Thương nhân theo luật thương mại Việt Nam (Phần 2)
THƯƠNG NHÂN THEO LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
3.Phân loại thương nhân
Luật Thương mại năm 2005 của Việt Nam không phân loại thương nhân, vì thế
việc phân loại chỉ mang tính chất tham khảo[22]. Theo đó, việc phân loại thương
nhân được dựa theo những đặc tính sau: i) Tư cách pháp nhân; ii) Hình thức tổ
chức; iii) Chế độ trách nhiệm tài sản; iv) Quốc tịch của thương nhân.
3.1. Tư cách pháp nhân
Dựa vào căn cứ tư cách pháp nhân, có thể phân loại thương nhân thành thương
nhân có tư cách pháp nhân và thương nhân không có tư cách pháp nhân.Theo pháp
luật Việt Nam, để được công nhận là pháp nhân thì một tổ chức cần có đủ những
điều kiện cơ bản như được thành lập hợp pháp, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tài
sản độc lập và tự chịu trách nhiệm độc lập bằng tài sản của mình và phải nhân danh
mình tham gia vào các quan hệ pháp luật. Với tiêu chí phân chia này, thương nhân
có tư cách pháp nhân bao gồm các loại công ty được quy định tại Luật Doanh
nghiệp năm 2020 là công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty TNHH một
thành viên, công ty cổ phần và công ty hợp danh. Thương nhân có tư cách pháp
nhân được xem làpháp nhân thương mại bởi suy cho cùng pháp nhân nàycó mục
tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành
viên[23] hoặc thuộc về nhà đầu tư.Thương nhân không có tư cách pháp nhân bao
gồm doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh[24]. Trong đó,doanh nghiệp tư nhân
là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.Hộ kinh doanh do một cá nhân
hoặc một nhóm người gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh
doanh tại một địa điểm, sử dụng dưới mười lao động và chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh[25]. Mặc dù không có tư cách
pháp nhân nhưng doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh vẫn là các chủ thể pháp
luật độc lập, điều này có nghĩa là việc chủ doanh nghiệp tư nhân hay chủ hộ kinh
doanh chết sẽ không lập tức và không tự động dẫn đến chấm dứt sự tồn tại của
doanh nghiệp tư nhân hay hộ kinh doanh đó.
3.2. Hình thức tổ chức
Dựa vào căn cứ này, có thể chia thương nhân thành thương nhân là doanh nghiệp
và thương nhân không phải là doanh nghiệp. Thương nhân là doanh nghiệp gồm
các loại hình công ty và doanh nghiệp tư nhân theo pháp luật doanh nghiệp. Hoặc
trên thực tế dựa vào lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp có thể chia ra thành
doanh nghiệp nông nghiệp, doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp thương mại
và doanh nghiệp hoạt động dịch vụ. Căn cứ vào quy mô về vốn, lao động và sản
phẩm có thể chia thành doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp lớn.
Về bản chất, việc lựa chọn loại hình doanh nghiệp cụ thể nào phụ thuộc vào nhiều
nhân tố, cả phía chủ doanh nghiệp và môi trường. Còn thương nhân không phải là
doanh nghiệp gồm hộ kinh doanh, hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã.
Pháp luật doanh nghiệp Việt Nam không xem hộ kinh doanh là doanh nghiệp, có
thể do tính chất “quy mô kinh tế nhỏ” của nó nhưng không vì thế mà tư cách
thương nhân của nó bị phủ nhận. Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành cũng không
xem hợp tác xã là một loại hình doanh nghiệp mà là “tổ chức kinh tế tập thể” và
“hoạt động như một loại hình doanh nghiệp”[26].Trong khi đó, liên hiệp hợp tác
xã là tổ chức kinh tế mà thành viên của nó là các hợp tác xã và hoạt động theo
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã.Điều 3 Luật Hợp tác xã năm 2012
quy định:
“1. Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít
nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành
viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý
hợp tác xã.
2. Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp
nhân, do ít nhất 04 hợp tác xã tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu chung của hợp tác xã
thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong
quản lý liên hiệp hợp tác xã”.
Như vậy, theo pháp luật thương mại thì hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đều là
thương nhân vì chúng có đầy đủ các đặc điểm của thương nhân theo quy định của
pháp luật thương mại thực định.Cũng cần nói thêm, pháp luật thương mại ở nhiều
quốc gia trên thế giới chỉ thừa nhận thương nhân là thể nhân (cá nhân) và pháp
nhân[27] chứ không tồn tại thuật ngữ hợp tác xã hay hộ kinh doanh như ở Việt
Nam cho dù việc định danh, gọi tên là thương nhân của chủ thể này mang nhiều
tính suy luận dựa trên quy định gián tiếp.
3.3. Chế độ trách nhiệm tài sản
Thương nhân chịu trách nhiệm tài sản hữu hạn bao gồm Công ty trách nhiệm hữu
hạn, Công ty cổ phần, Hợp tác xã và Liên hiệp hợp tác xã. Trách nhiệm hữu
hạn (limited liability) trong trường hợp này được hiểu là trách nhiệm của thương
nhân trong phạm vi vốn đã góp, cam kết góp. Theo đó, các thành viên, cổ đông hay
xã viên chỉ chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính khác của
công ty hay hợp tác xã trong phạm vi số vốn đã góp hoặc cam kết góp vào công ty
hay hợp tác xã mà thôi. Nói cách khác, chế độ trách nhiệm tài sản hữu hạn của
thương nhân có nghĩa là, thương nhân chỉ chịu trách nhiệm tài sản bằng tài sản của
chính mình bao gồm tài sản do thành viên, cổ đông, xã viên góp vốn và các tài sản
hợp pháp khác tạo lập được trong quá trình hoạt động thuộc sở hữu của mình[28].
Thương nhân chịu trách nhiệm tài sản vô hạn bao gồm doanh nghiệp tư nhân, hộ
kinh doanh và công ty hợp danh. Trách nhiệm vô hạn (infinite responsibility) trong
trường hợp này được hiểu là trách nhiệm của thương nhân đối với tài sản; theo đó,
thương nhân bắt buộc phải chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ trong hoạt động kinh
doanh, thương mại bằng toàn bộ tài sản. Đối với doanh nghiệp tư nhân thì chủ
doanh nghiệp “tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với mọi hoạt
động của doanh nghiệp”. Đối với cá nhân hộ gia đình là các chủ sở hữu của hộ
kinh doanh cũng chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của họ đối với mọi hoạt
động của hộ kinh doanh. Đối với công ty hợp danh thì thành viên hợp danhphải
liên đới chịu trách nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại của công ty nếu tài sản của
công ty không đủ để trả số nợ của công ty. Trong trường hợp công ty hợp danh có
thêm thành viên góp vốn thì các thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn.
3.4.Quốc tịch của thương nhân
Theo tiêu chí này, thương nhân được chia thành thương nhân Việt Nam và thương
nhân nước ngoài. Thương nhân Việt Nam là thương nhân được đăng ký thành lập
theo quốc tịch Việt Nam; theo đó, các chủ thể thoả mãn các điều kiện cần và đủ để
đăng ký kinh doanh thì hoàn toàn có thể trở thành thương nhân. Thương nhân nước
ngoài là thương nhân được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật nước ngoài hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận[29]. Theo quy định của
khoản 2 Điều 16 Luật Thương mại năm 2005, thương nhân nước ngoài được đặt
Văn phòng đại diện, Chi nhánh tại Việt Nam, thành lập tại Việt Nam doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài theo các hình thức do pháp luật Việt Nam quy định. Bên
canh đó, khi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thương nhân nước ngoài
thành lập tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc
tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên thì được coi là thương
nhân Việt Nam. Quy định này cũng phù hợp với bản chất của thương nhân Việt
Nam là được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật. Việc xác định thương
nhân có quốc tịch Việt Nam hay quốc tịch nước ngoài có ý nghĩa đối với việc xác
định luật áp dụng trong quan hệ giữa các thương nhân, không những vậy nó còn
có “ý nghĩa trong việc xác định chế độ đãi ngộ hay chế độ bảo hộ trong quan hệ
giữa nhà nước với thương nhân”[30].
4. Kết luận
Có thể nói “thương nhân”, “doanh nghiệp” hay “chủ thể kinh doanh” hoặc “cá
nhân, hợp tác xã, hộ gia đình, hay tổ chức kinh tế khác” được xác định là “thương
nhân” cho dù có tư cách pháp nhân hay không có tư cách pháp nhân, chịu trách
nhiệm hữu hạn hay vô hạn thì mục đích cơ bản cuối cùng là thực hiện các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi. Tuy vậy, để bảm đảm sự an toàn và cân bằng trong
quan hệ thương mại thì không phải chủ thể nào cũng có thể trở thành thương nhân,
chỉ những chủ thể đáp ứng điều kiện nhất định về năng lực hành vi thương mại
(trên nền tảng năng lực hành vi dân sự), không thuộc trường hợp cấm thành lập,
hoạt động theo quy định của pháp luật thì mới có thể trở thành thương nhân. Cách
phân loại thương nhân theo các tiêu chí khác nhau nhưng tựu chung là nhằm xác
định địa vị pháp lý của thương nhân trong các quan hệ kinh doanh, thương mại mà
thương nhân đó tham gia. Trong xã hội, thương nhân là một nghề có đóng góp to
lớn, tích cực cho kinh tế đất nước nhưng nghề này lại luôn tồn tại những thăng
trầm bởi những cơ hội và rủi ro trong nghề nghiệp của mình, vì thế pháp luật trong
những thập niên gần đây luôn ghi nhận quyền tự do hoạt động của họ dưới các
hình thức, ngành nghề ở các địa bàn khác nhau theo tinh thần “thương nhân được
làm tất cả những gì mà luật không cấm”./.
[1] Nguyên văn “A person is a merchant when she or he acting in a mercantile
capacity, possesses or uses an expertise specifically related to the goods being
sold”. Xem thêm:Clarkson. Miller. Cross, Business law – Text and cases
(thirteenth Edition), page. 380.
[2]Luật Thương mại năm 2005.
[3] Khoản 10 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020, có hiệu lực thi hành
01/01/2021.
[4] Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình pháp luật về chủ thể
kinh doanh, Nxb. Hồng Đức, tr.16.
[5] Thương gia là thuật ngữ được sử dụng nhiều lần (chính) trong Bộ luật Thương
mại Việt Nam cộng hoà năm 1972.
[6] Hiện nay, doanh nhân là thuật ngữ được sử dụng, tuyên dương trong ngày
truyền thống (13/10 hàng năm) của những người hoạt động kinh doanh, thương
mại. Tuy vậy, xét trên tính tổng quát thì quy định “ngày thương nhân” sẽ hợp lý
và thuyết phục hơn.
[7] Không chỉ hướng đến lợi ích vật chất thuần tuý mà còn bao gồm cả yếu tố phi
vật chất (uy tín, hình ảnh, thương hiệu).
[8] Tính đến nay đã có năm bản Hiến pháp Việt Nam qua các năm: 1946, 1959,
1980, 1992 và 2013.
[9] Điều 33 Hiến pháp năm 2013.
[10] Xem thêm: khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005.
[11] Về nguyên tắc, để trở thành thương nhân thì cá nhân phải có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ, không thuộc trường hợp cấm thành lập, quản lý doanh nghiệp theo
quy định của pháp luật doanh nghiệp. Đối với cá nhân nước ngoài và người không
có quốc tịch muốn trở thành thương nhân Việt Nam cũng phải có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ theo pháp luật Việt Nam. Một số tài liệu có nêu thương nhân là cá
nhân cũng đồng nghĩa với thương nhân là thể nhân.Tuy vậy, pháp luật Việt Nam
không sử dụng thuật ngữ “thể nhân” vì thế bài viết không đi sâu phân tích về vấn
đề này.
[12] Nguyên văn “trader (16c) 1. A merchant; a retailer; one who buys goods to
sell them at a profit. 2. Someone who sells goods substantially in the form in which
they are bought; one who has not converted them into another form of property by
skill and labor. 3. Someone who, as a member of a stock exchange, buys and sells
securities on the exchange floor either for brokers or on his or her own account. 4.
Someone who buys and sells commodities and commodity futures for others or for
his or her own account in anticipation of a speculative profit. Nguồn:Westlaw. ©
2019 Thomson Reuters. No Claim to Orig. U.S. Govt. Works.
[13] Thuật ngữ “hộ kinh doanh” chính thức được sử dụng tại các văn bản quy
phạm pháp luật Việt Nam từ năm 2006. Có thể nói, hộ kinh doanh là khái niệm
mang tính đặc thù riêng của Việt Nam.
[14] Tuy vậy, cũng cần lưu ý rằng chỉ những hoạt động liên quan, phụ trợ cho nghề
nghiệp của thương nhân mới có thể xem đó là hoạt động thương mại.
[15] Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005.
[16] Đặc điểm này cho phép loại trừ Văn phòng đại diện, Chi nhánh khỏi khái
niệm thương nhân bởi xét về bản chất chúng chỉ là các đơn vị phụ thuộc của
thương nhân.
[17] Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình pháp luật về
thương mại hàng hóa và dịch vụ, Nxb. Hồng Đức, tr.12.
[18] Theo đó, những người làm công ăn lương như người quản lý điều hành một
chi nhánh hay một cửa hàng thương mại thì không được coi là một thương nhân vì
họ thực hiện những hành vi thương mại vì lợi ích của nhà đầu tư.
[19] Xem thêm: Nghị định số 39/2007/NĐ-CP về hoạt động thương mại một cách
độc lập, thường xuyên.
[20] Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình pháp luật về
thương mại hàng hóa và dịch vụ, Nxb. Hồng Đức, tr.17.
[21] Xem thêm: Nghị định số 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp.
[22] Thương nhân là vấn đề có nhiều quan điểm khác nhau khi được đề cập, như
thương nhân có phải là doanh nghiệp, doanh nghiệp có phải là thương nhân hoặc
đăng ký thương nhân ở đâu, thành lập thương nhân như thế nào? Hoặc về mặt pháp
lý đã thừa nhận thương nhân trong văn bản luật mà trong thực tế lại là một cụm từ
khác như doanh nhân, tiểu thương, lái buôn, thương gia, hoặc có nên ban hành một
đạo luật về thương nhân, v.v..
[23] Xem thêm: Điều 75 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[24] Tuy vậy, nếu xét một cách triết tự thì “hộ kinh doanh có phải là thương nhân
hay không cũng là câu hỏi khó trả lời”. Xem thêm: Bùi Xuân Hải, Những hạn chế,
bất cập về đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh và vấn đề hộ kinh doanh chuyển
thành doanh nghiệp, nguồn tại
f2c9-41ae-8240-8b3e75ec2a53. Truy cập: 20/7/2020.
[25] Điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp.
[26] Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình pháp luật về
thương mại hàng hóa và dịch vụ, Nxb. Hồng Đức, tr. 22.
[27] Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), sđd, Tập I, Nxb. Công an nhân dân,
tr.59.
[28] Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình pháp luật về thương
mại hàng hóa và dịch vụ, Nxb. Hồng Đức, tr. 23.
[29] Khoản 1 Điều 16 Luật Thương mại năm 2005.
[30] Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình pháp luật về
thương mại hàng hóa và dịch vụ, Nxb. Hồng Đức, tr.29.
Bạn đang xem tài liệu "Thương nhân theo luật thương mại Việt Nam (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- thuong_nhan_theo_luat_thuong_mai_viet_nam_phan_2.pdf