Định kiến hành chính trong luật hình sự Việt Nam

NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
ĐỊNH KIẾN HÀNH CHÍNH TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM  
Nguyễn Cảnh Hợp*  
*PGS. TS. Giảng viên cao cấp Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh  
Thông tin bài viết:  
Tóm tắt:  
Từ khóa: Định kiến hành chính,  
luật hình sự, tái phạm, tội phạm.  
Định kiến hành chính là một vấn đề lớn trong thực tiễn lập pháp cũng  
như trong khoa học pháp lý nước ngoài. Tuy nhiên, trong khoa học pháp  
lý Việt Nam vẫn chưa có một nghiên cứu chuyên sâu nào về vấn đề này.  
Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích những vấn đề lý luận và  
thực tiễn về áp dụng định kiến hành chính trong luật hình sự ở một số  
nước và Việt Nam.  
Lịch sử bài viết:  
Nhận bài  
Biên tập  
Duyệt bài  
: 24/6/2021  
: 13/7/2021  
: 16/7/2021  
Article Infomation:  
Abstract:  
Keywords: Prejudice; crimimal  
law; recidivism, crimes.  
Prejudice is a major issue in legislative practice as well as in foreign  
legal science. However, in Vietnamese legal science, there has not been  
any in-depth research on this issue. Within the scope of this article, the  
author provides an analysis of theoretical and practical issues on the  
application of administrative prejudice in criminal law in some countries  
and Vietnam.  
Article History:  
Received  
Edited  
: 24 Jun 2021  
: 13 Jul. 2021  
: 16 Jul. 2021  
Approved  
1. Khái niệm  
là định kiến pháp lý hoặc thiên kiến pháp lý  
với nghĩa là mặc định, tiên quyết mà không  
hàm ý thiên lệch, thiếu khách quan.  
1.1. Định kiến pháp lý (Prejudice)  
Prejudice trong tiếng Anh1 là một thuật  
ngữ có nguồn gốc La-tinh - praejudicialis -  
có nghĩa là “thuộc về những gì đã được công  
nhận bởi tòa án”2, dùng để diễn đạt một  
nguyên tắc trong luật La Mã3. Đây là thuật  
ngữ được sử dụng rất phổ biến trong luật  
thực định và khoa học pháp lý các nước với  
gốc La-tinh mà không dịch sang ngôn ngữ  
bản địa. Khoa học pháp lý của nước ta chưa  
sử dụng thuật ngữ nào tương tự prejudice.  
Thuật ngữ này có thể dịch sang tiếng Việt  
Theo các học giả người Nga Khuđianôv  
E.A. và Kôphanôv L.L, trong luật La Mã,  
“thuật ngữ “praejudicium” được hiểu là  
không cần phải chứng minh lại những  
tình tiết hay sự kiện đã được xác định bởi  
một phán quyết của tòa án đã có hiệu lực  
pháp luật và được coi là phù hợp với sự  
thật khách quan (res judicata pro veritate  
habetur) khi tòa án xem xét một vụ án  
khác”4. Prejudice được coi là một nguyên  
1 Trong tiếng Pháp là préjudice, tiếng Nga là преюдиция (phiên âm là prê- u-đi-sia).  
2 Đvôretsky Y. X., Từ điển Nga - Latinh (xuất bản lần thứ hai có bổ sung), Nxb. Tiếng Nga, M. 1976, tr.796.  
3 Kritskaia S.U., Định kiến pháp lý như một công cụ trong hoạt động xét xử, (С. Ю. Крицкая: Преюдиция как  
правовое средство судебной деятельности,file:///C:/Users/Canh%20Hop/Downloads/preyuditsiya-kak-  
pravovoe-sredstvo-sudebnoy-deyatelnosti.pdf).  
4
Dẫn theo Kritskaia S.U., Định kiến pháp lý như một công cụ trong hoạt động xét xử (Tiếng Nga: С. Ю.  
Крицкая: Преюдиция как правовое средство судебной деятельности, file:///C:/Users/Canh%20Hop/  
Downloads/preyuditsiya-kak-pravovoe-sredstvo-sudebnoy-deyatelnosti.pdf).  
8
Số 16(440) - T8/2021  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
tắc của pháp luật tố tụng. Nguyên tắc này  
cũng đã được quy định trong pháp luật  
Việt Nam, tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân  
sự (TTDS) năm 2005 và Điều 79 Luật Tố  
tụng hành chính (TTHC) năm 2015 với  
nội dung gần như giống nhau dưới tên gọi  
“những tình tiết, sự kiện không phải chứng  
minh”. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự  
(TTHS) năm 2015 không quy định nguyên  
tắc này5.  
Trong pháp luật tố tụng, việc sử dụng  
những tình tiết đã được tòa án thừa nhận  
là rất cần thiết, nó khẳng định tính xác  
thực của chúng và tính công minh của  
của tòa án, không chỉ giúp tòa án tránh  
Điều 92 Bộ luật TTDS năm 2015. Những  
tình tiết, sự kiện không phải chứng minh  
1. Những tình tiết, sự kiện sau đây không  
phải chứng minh:  
Điều 79 Luật TTHC năm 2015. Những  
tình tiết, sự kiện không phải chứng minh  
1. Những tình tiết, sự kiện sau đây không  
phải chứng minh:  
a) Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi  
a) Những tình tiết, sự kiện rõ ràng  
người đều biết và được Tòa án thừa nhận; mà mọi người đều biết và được Tòa án  
b) Những tình tiết, sự kiện đã được xác thừa nhận;  
định trong bản án, quyết định của Tòa án đã  
b) Những tình tiết, sự kiện đã được xác  
có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ định trong bản án, quyết định của Tòa án đã  
quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực có hiệu lực pháp luật;  
pháp luật;  
c) Những tình tiết, sự kiện đã được ghi  
c) Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong trong văn bản và được công chứng, chứng  
văn bản và được công chứng, chứng thực thực hợp pháp; trường hợp có nghi ngờ về  
hợp pháp; trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ tính xác thực của tình tiết, sự kiện trong  
tính khách quan của những tình tiết, sự kiện văn bản này thì Thẩm phán có thể yêu cầu  
này hoặc tính khách quan của văn bản công cơ quan, tổ chức, cá nhân đã cung cấp,  
chứng, chứng thực thì Thẩm phán có thể yêu giao nộp văn bản xuất trình văn bản gốc,  
cầu đương sự, cơ quan, tổ chức công chứng, bản chính.  
chứng thực xuất trình bản gốc, bản chính.  
2. Một bên đương sự thừa nhận hoặc  
2. Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài  
không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản mà bên đương sự kia đưa ra  
liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên thì bên đương sự đưa ra tình tiết, sự kiện,  
môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên tài liệu, văn bản đó không phải chứng  
đương sự đó không phải chứng minh.  
minh. Đương sự có người đại diện tham gia  
3. Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận hoặc không phản  
tố tụng thì sự thừa nhận của người đại diện đối của người đại diện được coi là sự thừa  
được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu nhận của đương sự nếu không vượt quá  
không vượt quá phạm vi đại diện.  
phạm vi đại diện.  
5 Điều 90 Bộ luật TTHS hiện hành của Nga quy định “Преюдиция - định kiến pháp lý có nội dung tương tự:  
Những tình tiết đã được xác định bởi một bản án đã có hiệu lực pháp luật (trừ bản án được ban hành theo  
Điều 226.9, Điều 316 hoặc Điều 317.7 của Bộ luật này) hoặc các quyết định khác đã có hiệu lực pháp luật  
của Tòa án khi giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng dân sự, tố tụng trọng tài hay tố tụng hành chính thì được  
tòa án, viện kiểm sát, điều tra viên và trinh tra viên thừa nhận mà không cần phải kiểm tra lại. Tuy nhiên, các  
bản án hay quyết định nói trên không có giá trị tiên quyết khi xác định lỗi của những người không tham gia tố  
tụng trong vụ án đã được giải quyết trước đó”.  
Số 16(440) - T8/2021  
9
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
lặp lại các thủ tục tố tụng không cần  
thiết, tiết kiệm thời gian, chi phí mà quan  
trọng hơn là “bảo đảm sự ổn định, tính  
thống nhất trong các quyết định của các  
tòa án, loại trừ khả năng xung đột giữa  
các quyết định của các tòa án với nhau,  
bảo đảm nguyên tắc nhất quán pháp lý  
trong hoạt động tố tụng”6.  
Như vậy, định kiến hành chính là khái  
niệm mô tả các cấu thành tội phạm, trong  
đó quyết định xử phạt hành chính là dấu  
hiệu bắt buộc, có tính tiên quyết đối với  
tòa án khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối  
với chủ thể tái phạm vi phạm hành chính  
(VPHC). Gọi là định kiến hành chính vì  
VPHC đã bị xử phạt là tình tiết đã được cơ  
quan nhà nước có thẩm quyền công nhận, là  
dấu hiệu tiên quyết của tội phạm trong các  
trường hợp chủ thể tiếp tục thực hiện một  
hành vi VPHC tương tự.  
Tuy chủ yếu được coi là nguyên tắc của  
pháp luật tố tụng, nhưng định kiến pháp lý  
cũng được áp dụng cho cả luật nội dung vì  
trong luật nội dung cũng có những tình tiết,  
sự kiện đã được công nhận bởi một phán  
quyết của tòa án hay của một cơ quan nhà  
nước có thẩm quyền thì tòa án buộc phải  
thừa nhận7.  
Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình  
sự Nga, học giả Yamasheva E.V định nghĩa:  
“Định kiến hành chính trong luật hình sự  
là việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối  
với một chủ thể đã bị xử phạt vi phạm  
hành chính nhưng lại thực hiện hành vi vi  
phạm này trong một khoảng thời gian nhất  
định”8. Học giả Khomenko A.N cũng định  
nghĩa tương tự: “Định kiến hành chính  
trong luật hình sự được hiểu là việc truy  
cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với  
người đã bị xử phạt VPHC một hoặc hai  
lần mà trong một thời gian nhất định lại  
thực hiện một hành vi tương tự”9. Theo  
học giả Kuznhesova N.Ph, “khi BLHS quy  
định TNHS đối với những người thực hiện  
1.2. Định kiến hành chính trong luật  
hình sự  
Định kiến pháp lý áp dụng vào pháp luật  
hình sự được gọi là định kiến pháp lý hành  
chính (administrative prejudice). Trong Bộ  
luật Hình sự (BLHS) Việt Nam định kiến  
hành chính thể hiện qua các cấu thành tội  
phạm được xây dựng theo theo công thức  
“Người nào thực hiện hành vi vi phạm... đã  
bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ  
luật mà còn vi phạm...”.  
6 Bespalov U. F., Bình luận Bộ luật tố tụng hành chính liên bang Nga, M., Nxb. Prospekt, 2016, tr.168 (Tiếng  
Nga).  
7 Eriemkina А.Р., Định kiến pháp lý trong Luật hình sự Xô-viết, luận án tiến sĩ luật học, M.,1970, tr.8 (Tiếng  
Nga: Epемкина А.П, Преюдиция в Советском уголовном процессе, Автореф.дис.канд.юрид.наук, М,С.8,  
(Dẫn theo Boócđanôv A.V., Định kiến hành chính trong Luật hình sự Nga (2019), Luận án tiến sĩ luật học,  
Học viện quản lý Bộ Nội vụ Liên bang Nga (tức Bộ Công an - TG), Tr. 89-90,Tiếng Nga: Богданов Алексей  
Викторович, Административная преюдиция в уголовном праве, Академия управления министерства  
внутренних дел Российской федерации) .  
8 Yamasheva E.V., Về vấn đề phục hồi định kiến hành chính trong Bộ luật hình sự Nga//T/c Pháp luật Nga, 2009,  
Số 10, tr.69-70. (Tiếng Nga: Ямащева Е.В.К вопросу о восстановлении административной преюдиции в  
уголовном праве России. Российское право.2009.№10.С.69-70).  
9
Homenco A.N. Những vấn đề về sử dụng tiên quyết hành chính trong luật hình sự. Bản tin của Học viện  
pháp lý Ômxcơ, Liên bang Nga, 2017, Tập 14 số 1 (Tiếng Nga: Хоменко Анатолий Николаевич Проблемы  
использования административной преюдиции в уголовном праве, Вестник Омской юридической  
академии. 2017. Том 14. № 1 an.homenko65@mail.ru),file://C:/Users/Canh%20Hop/Downloads/problemy-  
ispolzovaniya-administrativnoy-preyuditsii-v-ugolovnom-prave.pdf an.homenko65@mail.ru Ул. 24-я).  
10  
Số 16(440) - T8/2021  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
hành vi VPHC mà trước đó đã bị xử phạt  
hành chính về hành vi này thì được gọi là  
định kiến hành chính”10. Các định nghĩa  
nêu trên cho thấy, thực chất của định kiến  
hành chính là quy kết trách nhiệm hình sự  
cho các chủ thể vi phạm hành chính trong  
trường hợp họ tái phạm. Như vậy, có thể nói  
rằng, định kiến hành chính trong luật hình  
sự có tính chất phái sinh từ luật hành chính,  
tức lấy quy phạm pháp luật hành chính làm  
điều kiện tiên quyết khi xây dựng cấu thành  
tội phạm, nhưng việc truy cứu TNHS phải  
căn cứ vào quy phạm của luật hình sự. Do  
vậy, định kiến hành chính trong luật hình sự  
có sự kết hợp giữa quy phạm luật hình sự  
với quy phạm luật hành chính11.  
cứu trách nhiệm hình sự. Lý do chính là do  
các nước Tây Âu “đặc biệt coi trọng nguyên  
tắc không phải chịu trách nhiệm hình sự và  
hình phạt nếu luật không quy định”12. Theo  
luật hình sự các nước Tây Âu, “không tồn  
tại tiêu chí phân biệt có hay không tính nguy  
hiểm cho xã hội trong các hành vi mà chủ  
yếu phân biệt qua chế tài”13. BLHS ở các  
nước Tây Âu vừa quy định tội phạm vừa  
quy định phạm pháp hình sự hay tội vi cảnh  
(уголовный проступок//violatin). Đó là  
các hành vi như: trộm cắp vặt, gây thương  
tích nhẹ, vu khống, điều khiển phương tiện  
giao thông trong tình trạng say rượu, đưa  
tin thất thiệt về một mối nguy hiểm không  
có thật, chửi bới thô tục nơi cộng cộng,  
xúc phạm linh mục, khỏa thân nơi công  
cộng,...14. Chẳng hạn, Quyển 3 BLHS Tây  
Ban Nha năm 1996 với tên gọi: “Vi phạm  
và hình phạt” (không gọi là tội phạm và  
hình phạt), trong đó quy định những “vi  
phạm hình sự” với chế tài xử phạt rất nhẹ  
tương tự xử phạt VPHC ở Việt Nam (khác  
với tội phạm trong Quyển 1 và Quyển 2).  
Chẳng hạn, Điều 617 BLHS này quy định  
2. Định kiến hành chính trong luật hình  
sự một số nước  
Trước đây, định kiến hành chính được  
áp dụng trong luật hình sự các nước thuộc  
hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN), còn  
các nước khác dù theo hệ thống thông luật  
Anh - Mỹ hay châu Âu lục địa đều không sử  
dụng mô thức định kiến hành chính để truy  
10 Kuznhesova N.Ph. Những con đường nhân đạo hóa luật hình sự Nga, Tạp chí Pháp luật, 2012, số 7, tr.51-59;  
Malkov V.P. Định kiến hành chính và định kiến kỷ luật - những công cụ phi hình hóa và hình sự hóa trong  
luật hình sự, Tạp chí Những lỗ hổng trong pháp luật Nga, 2008, số 2, tr.195-198 (Tiếng Nga: Малков В.Ф.  
Административная и дисциплинарная преюдиция как срествамдескриминализации и криминализации  
в уголовном праве.//Пробелы в россиском законодательстве.2008.№2.с.195-198).  
11 Kovalev M.Y., Tội phạm và vi phạm: Vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tăng cường trật tự pháp  
luật và đấu tranh chống vi phạm pháp luật, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, TP. Sverlovsk,1982, tr.11-12;  
Zuev V.L. Những đặc điểm về chứng minh đối với các tội có cấu thành thiên kiến hành chính, M. 1995, tr.86;  
Miamkhiagov Z.Z. Về vấn đề sử dụng thiên kiến hành chính trong luật hình sự, luật hành chính và luật tố tụng,  
2015, Số 8, tr.100-102; Về quan điểm ngược lại xem: Ustinova T.Đ., Vấn đề mở rộng trách nhiệm hình sự đối  
với tội kinh doanh trái phép, Tạp chí Pháp luật Nga, 2003, Số 5, tr.103 (Dẫn theo Boócđanôv A.V., Định kiến  
hành chính trong Luật hình sự Nga (2019), tlđd, tr.89-90).  
12 Phạm Thị Thảo, Tìm hiểu pháp luật hình sự của Cộng hòa Pháp, Tạp chí Luật sư Việt Nam, https://lsvn.vn/  
tim-hieu-phap-luat-hinh-su-cua-cong-hoa-phap.html, 22/6/2021.  
13 Antonov V.Y. và Avanov E.B., Định kiến hành chính trong luật hình sự nước ngoài: Lịch sử và thực tại, Bản  
tin Trường đại học Udmursk, 2019, Số 5 (Tiếng Nga: В.И.Антонов và Е. В. Антонов: Административная  
преюдиция в зарубежном уголовном законодательстве : история и современность, Вестник удмуртского  
университета, 2019. Т. 29, вып. 5, (Dẫn theo Boócđanôv A.V., Định kiến hành chính trong Luật hình sự Nga  
(2019), tlđd, tr.56).  
14 В.И.Антонов và Е. В. Антонов, tlđd.  
Số 16(440) - T8/2021  
11  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
về hành vi gây thương tích với hình thức  
phạt giam từ 3 đến 6 ngày nghỉ, hoặc phạt  
tiền từ 1 đến 2 tháng lương15. Nhiều hành  
vi vi phạm pháp luật (VPPL) được gọi là  
phạm pháp hình sự, không hoàn toàn thuộc  
thẩm quyền xử phạt của Tòa án cũng như  
theo thủ tục tố tụng mà do cơ quan hành  
pháp, chủ yếu là cảnh sát xử phạt. Theo Tòa  
án nhân quyền châu Âu, tất cả những hành  
vi như vậy đều thuộc phạm vi “luật hình sự  
theo nghĩa rộng”16. Với quan niệm như vậy,  
nên pháp luật hình sự châu Âu không cần  
phải áp dụng định kiến pháp lý hành chính.  
Sau khi Liên Xô tan rã, Liên bang Nga  
bắt đầu quá trình hội nhập nên BLHS Nga  
năm 1996 đã bỏ định kiến hành chính. Tuy  
nhiên, năm 2009, định kiến hành chính  
được khôi phục lại trong BLHS Nga sau  
một quá trình tranh luận lâu dài.  
Khác với Liên bang Nga, các nước hậu  
XHCN ở Đông Âu và nhiều nước thuộc  
Liên Xô cũ đã lần lượt bỏ định kiến hành  
chính trong BLHS. Gần đây nhất, 5 nước  
thuộc Liên Xô cũ bỏ định kiến hành chính  
là Uzbekistan, Turmenistan, Tadjikistan,  
Gruzia, Kirghistan. Hiện nay, định kiến  
hành chính chỉ áp dụng trong BLHS Nga và  
BLHS của Belarus 1999.  
Pháp luật các nước XHCN trước đây  
được xây dựng theo học thuyết pháp lý Xô  
Viết. Tội phạm và VPHC được phân biệt  
theo tiêu chí rất trừu tượng là tính nguy  
hiểm cho xã hội: tội phạm là hành vi nguy  
hiểm cho xã hội, còn VPHC là hành vi có  
tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng  
kể, tách biệt với pháp luật hình sự.  
Từ thời Liên Xô cũng như hiện nay, có  
các luồng quan điểm khác nhau xung quanh  
định kiến hành chính trong luật hình sự,  
được thể hiện trong hàng trăm công trình  
nghiên cứu về vấn đề này17.  
15 Pavlova L.O., Vi phạm hình sự - triển vọng của sự phân hóa trách nhiệm hình sự, NauchnưiAlmanakh, 2017,  
Số 2, tr.360-363 (Tiếng Nga: Павлов Л.О. Уголовный проступок как перспектива углубления диференции  
уголовной ответственности.Науный альманах.2017.№2.с.360-363); Gavrilov B.A. Vi phạm hình sự trong  
cấu trúc của pháp luật hình sự: quan điểm khoa học và thực tiễn (Tiếng Nga: Гаврилов Б.А. Уголовный  
проступок в структуре уголовного законадательства: мнения ученого и практика.Мир юридической  
науки.2017.№4 C.27-31); và nhiều tác giả khác (Dẫn theo Boócđanôv A.V.: Định kiến hành chính trong Luật  
Hình sự Nga (2019), tlđd, tr.78).  
16 Agheev A.A. Về sự cần thiết tiếp nhận khái niệm vi phạm hình sự, Nauchny Almakh, 2015.№3.tr.126-129  
(Tiếng Nga: Агеева А.А., Об необходимости введения пониятия уголовный прступок.Человек-  
преступление и наказание.Научный альманах.2015.№3.с.126-129; Gavrilov B.Ia., Vi phạm hình sự  
trong cấu trúc pháp luật hình sự: quan điểm khoa học và thực tiễn (Tiếng Nga: Гаврилов Б. Я. Уголовный  
проступок в структуре уголовного. законодательства: мнение ученого и практика / Б. Я. Гаврилов //  
Мир. Юридической науки. - 2017. - No 4. - С. 27-31).  
17 Chẳng hạn: Kriskaia S.U., Định kiến pháp lý trong luật Nga và Luật La Mã (С. Ю. Крицкая, Преюдиция  
sudebnoy-deyatelnosti/viewer); Boócđanôv A.V.: Định kiến hành chính trong Luật Hình sự Nga (2019),  
Luận án tiến sĩ luật học, Học viện quản lý Bộ Nội vụ Liên bang Nga (tức Bộ Công an, tlđd); Bobrovich  
P.P. Administrative prejudice in criminal law // Criminalists library. 2013. № 2 (Бобрович П.П.  
Административная преюдиция в уголовном праве // Библиотека криминалиста. 2013. № 2; Lopashenko  
N.А. Administrative prejudice in criminal law – No! // Bull. of Academy of the Prosecutor Generals Office  
of the Russian Federation. 2011. № 3 (Лопашенко Н.А. Административной преюдиции в уголовном  
праве – нет! // Вестн. Акад. Генеральной прокуратуры РФ. 2011 №3); Kibalnik А.G. Inadmissibility  
of administrative prejudice in criminal legislation // Criminalists library. 2013. № 2 (Кибальник  
А.Г. Недопустимость административной преюдиции в уголовном законодательстве // Библиотека  
криминалиста. 2013. № 2.); Yunusov А.А., Serkova Т.V. Administrative prejudice in Russian criminal law  
12  
Số 16(440) - T8/2021  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
Có rất nhiều câu hỏi đặt ra dẫn đến các  
quan điểm khác nhau về vấn đề này: định  
kiến hành chính có phù hợp với bản chất  
của tội phạm tức tính chất nguy hiểm cho  
xã hội hay không? Hành vi nào là hành vi  
cấu thành tội phạm trong khi các hành vi  
đều là vi phạm hành chính? Nhân thân của  
chủ thể tái phạm VPHC có thể coi là cơ  
sở để xác định tính nguy hiểm cho xã hội  
của tội phạm hay không? Định kiến hành  
chính có xâm phạm nguyên tắc nhân đạo,  
nguyên tắc bình đẳng và nguyên tắc pháp  
chế của luật hình sự hay không? Xung  
quanh những câu hỏi này có các loại quan  
điểm chủ yếu sau đây18:  
có tính chất nguy hiểm cho xã hội không  
đáng kể. Đây là căn cứ quan trọng nhất  
để phân biệt tội phạm với VPHC. Tính  
chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm  
thể hiện trước hết qua hành vi phạm tội,  
khách thể mà hành vi xâm phạm, hậu  
quả của hành vi, lỗi, sau đó là động cơ,  
mục đích, các tình tiết tăng nặng, giảm  
nhẹ. Ngược lại, các hành vi VPHC với  
tính chất nguy hiểm cho xã hội không  
đáng kể cũng không thể tự nhiên chuyển  
hóa thành hành vi có tính nguy hiểm  
cho xã hội như tội phạm được. Trong  
cấu thành tội phạm dạng định kiến hành  
chính không có hành vi phạm tội nguy  
hiểm cho xã hội mà chỉ gồm các hành vi  
VPHC, là phép cộng của hai hay nhiều  
hành vi VPHC19. Kuznhesova N.Ph. cho  
rằng, nó giống như câu ngạn ngữ của  
Nga: “một trăm con mèo không thể mặc  
nhiên trở thành con hổ”. Đồng nhất tính  
nguy hiểm cho xã hội của nhiều hành vi  
VPHC qua một phép cộng là trái với bản  
chất của tội phạm20.  
- Quan điểm thứ nhất: Phản đối việc  
áp dụng định kiến hành chính trong luật  
hình sự vì trái với lý luận về tội phạm, xét  
cả về bản chất, hành vi khách quan và cả  
các yếu tố chủ quan của tội phạm.  
Thứ nhất, liên quan đến tính chất  
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm: Xét  
về bản chất, tội phạm là hành vi nguy  
hiểm cho xã hội, còn VPHC là hành vi  
// Actual problems of economics and law. 2015. № 1 (Юнусов А.А., Серкова Т.В. Административная  
преюдиция в российском уголовном праве // Актуальные проблемы экономики и права. 2015. №1);  
Khudyakov Е.А. Effectiveness of using of norms with administrative prejudice. Moscow, 1981 (Худяков  
Е.А. Эффективность применения норм с административной преюдицией. М., 1981); Ovechkina Е.V.  
Administrative prejudice as a mean of criminalization and decriminalization in Russian criminal law //  
Statute and law. 2009. № 5 (Овечкина Е.В. Административная преюдиция как средство криминализации  
и декриминализации в уголовном праве России // Закон и право. 2009. № 5); Malkov V.P. Administrative  
prejudice:proandcontra//Bull.ofAcademyoftheProsecutorGeneralsOfficeoftheRussianFederation.2011.  
№ 3 (Малков В.П. Административная преюдиция: за и против // Вестн. Акад. Генеральнойпрокуратуры  
РФ. 2011. № 3.); Kuznetsova N.F. Seven years of Russian Criminal code // Bull. of Moscow university.  
Ser. 11: Law. 2003. № 1 (Кузнецова Н.Ф. Семь лет Уголовному кодексу Российской Федерации //  
Вестн. Моск. ун-та. Сер. 11: Право. 2003. № 1.); Goloviznina I.А. The problem is the ambiguity of  
the term «repeated» contained in art. 180 of Criminal code of the Russian Federation, and the ways of its  
overcoming // Russian investigator. 2006. № 11 (Головизнина И.А. Проблема двусмысленности термина  
«неоднократность», содержащегося в ст. 180 УК РФ, и пути ее преодоления // Рос. следователь. 2006.  
№ 11.); và nhiều công trình nghiên cứu chuyên khảo khác.  
18 Tổng hợp theo Boócđanôv A.V., Định kiến hành chính trong Luật Hình sự Nga (2019), tlđd.  
19 Kyznhesova N.Ph., Mục đích và cơ chế cải cách Bô luật hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật Xô viết,  
1992, số 6, tr. 83, (Tiếng Nga: Кузнецова Н.Ф. Цели и механизм реформы Уголовного кодекса , Советское  
государство и право. 1992. № 6. С. 83).  
20 Kyznhesova N.Ph., Mục đích và cơ chế cải cách Bô luật hình sự, tlđd.  
Số 16(440) - T8/2021  
13  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
Thứ hai, những người theo quan điểm  
này cho rằng nhân thân của chủ thể VPHC  
trong trường hợp tái phạm không thể coi  
là căn cứ để xác định tính nguy hiểm cho  
xã hội của hành vi mà chỉ là căn cứ khi  
quyết định xử phạt VPHC. Thực chất  
đây là truy cứu TNHS các chủ thể VPHC  
trong trường hợp có tình tiết tăng nặng là  
tái phạm.  
Những người ủng hộ quan điểm này cho  
rằng, khách thể của VPHC và tội phạm trong  
rất nhiều trường hợp là giống nhau. Nếu tái  
phạm vi phạm hành chính tức là xâm phạm  
khách thể ở mức độ nghiêm trọng hơn nên  
có tính nguy hiểm cao hơn. Tuy nhiên, câu  
hỏi đặt ra ở đây là, tại sao nhiều VPHC khác  
cũng có trường hợp tái phạm nhưng không  
quy kết trách nhiệm hành chính theo khách  
thể? Liệu đây có phải là sự lựa chọn cảm  
tính hay không?  
Thứ ba, khi truy cứu TNHS các tội có  
dấu hiệu định kiến hành chính thì có rất  
nhiều quy định của BLHS về tội phạm và  
về TNHS không áp dụng được vì không  
phù hợp.  
Bên cạnh đó, những người ủng hộ quan  
điểm này còn cho rằng, tính nguy hiểm cho  
xã hội là một hệ thống gồm nhiều yếu tố  
hợp thành, không chỉ có hành vi phạm tội  
mà còn gồm các yếu tố về nhân thân người  
vi phạm21.  
Thứ tư, định kiến hành chính đã xâm  
phạm các nguyên tắc cơ bản của luật hình  
sự, bao gồm nguyên tắc công bằng, nhân  
đạo và pháp chế. Không công bằng ở chỗ  
thay vì chủ thể vi phạm chỉ bị xử phạt VPHC  
với tình tiết tăng nặng như mọi trường hợp  
tái phạm thì lại bị truy cứu trách nhiệm hình  
sự. Không nhân đạo là vì hình phạt họ phải  
chịu là không tương xứng với tính chất  
nguy hiểm do hành vi VPHC của họ gây ra,  
nhất là hình phạt tù. Còn vi phạm nguyên  
tắc pháp chế thể hiện ở chỗ, truy cứu TNHS  
đối với hành vi VPHC, tức là lấy cơ sở pháp  
lý này áp dụng cho hành vi không tồn tại  
trong luật hình sự.  
Có thể nói quan điểm của những người  
ủng hộ định kiến hành chính dựa vào nhân  
thân là thiếu thuyết phục ở chỗ: nhân thân  
người VPHC trong trường hợp tái phạm  
chỉ là căn cứ để quyết định xử phạt VPHC.  
Những dấu hiệu khác về mặt chủ quan như  
lỗi, mục đích, động cơ... cũng chủ yếu ảnh  
hưởng đến mức phạt.  
- Quan điểm thứ ba: Căn cứ vào yêu  
cầu của thực tiễn thể hiện trong chính  
sách hình sự của Nhà nước.  
Quan điểm này không quá coi trọng  
vấn đề cơ sở lý luận mà chủ yếu dựa vào  
đòi hỏi của thực tiễn. Nó thể hiện rõ khi  
BLHS Nga 1996 khôi phục chế định này  
vào năm 2009. Trong Thông điệp đọc  
trước hai viện của Duma quốc gia Nga  
tháng 2/2009, cũng như tại phiên họp  
của Hội đồng Nhà nước Liên bang Nga22,  
Tổng thống Nga Putin đã khẳng định sự  
Tựu chung, quan điểm này cho rằng,  
thực chất định kiến hành chính là hình sự  
hóa các hành vi VPHC, đi ngược lại xu thế  
nhân đạo hóa và phi hình sự hóa trong thời  
đại ngày nay.  
- Quan điểm thứ hai: Ủng hộ định kiến  
hành chính trong luật hình sự.  
21 Liapunov U.Y.: Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm - một phạm trù phức hợp của Luật hình sự Xô-viết (Sách chuyên  
khảo), Đại học Nội vụ (tức Đại học cảnh sát) thuộc Bộ Nội vụ (tức Bộ công an) Liên Xô, 1989, tr. 21, (Tiếng Nga).  
22 Hội đồng Nhà nước Liên bang Nga (Tiếng Nga: Государственный совет Российской Федерации) là cơ  
quan tư vấn cho Tổng thống Nga về các vấn đề quan trọng của Liên bang Nga. Hội đồng được thành lập theo  
sắc lệnh của Tổng thống Putin ngày 01/9/2000.  
14  
Số 16(440) - T8/2021  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
cần thiết phải áp dụng trở lại định kiến  
hành chính trong luật hình sự vì nó thực  
sự cần thiết và hiệu quả: “Luật hình sự  
cần phải áp dụng rộng rãi hơn định kiến  
hành chính, tức truy cứu trách nhiệm  
hình sự những kẻ đã nhiều lần vi phạm  
hành chính”, rằng “việc từ chối chế định  
này trong Bộ luật hình sự năm 1996 chỉ  
là dựa trên những căn cứ mơ hồ về mặt  
lý luận”23. Cuối cùng lập trường áp dụng  
trở lại định kiến hành chính đã được thể  
hiện rành mạch trong “Chiến lược đấu  
tranh phòng, chống tội phạm ma túy đến  
năm 2020” được Tổng thống Nga Putin  
ký ban hành bằng Sắc lệnh số 690 ngày  
09/6/200924. Mặc dù vậy, BLHS Nga sau  
khi sửa đổi, bổ sung năm 2009, định kiến  
hành chính cũng chỉ được quy định trong  
12/257 điều của Phần riêng, không bao  
trùm nhiều chương như BLHS Việt Nam.  
pháp hình sự” vào BLHS, bổ sung khái  
niệm phạm pháp hình sự bên cạnh tội phạm  
nhưng làm sao bảo đảm hài hòa giữa sự  
nghiêm khắc trong trừng trị với tính chất  
nhân đạo, khoan dung, tôn trọng và bảo  
đảm quyền con người của pháp luật hình  
sự, “xử phat hình sự nhiều không chỉ gây  
hậu quả nặng nề cho bản thân người phạm  
tội về mặt xã hội mà còn dẫn đến nhiều hậu  
quả tiêu cực cho người thân của họ”26.  
3. Định kiến hành chính trong luật hình  
sự Việt Nam và một số gợi ý  
3.1. Định kiến hành chính trong luật  
hình sự Việt Nam  
Ở Việt Nam, BLHS năm 2015 đã đươc  
sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm  
2015) có 92 điều quy định với 101 cấu thành  
cụ thể có sử dụng định kiến hành chính, thể  
hiện theo ba dạng sau:  
- Quan điểm thứ tư: Hội nhập với  
thế giới.  
Như vậy, định kiến hành chính trong luật  
hình sự Việt Nam là một loại định kiến pháp  
lý, bao gồm các quy phạm pháp luật của  
BLHS quy định trách nhiệm hình sự của các  
chủ thể vi phạm hành chính và vi phạm kỷ  
luật trong trong trường hợp tái phạm. Bản  
chất của định kiến hành chính trong luật  
hình sự Việt Nam là truy cứu trách nhiệm  
hình sự chủ thể VPHC hoặc vi phạm kỷ  
luật, là một hình thức hình sự hóa các hành  
vi VPHC và vi phạm kỷ luật nhằm đáp ứng  
yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm  
Những người theo quan điểm này cho  
rằng, cần bỏ định kiến hành chính trong  
luật hình sự và đưa vào BLHS các hành vi  
“phạm pháp hình sự” như các nước châu  
Âu để bảo đảm tội phạm hay phạm pháp  
hình sự đều được quy định trong BLHS25.  
Có ý kiến cho rằng, cần xây dựng một học  
thuyết mới về chính sách hình sự ở Nga,  
thay vì áp dụng định kiến hành chính thì  
nên đưa thêm các hành vi gọi là “phạm  
23 URL: http://news.kremlin.ru/transcripts/3149 (дата обращения: 05.11.2013).  
24 Xem Bộ tổng luật Liên bang Nga 2010, № 24, tr.3015 (Собрание законодательства Российской Федерации.  
2010. № 24. Ст. 3015).  
25 Agheeva A.A. Về sự cần thiết tiếp nhận khái niệm vi phạm hình sự, Nauchny Almakh, 2015.№3.tr.126-129.  
(Tiếng Nga: Агеева А.А., Об необходимости введения пониятия уголовный прступок.Человек-  
преступление и наказание.Научный альманах.2015.№3.с.126-129; Gavrilov B.Ia., Vi phạm hình sự trong  
cấu trúc pháp luật hình sự: Quan điểm khoa học và thực tiễn, (Tiếng Nga: Гаврилов, Б. Я. Уголовный  
проступок в структуре уголовного законодательства: мнение ученого и практика / Б. Я. Гаврилов //  
Мир. юридической науки. - 2017. - No 4. - С. 27-31).  
26 Ruzanov N., Hãy bắt đầu từ tờ giấy trắng, (Tiếng Nga: Рузанова Н. Начать с чистого листа. URL: https://  
rg.ru/2016/09/20/vs-rf-ugolovnoe-zakonodatelstvo-stradaet-izlishnejkriminalizaciej.html).  
Số 16(440) - T8/2021  
15  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
“Đã bị xử lý kỷ luật “Đã bị xử “Đã bị xử phạt VPHC mà còn vi phạm”(58 điều với  
hoặc xử phạt VPHC lý kỷ luật 67 điểm)  
mà còn vi phạm”(21 mà còn vi  
điều)  
phạm”(13  
điều)  
159, 163, 164, 165, 205, 223, 173, 174, 175, 178, 181, 182, 183, 185, 186, 188 (2  
167, 177, 199,  
224, 229, điểm), 189, 190, 191, 192, 195, 197, 198, 200 (2 điểm),  
230, 233,  
336, 353,  
354, 355,  
379, 402,  
415.  
219, 220, 221, 222,  
259, 268, 269,  
201, 202, 209, 216, 217a, 225, 226, 227, 228, 232, 234,  
235 (4 điểm), 241, 242, 243, 244, 245, 246, 247, 249,  
250, 252, 253, 266, 286, 287, 293, 296, 297, 317 (5  
điểm), 320, 321, 322, 326, 332, 340, 343, 345, 346,  
380.  
270, 271, 274, 275,  
276, 278, 388.  
và vi phạm pháp luật. Định kiến hành chính  
trong luật hình sự Việt Nam là định kiến  
hỗn hợp hành chính- kỷ luật27, thể hiện bằng  
nhiều cấu thành tội phạm, với cấu trúc “đã  
bị xử phạt VPHC (hoặc vi phạm kỷ luật) mà  
còn vi phạm...”.  
bị truy cứu TNHS đến lợi ích của xã hội. Vì  
vậy, chúng ta cần nghiên cứu thêm cơ sở lý  
luận cho vấn đề này.  
Thứ hai, để có cơ sở thực tiễn xem xét  
loại bỏ bớt hay bổ sung thêm các cấu thành  
tội phạm có dấu hiệu định kiến hành chính,  
cần tiến hành khảo sát, đánh giá cụ thể tình  
hình phạm tội và tình hình xét xử đối với  
loại tội này. Quan trọng nhất, phải làm rõ cơ  
sở thực tiễn về hiệu quả phòng ngừa VPHC  
từ truy cứu TNHS các tội này. Nếu không,  
việc quy định quá nhiều các cấu thành dạng  
định kiến hành chính này chỉ là suy đoán và  
cảm tính. Cần so sánh mức độ hiệu quả giữa  
việc nâng cao mức phạt và xử lý nghiêm  
khắc đối với các VPHC với việc truy cứu  
TNHS theo các tội dạng này.  
Với số lượng 92/318 điều, áp dụng cho  
các tội ở 14/17 chương của Phần các tội  
phạm của BLHS năm 2015, tỷ lệ các điều  
có tính chất định kiến hành chính trong  
BLHS Việt Nam 2015 là khoảng 29% số  
điều quy định về tội phạm28 cho thấy, số  
lượng các tội có cấu thành định kiến hành  
chính trong BLHS Việt Nam là rất lớn  
(định kiến hành chính trong BLHS Nga  
năm 1996 chỉ chiếm 4,6% tổng số điều quy  
định về tội phạm).  
3.2. Một số gợi ý  
Thứ ba, cần nghiên cứu kinh nghiệm  
các nước về áp dụng định kiến hành chính  
trong luật hình sự, bao gồm cả những nước  
bỏ định kiến hành chính trong luật hình sự  
và những nước bỏ rồi áp dụng lại định kiến  
Thứ nhất, trong điều kiện xây dựng Nhà  
nước pháp quyền mà truy cứu TNHS đối  
với người VPHC trong trường hợp tái phạm  
có phù hợp hay không? Câu hỏi này cần  
được nhìn nhận, đánh giá từ góc độ người  
hành chính trong luật hình sự  
27 Một số tác gỉả Nga gọi là định kiến hành chính và định kiến kỷ luật. Chẳng hạn, Malkov V.P., “Định kiến  
hành chính và định kiến kỷ luật - những công cụ phi hình sự hóa và hình sự hóa trong pháp luật hình sự”  
(Tạp chí Những lỗ hổng trong pháp luật Nga, 2008, Số 2, tr.195-198).  
28 Chỉ trừ 3 chương là Chương XIII (các tội xâm phạm anh ninh quốc gia), chương XIV (các tội xâm phạm  
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người) và Chương XXVI (các tội phá hoại hòa bình, chống  
loài người và tội phạm chiến tranh).  
16  
Số 16(440) - T8/2021  
pdf 9 trang Thùy Anh 7280
Bạn đang xem tài liệu "Định kiến hành chính trong luật hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdinh_kien_hanh_chinh_trong_luat_hinh_su_viet_nam.pdf