhưng việc xác định thẩm quyền chung phải  
căn cứ vào nhiều tiêu chí bởi xác định đúng  
thẩm quyền của các chủ thể sẽ tạo điều kiện  
cho bộ máy nhà nước hoạt động chính xác,  
nhịp nhàng và đạt hiệu quả. “Sự phân công  
lao động” nghĩa là phân định thẩm quyền  
trong bộ máy công quyền phải thỏa mãn yêu  
cầu sao cho mỗi cơ quan, mỗi nhà chức trách  
có một khối lượng “công việc nhà nước” hợp  
lý, tương xứng với vị trí và khả năng của chủ  
thể đó, sao cho không có công việc nhà nước  
quan trọng đáng kể nào bị bỏ sót và không  
có công việc nào bị giao chồng chéo, trùng  
lắp10. Nếu xác định thẩm quyền của thành  
phố Thủ Đức ngang với thẩm quyền của đơn  
vị hành chính cấp tỉnh thì dẫn đến sự chồng  
chéo với thẩm quyền của Tp. HCM. Ngoài  
ra, thẩm quyền của “tập hợp con” - thành  
phố Thủ Đức mà ngang với thẩm quyền của  
“tập hợp mẹ” - Tp. HCM là một điều rất vô  
lý. Điều này có thể dẫn đến tình trạng cục  
bộ, cát cứ, xa rời nguyên tắc quản lý tập  
trung - dân chủ. Do đó, chúng tôi cho rằng,  
thẩm quyền của thành phố Thủ Đức dù có  
được mạnh dạn trao cho lớn đến đâu thì cũng  
không thể ngang với thẩm quyền của đơn vị  
hành chính cấp tỉnh. Đây là vấn đề có tính  
nguyên tắc đầu tiên cần lưu ý.  
3. Thẩm quyền của chính quyền thành  
phố Thủ Đức  
Hoạt động quản lý của chính quyền địa  
phương ở thành phố Thủ Đức chắc chắn sẽ  
tác động đến toàn bộ dân cư và tất cả các lĩnh  
vực quản lý nhà nước trong phạm vi thành  
phố Thủ Đức. Mặc dù, Đề án thành lập xác  
định thành phố Thủ Đức là đơn vị hành  
chính cấp huyện. Tuy nhiên, với những thế  
mạnh và sự kỳ vọng của chính quyền Tp.  
HCM cũng như cả nước, không thể xác định  
thẩm quyền của chính quyền thành phố Thủ  
10 Nguyê  
̃n Cửu Việt, “Cải cách hành chính: về khái niệm thẩm quyền”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 8,  
năm 2005.  
NLGHPIÊPNHCÁPU  
61  
Số 22 (422) - T11/2020  
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG  
Theo Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy  
phạm pháp luật năm 2015 đã được sửa đổi,  
bổ sung một số điều năm 2020 (Luật Ban  
hành VBQPPL), HĐND thành phố thuộc  
thành phố trực thuộc trung ương có quyền  
ban hành văn bản quy phạm pháp luật với  
tên gọi là nghị quyết và UBND thành phố  
thuộc thành phố trực thuộc trung ương có  
quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật  
với tên gọi là quyết định11. Dưới góc độ pháp  
lý, văn bản quy phạm pháp luật là biểu hiện  
thẩm quyền của một cơ quan nhà nước.  
PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt thật có lý khi cho  
rằng: quan hệ văn bản pháp luật giữa các cơ  
quan, tổ chức chính là tấm gương phản ánh  
vị trí, vai trò cơ quan, tổ chức trong thang  
bậc của bộ máy nhà nước và hệ thống chính  
trị12. Điều đó có nghĩa mối quan hệ trên  
phương diện văn bản pháp luật phản ánh thứ  
bậc và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà  
nước. Xét về vị trí thang bậc pháp lý, văn  
bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa  
phương thành phố thuộc thành phố trực  
thuộc trung ương xếp sau văn bản quy phạm  
pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn  
vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Do đó, thẩm  
quyền của thành phố Thủ Đức cũng không  
thể ngang với thẩm quyền của đơn vị hành  
chính - kinh tế đặc biệt. Ngoài ra, một đơn  
vị hành chính do UBTVQH thành lập (thành  
phố Thủ Đức) cũng không thể có thẩm  
quyền vượt hơn so với một đơn vị hành  
chính do Quốc hội thành lập13. Đây là vấn  
đề có tính nguyên tắc thứ hai cần lưu ý.  
Việc thành lập, phân loại, thay đổi các  
đơn vị hành chính lãnh thổ là tiền đề để một  
quốc gia tiến hành các biện pháp phát triển  
kinh tế và quản lý xã hội. Thông thường, nếu  
có xu hướng sáp nhập các đơn vị hành chính  
lãnh thổ nhỏ lại thành một đơn vị lớn hơn,  
tạo tiền đề cho việc quản lý kinh tế, quy  
hoạch đô thị được thuận lợi thì cần tăng  
thẩm quyền tương xứng với nhiệm vụ,  
quyền hạn được giao14. Với tư duy đó, thẩm  
quyền của chính quyền thành phố Thủ Đức  
cần được tăng hơn so với các đơn vị hành  
chính cấp huyện. Theo chúng tôi, sẽ là  
không hợp lý nếu thẩm quyền thành phố Thủ  
Đức với cấu thành từ 36 phường, có quy mô  
dân số 1.013.795 người và diện tích 211.56  
km2 cũng được “đánh đồng” với chính  
quyền Quận 4 với cấu thành từ 15 phường15,  
có quy mô dân số 200.000 người và diện tích  
4.18 km2. Ngoài ra, với các thế mạnh về quy  
mô dân cư và diện tích, trình độ phát triển  
kinh tế - xã hội của thành phố Thủ Đức, cần  
mạnh dạn trao thêm quyền cho thành phố  
Thủ Đức. Vấn đề trao thêm quyền cho thành  
phố Thủ Đức đến đâu phụ thuộc vào chính  
quyền trung ương. Theo đó, việc trao quyền  
cho thành phố Thủ Đức phải hướng đến mục  
đích tạo ra sự chủ động, sáng tạo trong thu  
hút các nguồn đầu tư cũng như giảm thiểu  
mọi hàng rào ngăn cản các nguồn lực phát  
triển thành phố Thủ Đức. Cụ thể, các chính  
sách, biện pháp ưu đãi, khuyê  
biêt mà thành phố Thủ Đức hướng đến có  
thể là:  
́n khích đặc  
̣
i) Đơn giản hóa các thủ tục thành lập  
doanh nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu tạo ra  
môi trường khởi nghiệp, kinh doanh và kinh  
tế sáng tạo, xứng đáng là Trung tâm khởi  
nghiệp lớn nhất Việt Nam.  
11 Khoản 12 và 13 Điều 4 Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm  
2020).  
12 Nguyễn Cửu Việt, “Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật (tiếp theo) và hệ thống văn bản quy phạm pháp  
luật”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 51, năm 2005.  
13 Điều 110 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập”.  
14 Nguyễn Hoàng Anh, “Tổ chức đơn vị hành chính ở Cộng hòa Pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19,  
năm 2019.  
15 Cục Thống kê Tp. HCM, Niên giám thống kê năm 2015.  
NLGHPIÊPNHCÁPU  
62  
Số 22 (422) - T11/2020  
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG  
ii) Áp dụng các chính sách khuyến khích  
về tài chính, miên, giam các loại thuế như  
thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập, thuế tài  
sản nhằm phát triển khu công nghệ cao -  
Trung tâm sản xuất tự động hóa và Khu công  
viên khoa học.  
iii) Đơn giản hóa các thủ tục hải quan  
nhằm phát huy thế mạnh của Cảng Cát Lái.  
iv) Tự do hóa các dòng chảy vốn đầu tư,  
lợi nhuận nhằm thu hút các hoạt động công  
nghệ tài chính tại Khu đô thị mới Thủ  
Thiêm.  
v) Tạo thuận lợi trong việc sử dụng kết  
cấu hạ tầng, giao thông, đất đai nhằm phát  
triển khu Tam Đa, Long Phước bởi khu vực  
này cung cấp một cơ hội cho sự sáng tạo  
trong thiết kế và vận hành, vừa kết nối với  
các hạ tầng giao thông quan trọng bao gồm  
cả tuyến đường cao tốc và đường sắt nối với  
sân bay quốc tế mới.  
mang tính toàn cầu17. Theo xu hướng đó, các  
đơn vị hành chính hội đủ những ưu thế tổng  
hợp được hình thành vì mục đích khai thác  
hợp lý tiềm năng tự nhiên cho nhu cầu phát  
triển kinh tế vùng miền và của cả nước thì  
nên được hưởng quy chế hành chính đặc  
t18. Với các thế mạnh mang tính tổng hợp,  
thành phố Thủ Đức hoàn toàn có thể thúc  
đẩy kinh tế phát triển nếu được trao quyền  
tương xứng.  
Thứ hai, về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể.  
* Đối với HĐND thành phố Thủ Đức:  
Cần tập trung vào hoạt động giám sát việc  
tuân theo Hiến pháp, pháp luật của UBND  
thành phố Thủ Đức. Theo logic pháp lý, khi  
tăng thẩm quyền cho UBND thành phố Thủ  
Đức càng lớn bao nhiêu thì càng phải thực  
hiện hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND  
thành phố Thủ Đức bấy nhiêu để hạn chế  
tình trạng lạm quyền, tùy tiện. Ngoài ra, theo  
Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức chính  
quyền đô thị tại Tp. HCM, tại các phường  
thuộc thành phố Thủ Đức sẽ không tổ chức  
HĐND. Chính vì vậy, việc HĐND thành phố  
Thủ Đức thực hiện chức năng giám sát hoạt  
động của UBND, Chủ tịch UBND phường  
trực thuộc cũng phải được quy định cụ thể  
về trình tự, cách thức thực hiện. Việc giám  
sát hoạt động của cả UBND thành phố Thủ  
Đức lẫn UBND các phường trực thuộc là  
không đơn giản bởi nội dung, phương thức,  
thủ tục tổ chức giám sát sẽ có rất nhiều  
những khác biệt.  
̃
̉
Có ý kiến cho rằng việc tăng thẩm  
quyền cho chính quyền địa phương nói  
chung và chính quyền thành phố Thủ Đức  
nói riêng sẽ có thể dẫn đến tình trạng thoát  
ly, địa phương cục bộ16. Chúng tôi cho rằng,  
vấn đề này không đáng lo ngại bởi các thẩm  
quyền mang tính chất đặc thù, có tính đột  
phá đươc̣ đề xuât́ áp dụng cho thành phố Thủ  
Đức sẽ phải được đánh giá tác động một  
cách toàn diện, khoa học, khách quan. Sự  
cào bằng trong cơ chế trao quyền sẽ không  
thể giúp cho thành phố Thủ Đức phát triển  
mạnh mẽ. Trong khi các nước đang phát  
triển rất cần thu hút vốn để tạo nhiều công  
ăn việc làm và thực hiện công nghiệp hóa thì  
các công ty, tập đoàn kinh doanh lại cần đến  
những nơi hội đủ những ưu thế tổng hợp  
* Đối với UBND, Chủ tịch UBND thành  
phố Thủ Đức: Pháp luật hiện hành trao cho  
HĐND “quyền bầu”, mà lại trao “quyền phê  
chuẩn” kết quả bầu đó, quyền điều động và  
16 Bùi Thị Phương Liên - Vũ Đình Lâm, “Kiểm soát quyền lực ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt”, Tạp  
chí Nghiên cứu lập pháp số 2, năm 2018.  
17 Nguyễn Thúy Hà, “Chính sách ưu đãi của một số quốc gia đối với đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt và  
những nội dung có thể tham khảo”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10, năm 2018.  
18 Nguyễn Thị Thiện Trí, “Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt: Vấn đề đặt ra và vận dụng ở nước ta hiện  
nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10, năm 2014.  
19 Nguyễn Cửu Việt, Giáo trình luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2013, tr.183.  
NLGHPIÊPNHCÁPU  
63  
Số 22 (422) - T11/2020  
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG  
miễn nhiệm cho Chủ tịch UBND cấp trên  
trực tiếp là mâu thuẫn19. Do đó, nhằm bảo  
đảm cơ chế đặc thù cho thành phố Thủ Đức,  
cần mạnh dạn trao quyền bổ nhiệm Chủ tịch  
UBND phường trực thuộc cho Chủ tịch  
UBND thành phố Thủ Đức. Bước đi này sẽ  
khắc phục được một cách cơ bản tình trạng  
“tính hai mặt” trong cơ chế hoạt động của  
Chủ tịch UBND phường. Hơn nữa, khi Chủ  
tịch UBND thành phố Thủ Đức bổ nhiệm  
Chủ tịch UBND phường trực thuộc, một mặt  
sẽ “bảo đảm thẩm quyền hành chính theo  
hướng dân chủ pháp quyền mà ưu thế thuộc  
về người đứng đầu cơ quan hành chính cấp  
trên; mặt khác, sẽ tăng cường tính tự chịu  
trách nhiệm của người đứng đầu UBND  
phường trực thuộc, nhất là trong bối cảnh  
chúng ta đang chủ trương phân cấp mạnh mẽ  
cho chính quyền địa phương nói chung và cho  
chính quyền thành phố Thủ Đức nói riêng.  
* Đối với UBND, Chủ tịch UBND các  
phường trực thuộc: Khi đã thừa nhận tăng  
quyền cho UBND, Chủ tịch UBND thành  
phố Thủ Đức thì việc tăng quyền cho  
UBND, Chủ tịch UBND các phường trực  
thuộc cũng là một việc cần được quan tâm  
xem xét kỹ lưỡng. Việc quản lý phải được  
thực hiện một cách đồng bộ, thông suốt. Do  
đó, việc tăng quyền phải mang tính hệ thống  
bởi không thể có trạng thái các bộ phận cấu  
thành hoạt động không tốt mà lại tạo thuận  
lợi cho máy chủ hoạt động hiệu quả. Các bộ  
phận cấu thành (UBND, Chủ tịch UBND các  
phường trực thuộc) phải có thực quyền thì  
cỗ máy cái (UBND, Chủ tịch UBND thành  
phố Thủ Đức) mới có thể thực hiện tốt chức  
năng quản lý. Hiện nay, Nghị quyết về tổ  
chức chính quyền đô thị tại Tp. HCM tuy có  
đề cập đến nhiệm vụ, quyền hạn của UBND  
phường ở thành phố thuộc thành phố trực  
thuộc trung ương nhưng các quy định này  
chưa cụ thể, rõ ràng và vẫn mang tính chất  
cào bằng với UBND ở đơn vị hành chính cấp  
xã. Thậm chí, có những quyền vốn dĩ thuộc  
về UBND cấp xã nhưng Nghị quyết lại  
không thừa nhận cho UBND phường ở  
thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung  
ương. Đơn cử, theo quy định của Điều 4  
Luật Ban hành VBQPPL, UBND cấp xã có  
quyền ban hành VBQPPL với tên gọi là  
quyết định. Thậm chí Điều 144, Điều 145  
Luật Ban hành VBQPPL còn quy định rất cụ  
thể thủ tục soạn thảo và ban hành VBQPPL  
của UBND cấp xã.  
Khi Quốc hội thảo luận thông qua Luật  
Ban hành VBQPPL, có ý kiến cho rằng, “do  
phạm vi địa giới của xã, phường, thị trấn khá  
nhỏ và sự khác biệt về các vấn đề tự nhiên,  
xã hội của các xã, phường, thị trấn trong một  
huyện, quận không nhiều nên gần như không  
có yếu tố đặc thù cần có những quy định  
riêng. Mặt khác, để tránh sự tản mạn của  
pháp luật, việc quy định thẩm quyền ban  
hành VBQPPL của chính quyền cấp xã (gồm  
HĐND cấp xã và UBND cấp xã) là không  
cần thiết”1. Tuy nhiên, khi thông qua Luật  
Ban hành VBQPPL, Quốc hội vẫn quy định  
thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm  
pháp luật của UBND cấp xã (trong đó có  
UBND phường). Đối chiếu với các quy định  
này thì UBND phường ở thành phố thuộc  
thành phố trực thuộc trung ương đương nhiên  
có quyền ban hành VBQPPL. Tuy nhiên,  
Nghị quyết về tổ chức chính quyền đô thị tại  
Tp. HCM lại “tước đi” quyền này của UBND  
phường ở thành phố thuộc thành phố trực  
thuộc trung ương. Như vậy, quy định này  
không những không tăng quyền cho UBND  
các phường trực thuộc mà vô hình trung còn  
làm giảm thẩm quyền của chủ thể này. Đây  
là một điều cần được sửa đổi nhằm thúc đẩy  
sự phát triển của thành phố Thủ Đức  
n
20 Bùi Thị Đào, “Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền cấp huyện, cấp xã”,  
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5, năm 2015.  
NLGHPIÊPNHCÁPU  
64  
Số 22 (422) - T11/2020  
pdf 10 trang Thùy Anh 18/05/2022 500
Bạn đang xem tài liệu "Vị trí pháp lý, thẩm quyền của chính quyền Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfvi_tri_phap_ly_tham_quyen_cua_chinh_quyen_thu_duc_thuoc_than.pdf