Thu gom và điều chỉnh đất - Một công cụ hiệu quả để tạo nguồn thu từ đất đai

THU GOM VÀ ĐIỀU CHỈNH ĐẤT - MỘT CÔNG CỤ  
HIỆU QUẢ ĐỂ TẠO NGUỒN THU TỪ ĐẤT ĐAI  
TS. Phạm Lan Hương*  
Trường Đại học Kinh tế quốc dân  
Tóm tắt  
Trong bối cảnh thiếu hụt ngân sách như hiện nay, nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ  
tầng dựa vào ngân sách ngày càng hạn hẹp. Các dự án thu gom và điều chỉnh đất đai đang  
dần trở thành một công cụ phổ biến được ưu chuộng, cung cấp một lượng vốn đáng kể cho  
phát triển cơ sở hạ tầng. Đây là nguồn thu không qua ngân sách mà “chảy” trực tiếp vào dự  
án, kết quả phục vụ cho chính cộng đồng tham gia vào quá trình thu gom và điều chỉnh đất  
đai. Tuy nhiên, nhiều dự án thu gom điều chỉnh đất đai đang gặp những khó khăn vướng mắc  
cả về cơ chế thực hiện lẫn sự đồng thuận của cộng đồng dân cư. Hai tình huống dưới đây  
được nghiên cứu để đưa ra các bài học cho dự án thu gom và điều chỉnh đất đai quy mô nhỏ  
tại các vùng ven đô đang trong quá trình đô thị hoá mạnh mẽ.  
Từ khóa: Thu gom và điều chỉnh đất đai, Dự án phát triển cơ sở hạ tầng, Sự tham  
gia của cộng đồng, Vốn của cộng đồng trong phát triển hạ tầng  
1. Giới thiệu  
Cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác trên thế giới, Việt Nam đang phải  
đối mặt với những thách thức về nhu cầu ngày càng tăng đối với các công trình hạ tầng  
kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu của các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Trong khi đó,  
nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu này xuất phát từ ngân sách nhà nước vẫn còn rất nhiều  
hạn chế. Do sự yếu kém trong công tác quản trị khu vực công đối với các dự án đầu tư hạ  
tầng, nhiều công trình xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng vốn ngân sách lâm vào tình trạng  
trì trệ, chậm tiến độ, thiếu vốn, nợ đọng vốn (Vân Hà, 2016). Trong bối cảnh đó, việc tìm  
kiếm các nguồn vốn ngoài ngân sách để phát triển và cải thiện cơ sở hạ tầng là nhu cầu  
cấp thiết.  
Mặt khác, việc thu hồi đất để đầu tư phát triển hạ tầng ngày càng bộc lộ nhiều vấn  
đề gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi. Theo Báo cáo về Khung quản trị  
Đất đai của Ngân hàng Thế giới (WB, 2013)1, việc thu hồi đất làm nảy sinh rất nhiều mâu  
thuẫn giữa bên thu hồi đất và người bị thu hồi và việc đưa ra các giải pháp giải quyết các  
mâu thuẫn này còn rất hạn chế cả về lý thuyết và thực tiễn. Ngân sách nhà nước hạn chế,  
thêm vào đó là những khó khăn trong thu hồi đất, đã và đang đặt ra yêu cầu về những  
phương án tập trung đất đai có sự tham gia và đồng thuận tốt hơn và thu gom và điều  
1
Improving Land Sector Governance in Vietnam: Implementation of Land Governance  
Assessment Framework (LGAF), The World Bank, Hanoi, Vietnam, 2013  
341  
chỉnh đất (TG&ĐCĐ) là phương án có thể giải quyết tốt các vướng mắc này.  
2. Cơ sở lý thuyết về thu gom và điều chỉnh đất  
Thu gom và điều chỉnh đất là quá trình các chủ đất tự nguyện đóng góp một phần  
đất của mình theo tỷ lệ thỏa thuận để xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp với quy hoạch  
chung của Thành phố. Quá trình này cũng đồng thời điều chỉnh lại ranh giới đất và giúp  
các chủ đất tiếp cận cơ sở hạ tầng tốt hơn. (Nguyễn và cộng sự, 2017). Thu gom và điều  
chỉnh đất là phương án thu hồi đất có nhiều điểm ưu việt, nó khác với phương án thu hồi  
đất truyền thống – mang tính chất bắt buộc, khó khăn, tốn kém đã được thực hiện ở nhiều  
ở các nước - ở chỗ nó dựa trên sự đồng thuận và đóng góp của cộng đồng, làm giảm sức  
ép đối với ngân sách nhà nước. Thu gom, sắp xếp và tái điều chỉnh đất đai không chỉ là  
một phương pháp thu hồi đất, mà còn là một công cụ hữu hiệu để khai thác nguồn thu từ  
đất đai, dùng chính nguồn thu đó để tái đầu tư trực tiếp vào phát triển hạ tầng đô thị của  
địa phương. Một điểm đặc biệt khi sử dụng công cụ này là các nguồn thu từ đất sẽ không  
chảy vào ngân sách mà quay lại trực tiếp đầu tư vào hạ tầng địa bàn bị thu hồi đất đó và  
làm giảm áp lực và sự phụ thuộc của ngân sách vào các khoản thu từ đất đai.  
Vmặt pháp lý, chúng ta đã có cơ sở pháp lý để thc hiện cơ chế này. Luật Đất đai  
2013 đã có 2 Điều gồm những quy định có liên quan tới khả năng tạo dựng khung pháp  
luật phù hợp dưới dạng Nghị định của Chính phủ để hướng dẫn vận hành cơ chế Thu gom  
điều chỉnh đất, cụ thể là:  
- Khoản 4 Điều 146 - Đất sử dụng để chỉnh trang, phát triển đô thị và khu dân cư  
nông thôn, quy định về trường hợp cộng đồng dân cư xây dựng, chỉnh trang các công  
trình phục vụ lợi ích chung của cộng đồng:  
4. Cộng đồng dân cư xây dựng, chỉnh trang các công trình phục vụ lợi ích chung  
của cộng đồng bằng nguồn vốn do nhân dân đóng góp hoặc Nhà nước hỗ trợ thì việc tự  
nguyện góp quyền sử dụng đất, bồi thường hoặc hỗ trợ do cộng đồng dân cư và người sử  
dụng đất đó thỏa thuận.  
- Điểm i Khoản 1 Điều 179 - Quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng  
đất, giao quyền cho người sử dụng đất được tự đầu tư trên đất bị thu hồi, hoặc cho nhà  
đầu tư thuê quyền sử dụng đất hoặc góp vốn với dự án đầu tư bằng quyền sử dụng đất:  
Trường hợp đất thuộc diện thu hồi để thực hiện dự án thì có quyền tự đầu tư trên  
đất hoặc cho chủ đầu tư dự án thuê quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất  
với chủ đầu tư dự án để thực hiện dự án theo quy định của Chính phủ”.  
Theo Nguyễn và cộng sự (2017), các đặc điểm cơ bản của dự án Thu gom và điều  
chỉnh đất bao gồm:  
- Tự nguyện: Nhân dân tự nguyện góp đất để xây dựng cơ sở hạ tầng và/hoặc trang  
trải một phần chi phí dự án. Nhà nước hay chủ thể khởi xướng dự án chỉ bồi thường cho  
tài sản trên đất bị ảnh hưởng bởi dự án mà không bồi thường cho những diện tích đất mà  
342  
nhân dân đóng góp theo thỏa thuận.  
- Đúng luật: Ranh giới đất được điều chỉnh cho phù hợp với diện tích đất sau khi  
đóng góp và với quy hoạch cơ sở hạ tầng của khu vực. Việc điều chỉnh này được cơ quản  
quản lý đất đai ghi nhận và thực hiện các biện pháp điều chỉnh, cấp các loại giấy tờ chứng  
nhận đảm bảo pháp lý cho thửa đất sau điều chỉnh.  
- Lợi ích trực tiếp: Đối tượng thụ hưởng lợi ích của công trình hạ tầng trực tiếp là  
người bị thu hồi đất: Hạn chế việc thay đổi chỗ ở của các hộ gia đình. Trong trường hợp  
bắt buộc phải thay đổi, các hộ/cơ quan được bố trí lô đất mới trong khu vực dự án, hoặc  
lô đất thuộc khu vực tái định cư ngoài khu vực dự án với sự đồng ý của chủ hộ.  
- Công bằng hơn trong phân phối lợi ích: Lợi ích của dự án được phân bổ đồng đều  
và rộng hơn so với các dự án nhà nước thu hồi đất do hầu hết các hộ gia đình/chủ đất đều  
ở lại khu vực dự án và được hưởng những cải thiện do dự án mang lại, ví dụ như tiếp cận  
cơ sở hạ tầng tốt hơn. Tránh trường hợp lợi ích của dự án tập trung vào một hoặc một vài  
nhóm đối tượng.  
- Đồng thuận: Thu gom điều chỉnh đất là dự án Nhà nước và nhân dân cùng thực  
hiện. Khi thực hiện có sự tham gia thảo thuận, thoả thuận công khai, trực tiếp của Cộng  
đồng và Nhà nước – đối tượng chủ trì, để cùng xây dựng cơ chế, tham gia với vai trò chủ  
chốt trong toàn bộ quá trình thiết kế và thực hiện dự án. Dự án chỉ được thực hiện khi  
được sự đồng thuận đại đa số những người sống trong cộng đồng.  
Các phương pháp thu gom điều chỉnh đất đai chưa được thực hiện một cách chính  
thức và bài bản tại Việt Nam. Tuy nhiên phát sinh từ nhu cầu thực tế, đã có những dự án  
góp đất, cải tạo, nâng cấp hạ tầng khu dân cư cả ở nông thôn và đô thị trở thành những  
bài học thực tiễn cần nghiên cứu để phổ biến, thể chế hóa thành phương pháp tái thiết đô  
thị hiệu quả. Tuy nhiên, cũng do chưa được công nhận chính thức, việc áp dụng mô hình  
này tại Việt Nam vẫn gặp những khó khăn tồn tại và vướng mắc là hạn chế hiệu quả đạt  
được của mô hình. Việc nghiên cứu các mô hình thu gom, điều chỉnh đất là cần thiết để  
rút những bài học kinh nghiệm cho việc nhân rộng mô hình này ở các địa phương khác.  
3. Nghiên cứu tình huống thu gom và điều chỉnh đất  
- Chương trình phát triển Nông thôn mới tại xã Thanh Văn (Thanh Oai, Hà Nội)  
Thanh Vân là một xã thuần nông nằm ở ngoại ô Hà Nội với 1700 hộ, 6500 dân.  
Ý tưởng dồn điền đổi thửa (một hình thức gom đất – điều chỉnh đất) đã có từ rất lâu nhưng  
lần đầu thực hiện không thành công. Chương trình dồn điền được tái khởi động vào năm  
1997 và thôn cuối cùng của xã hoàn thành việc đó vào năm 2014.  
Sau khi dồn điền, số thửa ruộng trung bình cho mỗi hộ giảm từ khoảng 20-25 thửa  
xuống còn 1-2 thửa. Hệ thống đường xá và thủy lợi được phát triển và tiệm cận tiêu chuẩn  
của NTM. Năng suất nông nghiệp tăng gấp đôi, phần lớn là do áp dụng công nghệ mới,  
343  
có sự hỗ trợ từ việc dồn điền và phát triển hạ tầng.  
Trong quá trình thực hiện công tác dồn điền đổi thửa, nhu cầu về vốn để xây dựng  
hệ thống đường xá và thủy lợi giúp cho những thửa ruộng xấu, khó canh tác, khó đi lại  
phát sinh trong khi đây là một xã nghèo, ngân sách hạn chế. Vậy lấy đâu ra nguồn tài  
chính khi xã trong thời gian này còn rất nghèo. Lãnh đạo xã và người dân đã đồng lòng  
quyết định “bán” đất xen kẹt (đất công, khó canh tác, như là những phần đất thấp, đất xen  
kẽ giữa các khu dân cư, hay khu đất đã từng dùng để làm gạch, trại chăn nuôi… không  
còn sản xuất nông nghiệp thuận lợi nữa). Tổng phần thu từ bán đất xen kẹt này là 97 tỷ  
đồng (hoạt động thu chi công khai, minh bạch, có sự giám sát của cộng đồng dân cư). Sau  
đó, xã đã dùng 65 tỷ cho việc phát triển cơ sở hạ tầng, và 32 tỷ còn lại làm quỹ lương hưu  
cho nông dân. Tuy nhiên, việc bán đất xen kẹt lại vi phạm các quy định pháp luật thời kỳ  
đó, do đó lãnh đạo xã đã phải chịu kỷ luật từ phía thành phố Hà Nội.  
Tình huống này cung cấp những bài học giá trị về việc tạo nguồn thu từ đất đai  
trong quá trình dồn điền và góp đất đai cho phát triển. Nó cũng đặt ra một loạt các vấn đề  
về chính sách liên quan đến các nỗ lực thu gom và điều chỉnh đất.  
- Góp đất để mở rộng đường đi tại Giang Biên (Long Biên, Hà Nội)  
Giang Biên từ một xã nông thôn trở thành một phường của thành phố Hà Nội vào  
năm 2003. Trong quá trình chuyển đổi từ một xã nông thôn lên phường đô thị, việc tái  
thiết kế, tái quy hoạch địa phương trở nên cấp thiết. Mang đặc trưng của lối đi nội bộ của  
một xã nông thông miền Bắc, phần lớn đường đi trong Giang Biên đều rất hẹp (dưới 2m)  
và cần được mở rộng cho ô tô có thể đi lại nhưng vấn đề đặt ra bây giờ là lấy đâu ra nguồn  
lực tài chính để thực hiện việc này.  
Cộng đồng thôn Tình Quang, Giang Biên đã đề xuất mở rộng hai ngõ bằng cách  
thuyết phục các hộ dân góp đất và góp tiền. Một ngõ thực hiện thành công, ngõ còn lại  
không thành công. Ngõ thực hiện thành công có chiều dài 70m được mở rộng từ 1,9m  
thành 2,5m. 34 hộ dân đã tham gia, trong đó 18 hộ có nhà mặt tiền đã góp đất, 14 hộ góp  
tiền, và 2 hộ từ chối đóng góp. Ngõ không mở rộng được có chiều dài 74m đường đi. Chỉ  
một hộ mặt tiền từ chối góp đất, và cả phương án thất bại. Với phương án thành công, thực  
ra số tiền vận động đóng góp được không nhiều (16,2 triệu đồng), chỉ đủ để trải bê thông cho  
ngõ sau khi mở rộng, hỗ trợ 2 hộ dân tham gia góp đất mở rộng ngõ do 1 hộ có hoàn cảnh  
khó khăn và một hộ phải góp diện tích nhiều hơn so với mức trung bình của các hộ dân,  
không có điều kiện chỉnh trang lại cửa ra vào, xây lại tường rào sau khi góp đất. Phần lớn  
nguồn tài chính để thực hiện mở rộng ngõ xóm lại được thể hiện bằng đất – bằng phần diện  
tích đất các hộ đồng lòng hiến cho cộng đồng để mở rộng đường ngõ xóm.  
Trong cả hai tình huống, việc khởi xướng và tiến hành thu gom, điều chỉnh đất  
đai được thực hiện và giám sát hoàn toàn bởi cộng đồng địa phương. Công việc của chính  
quyền chỉ là pháp lý hoá những thông tin thay đổi sau khi thu gom và điều chỉnh đất đai  
344  
của các hộ gia đình. Các tình huống cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn quá trình tham gia của  
các hộ dân trong việc thực hiện thu gom và điều chỉnh đất với các dự án nhỏ trong khu  
vực đô thị. Mặc dù vai trò từ phía chính quyền còn hạn chế, những tình huống này cho  
thấy nhu cầu lớn áp dụng công cụ thu gom và điều chỉnh đất ở quy mô nhỏ dành cho các  
đô thị lớn và đang phát triển tại Việt Nam và hiệu quả của việc huy động các nguồn lực  
từ đất đai trong cộng đồng dân cư trong việc phát triển trực tiếp hạ tầng khu dân cư không  
dựa vào ngân sách nhà nước.  
4. Các bài học đặt ra cho vic sdng công cụ thu gom và điều chỉnh đất  
Thnht, vic khởi xưng các dự án thu gom điều chỉnh đất đối vi các dán nhỏ  
nên để thành viên ca cộng đng hoc chính quyền địa phương thc hin. Khi các dán  
mà người khởi xướng là thành viên ca cộng đồng, tính phù hợp, đồng thun, suôn sẻ  
trong vic thc hiện thường cao hơn. Tuy nhiên, với các dự án gom đất, điều chỉnh đất  
đai, các thông tin và thông số kthut ca thửa đất thường bị thay đổi. Vì vy vn cn sự  
ủng hộ từ phía chính quyền nhằm đảm bo tính pháp lý và phù hp vi quy hoch.  
Thhai, để đạt được hiu qucao cvkinh tế và xã hi trong các dán gom  
đất, điều chỉnh đất đai, nhóm thực hin cn tạo được nim tin tphía chính quyn và cng  
đồng. Người dân sẽ tin tưởng nhóm thc hiện hơn khi họ tham gia trc tiếp vào quá trình  
la chn. c2 dán ở Thanh Văn và Giang Biên, nhóm thực hiện được người dân bầu  
ra. Các tình hung cho thấy khi người dân có tiếng nói trong vic hình thành các nhóm  
thc hin, vic to dng lòng tin sdễ dàng hơn.  
Thba, vic sdng công cụ thu gom và điều chnh đất đai cần được chun bcác  
điều kin tiền đề  
Điều kin chính trị: Điều kin này liên quan ti sphù hp ca dán vi quy hoch  
của địa phương. Thiếu sự ủng htphía chính quyn, vic dồn điền và phát trin htng  
ở Thanh Văn gặp rt nhiều khó khăn, kcả khi đã hoàn thành, bất chp mt stht là  
công việc này được cộng đng ng hmnh m.  
Điều kin về đất đai, xây dựng: Việc thu gom điều chỉnh đất đai phải thun li cho thc  
hin dán. c2 dự án trên, do địa bàn thc hin là khu vc nông thôn đang trong quá trình  
chuyển lên đô thị. Đất đai của các hộ gia đình còn tương đối rng. Vic hi sinh (hiến) mt  
phn diện tích để làm các công trình công cng ca Giang Biên hầu như không làm ảnh  
hưởng ti vic sdng phn din tích còn li. Do trong quá trình chuyển đổi, nhiu hdân  
trnên giàu có từ đất đai nên việc đóng góp tài chính cũng không phải là vấn đề quá quan  
trọng đối vi mc sng ca các hộ gia đình nên dự án mi thc hiện được.  
Khả năng gia tăng giá trị sau khi thu gom và điều chỉnh đất: Điều kiện này là điều  
kin quan trng nhất để có được sự đồng thun tphía cộng đồng. Khả năng gia tăng giá  
trcủa đất có thdo có htng tốt hơn (đường rộng hơn – ô tô vào được) và do giá thị  
345  
trường của đất đai không ngừng tăng lên. Tuy nhiên, trong khi giá thị trường của đất đai  
tăng lên là không chắc chn xy ra vì phthuc vào khách quan thì giá trị đất đai tăng do  
htng phát trin li chc chn xảy ra do thay đổi vcht, vni lực đất đai – cần được  
khuyến khích và nhân rng.  
Thứ tư, cộng đồng nên tham gia vào dán ngay tnhững khâu đầu tiên như quá  
trình lên kế hoch cho dán chkhông chthuần túy đưa ra ý kiến trên kế hoạch đã phác  
tho sn. Các tình hung cho thy nếu người dân tham gia ngay từ đầu vào quá trình lên  
kế hoch, hscó scam kết tốt hơn với dán. Nếu có stham gia ngay từ đầu và sâu  
và quá trình thc hin dán, nhiều người dân snghi ngyếu tcông bng ca dán khi  
họ được thuyết phục đồng ý vi mt bn kế hoạch đã được phác sẵn. Ngược lại, người  
dân tham gia vào toàn bquá trình lên kế hoch. Hphác tho kế hoch cho chính cng  
đng ca mình; hlàm chủ các phương án thu gom và điều chỉnh đất đai.  
Thứ năm, bên cnh việc đánh giá lợi ích- chi phí, các ri ro ca dán cần được tính  
toán cn thn và tho lun vi các hdân. Hầu như các phương án thu gom và điều chnh  
đất đai mới tính toán lợi ích chi phí khi đưa ra giới thiu cho cộng đồng mà chưa quan  
tâm nhiều đến nhng ri ro gn vi dán mà cộng đng tham gia. Trong dự án gom đất  
ở Thanh Văn, rủi ro nm vic vi phạm các quy định đất đai hin hành khi các cộng đồng  
bán đất cho các cá nhân và dùng tin phát trin htng. Cn thiết phi kim soát rủi ro để  
tránh các trường hp vi phm pháp lut.  
Thsáu, người dân nhn thc vtính công bng trong quá trình lên kế hoch và  
thc hin dự án đóng góp rất ln cho vic to nên sự đồng thun. Có 2 khâu to công  
bng trong dự án gom và điều chỉnh đất đai, đó là công bằng trong phân phi li ích và  
công bng trong quá trình thc hin. Trong phân phi lợi ích được hưởng tdự án, người  
dân so sánh chi phí - li ích ca mình với các nhóm khác để đánh giá sự công bng vì vy  
cn có gii pháp cân bằng như trong trường hp Giang Biên, hộ gia đình bị mt nhiều đất  
hơn các hộ khác snhận được htrbng tin ca ccộng đồng. Trong quá trình thưc  
hin dự án, người dân cũng đánh giá sự công bng ca dự án qua quá trình đưa ra quyết  
định. Người dân tham gia vào quá trình lên kế hoch, tho lun các yếu tvà trình tự đưa  
ra quyết định, giám sát thc hiện… Họ ủng hdán, dù trên thc tế chính quyền địa  
phương không tích cực tham gia (như ở Giang Biên) hay lãnh đạo xã bkluật (như ở  
Thanh Văn).  
Thby, các dự án thu gom và điều chỉnh đất đai nên sử dng các áp lc xã hi và  
chính trmt cách khôn ngoan vi những người phản đối. Trong c2 tình huống đếu có  
nhng ý kiến chống đối sự thay đổi hoc tchi ng hdán. Khi gp phản đối, công  
ccn thiết nên sdng là nhng mi liên kết xã hội để gây áp lc với nhóm người phn  
đi. Các yếu tố như mối quan hhhàng, nhng cá nhân có uy tín, có tiếng nói trong  
cộng đồng được triệt để sdụng như là áp lực xã hi và chúng tra rt có hiu quả đối  
346  
vi các dán nằm trong khu dân cư nông thôn như vậy.  
Thtám, cam kết pháp lý hoá các thông số đất đai còn lại sau thu gom và điều  
chnh. Kết qudán cần được ghi nhn trong các hồ sơ pháp lý nhằm tránh nhng tranh  
chấp trong tương lai và cần được chính quyền địa phương cam kết ngay từ giai đoạn lên  
kế hoch dán cùng vi những văn bản hướng dn thc hin.  
Thu gom và điều chỉnh đất đai là một trong nhng công chu hiệu để thu hút  
ngun vn ngoài ngân sách vào phát trin htầng. Tuy nhiên, để đạt được shiu quả  
thc hin dán mt thì vấn đề quan trọng là đạt được sự đồng thun ca cộng đồng  
trong cquá lên kế hoch và thc thi dán. Stham gia ca chính quyền địa phương  
mới đóng vai trò như là bên giám sát và công nhận kết quthc hin cho nên hiu quả  
thc hin vn dán vẫn chưa cao. Suy cho cùng, phương pháp thu gom và điều chnh  
đất đai đòi hỏi sự thay đổi trong nhn thc ca cán b, từ thái độ mnh lnh chuyn  
sang quan điểm tham gia vào cộng đồng và chia slợi ích và đây là vấn đề cn nghiên  
cu thêm trên khía cnh quản lý nhà nước nhm thu hút các ngun vốn đầu tư phát  
trin htng cho cộng đồng.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. APIM-UNDP (2016), Nghiên cứu về tính minh bạch và tham nhũng trong thu hồi  
đất tại Việt Nam, Báo cáo hợp tác nghiên cứu của Viện Quản lý Châu Á Thái bình  
dương (Đại học Kinh tế Quốc dân) và UNDP, Hà Nội, Việt Nam.  
2. APIM WB (2017), Nghiên cứu các Tình huống Góp đất và Tái điều chỉnh Đất  
đai tại Việt Nam, Nguyễn Văn Thắng và các cộng sự, Báo cáo hợp tác nghiên cứu  
của Viện Quản lý Châu Á Thái bình dương (Đại học Kinh tế Quốc dân), Công ty  
TNHH Tư vấn Hội nhập và Phát triển  
3. Eisenhardt, Kathleen M. (1989), ‘Building theories from case study research’, The  
Academy of Management Review, 14(4), 532-50.  
4. Mahjabeen, Z, Shrestha, KK, Dee, AJ. 2009. ‘Rethinking community  
participation in urban planning: The role of disadvantaged groups in Sydney  
metropolitan strategy’. Australian Journal of Regional Studies, 15(1), 45-63.  
5. Nguyễn Đăng Sơn (2006), ‘Phương pháp quy hoạch và quản lý đô thị có sự tham  
gia của cộng đồng’, Tạp chí Kiến trúc Việt Nam, truy cập lần cuối ngày 10 tháng  
chi-tiet/ek4I/86/17856/phuong-phap-quy-hoach-va-quan-ly-do-thi-co-su-tham-  
gia-cua-cong-dong.html>.  
6. Trịnh Mạnh Linh (2013), ‘Tìm vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng’, Tạp chí Kinh  
tế và dự báo, truy cập lần cuối 10/4/2019, từ  
347  
7. Vân Hà (2016), ‘Xử lý nghiêm đơn vị nợ đọng vốn tạm ứng xây dựng cơ bản’,  
Thời báo Tài chính Việt Nam, truy cập lần cuối ngày 10 tháng 4 năm 2017, từ  
nghiem-don-vi-no-dong-von-tam-ung-xay-dung-co-ban-32401.aspx>.  
8. WORLD BANK (2013) Improving Land Sector Governance in Vietnam:  
Implementation of Land Governance Assessment Framework (LGAF) Báo cáo về  
Khung quản trị Đất đai của Ngân hàng Thế giới  
9. Yin, K. Robert (1994), Case Study Research: Design and Methods, Sage,  
Thousand Oaks, CA.  
348  
pdf 8 trang Thùy Anh 18/05/2022 820
Bạn đang xem tài liệu "Thu gom và điều chỉnh đất - Một công cụ hiệu quả để tạo nguồn thu từ đất đai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfthu_gom_va_dieu_chinh_dat_mot_cong_cu_hieu_qua_de_tao_nguon.pdf