Tài liệu Kế hoạch phát triển dân tộc thiểu số cho tỉnh Lào Cai
CÁC TỪ VIẾT TẮT
Cơ sở dữ liệu
CSDL
DTTS
Dân tộc thiểu số
DTTSDP
MPLIS
PTNT
Kế hoạch phát triển dân tộc thiểu số
Hệ thống thông tin đất đai quốc gia đa mục tiêu
Phát triển nông thôn
TCQLĐĐ
TNMT
TW
Tổng cục Quản lý đất đai
Tài nguyên và Môi trường
Trung ương
UBND
VILG
Ủy ban nhân dân
Dự án “Tăng cường quản lý đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai”
Văn phòng đăng ký đất đai
VPĐK
2
MỤC LỤC
CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................................. 1
MỤC LỤC............................................................................................................. 3
I. TỔNG QUAN DỰ ÁN...................................................................................... 4
1.1. Khái quát về Dự án...................................................................................... 4
1.2. Nội dung dự án ........................................................................................... 4
II. TÓM TẮT ĐÁNH GIÁ XÃ HỘI ...................................................................... 6
2.4. Khung chính sách và cơ sở pháp lý ........................................................... 15
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN................................................................................ 28
6.1. Công khai Kế hoạch DTTS..................................................................... 29
VIII. KINH PHÍ DỰ KIẾN................................................................................. 31
3
I. TỔNG QUAN DỰ ÁN
1.1. Khái quát về Dự án
Mục tiêu của Dự án “Tăng cường quản lý đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai”
(viết tắt VILG) là nhằm phát triển, vận hành một hệ thống thông tin đất đai quốc
gia đa mục tiêu nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của Chính phủ, doanh nghiệp và
người dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả và minh bạch của công tác quản lý đất đai
tại địa bàn thực hiện dự án thông qua việc hoàn thiện cơ sở dữ liệu đất đai, ở cả
cấp quốc gia và các địa phương.
Mục tiêu cụ thể của dự án:
Phát triển và vận hành Hệ thống thông tin đất đai đa mục đích để đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của các tổ chức, doanh nghiệp và người dân.
- Phát triển, vận hành một hệ thống thông tin đất đai đa mục tiêu nhằm đáp
ứng tốt hơn nhu cầu của địa phương, doanh nghiệp và người dân.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả và minh bạch của công tác quản lý đất đai tại
địa bàn thực hiện dự án thông qua việc hoàn thiện cơ sở dữ liệu đất đai.
- Hoàn thiện và vận hành CSDL đất đai của địa phương (dữ liệu địa chính,
dữ liệu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, dữ liệu giá đất, dữ liệu thống kê, kiểm
kê đất đai) phục vụ công tác quản lý đất đai, cung cấp dịch vụ công về đất đai, kết
nối với Trung ương và chia sẻ thông tin đất đai với các ngành có liên quan (thuế,
công chứng, ngân hàng,…).
- Hoàn thiện việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai thông qua
việc hiện đại hóa các VPĐK từ việc cải tiến quy trình, tiêu chuẩn dịch vụ tới việc
trang bị thiết bị đầu - cuối của các VPĐK và đào tạo cán bộ.
- Nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của
cộng đồng đối với Dự án; đặc biệt là đối với công tác xây dựng, quản lý và vận
hành hệ thống thông tin đất đai; hệ thống theo dõi, đánh giá quản lý và sử dụng
đất đai.
1.2. Nội dung dự án
Dự án sẽ bao gồm 3 hợp phần như sau:
• Hợp phần 1: Tăng cường chất lượng cung cấp dịch vụ đất đai
Hợp phần này sẽ hỗ trợ: (i) Hiện đại hóa và tăng cường chất lượng cung cấp
dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai, (ii) Đào tạo, truyền thông và tổ chức thực hiện
kế hoạch phát triển dân tộc thiểu số; (iii) Thiết lập và thực hiện Hệ thống theo dõi và
đánh giá việc quản lý và sử dụng đất.
Hợp phần này sẽ hỗ trợ nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ đất đai
thông qua việc hoàn thiện quy trình và tiêu chuẩn dịch vụ, cải tạo cơ sở vật
4
chất, nâng cao năng lực của các cán bộ VPĐK ở các huyện dự án. Hợp phần
này sẽ hỗ trợ việc thống nhất các tiêu chuẩn nghiệp vụ và cơ sở vật chất của
VPĐK và chi nhánh VPĐK, đồng thời tăng cường sự tham gia của người dân,
khu vực tư nhân và các bên liên quan khác thông qua các chiến dịch truyền
thông và nâng cao nhận thức. Các hoạt động của hợp phần này sẽ tạo điều kiện
để triển khai các hoạt động kỹ thuật trong khuôn khổ Hợp phần 2 của dự án.
Ngoài ra, Hợp phần này cũng sẽ giúp theo dõi việc thực hiện quản lý sử dụng
đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 và dần dần đáp ứng các nhu cầu
của nền kinh tế, xã hội trong hiện tại và trong tương lai về khả năng tiếp cận
tốt hơn với các thông tin và dịch vụ thông tin đất đai.
• Hợp phần 2: Xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai và triển khai hệ thống
thông tin đất đai quốc gia đa mục tiêu (MPLIS)
Hợp phần này hỗ trợ cho: (i) phát triển một mô hình hệ thống thông tin
đất đai đa mục tiêu, tập trung, thống nhất trên phạm vi toàn quốc; (thiết lập hạ
tầng công nghệ thông tin, phần mềm để quản trị và vận hành hệ thống cho cả
nước; (ii) Xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia với 04 thành phần là: (i)
thông tin địa chính; (ii) quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; (iii) giá đất và (iv)
thống kê, kiểm kê đất đai; (iii) Phát triển Cổng thông tin đất đai, dịch vụ công
điện tử trong lĩnh vực đất đai và chia sẻ, liên thông dữ liệu với các ngành, lĩnh
vực khác dựa trên Khung kiến trúc chính phủ điện tử được Bộ Thông tin và
Truyền thông ban hành nhằm tăng cường sự tham gia của người dân đối với hệ
thống MPLIS
• Hợp phần 3: Hỗ trợ quản lý dự án
Hợp phần này sẽ: (i) hỗ trợ quản lý dự án, (ii) hỗ trợ theo dõi và đánh giá
dự án.
- Tên dự án: “Tăng cường quản lý đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai”, Tiếng
Anh “Vietnam - Improved Land Governance and Database Project”, Tên viết tắt:
VILG
- Tên nhà tài trợ: Ngân hàng Thế giới.
- Cơ quan chủ quản đề xuất dự án: Bộ Tài nguyên và Môi trường.
- Cơ quan chủ quản tham gia dự án: Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai.
- Chủ dự án:
+ Chủ dự án đề xuất dự án: Tổng cục Quản lý đất đai (TCQLĐĐ), Bộ Tài
nguyên và Môi trường (Bộ TNMT).
+ Chủ dự án đối với địa bàn được đầu tư xây dựng CSDL đất đai: Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Lào Cai.
5
- Thời gian thực hiện dự án: từ năm 2017 đến năm 2022.
- Địa điểm triển khai dự án: Dự kiến dự án sẽ được triển khai tại 09 huyện
của tỉnh Lào Cai, gồm các huyện, thành phố: Lào Cai, Sa Pa, Bảo Thắng, Bắc
Hà, Bảo Yên, Văn Bàn, Mường Khương, Si Ma Cai, Bát Xát.
II. TÓM TẮT ĐÁNH GIÁ XÃ HỘI
PPMU sẽ tiến hành một đánh giá xã hội để thu thập dữ liệu và thông tin về
các cộng đồng dân tộc thiểu số trong khu vực dự án.
2.1. Phạm vi, khu vực DTTS sinh sống trong khu vực triển khai dự án:
Các huyện có người dân tộc thiểu số sinh sống tại tỉnh Lào Cai như bảng
dưới đây:
Nhóm
người dân
tộc khác
Nhóm người dân
tộc 2
Nhóm người dân
tộc 3
Nhóm người dân
tộc 4
Nhóm người
dân tộc 5
Nhóm người dân tộc 1
Huyện
Số
Tên
Số
lượng
Tên
Số lượng
Tên
Số lượng
Tên
Số lượng
Tên
Số lượng
lượng
H.Mông
H.Mông
Sa Pa
Tầy
Tầy
Dao
Dao
Nùng
Nùng
Giáy
Giáy
33.510
29.776
2.907
6.526
14.083
9.313
19
5.400
905
41
677
2.558
Bắc Hà
H.Mông
H.Mông
H.Mông
H.Mông
H.Mông
H.Mông
H. Mông
H. Mông
Thành Phố Lào Cai
Huyện Bảo Thắng
Huyện Bảo Yên
Huyện Mường Khương
Huyện Si Ma Cai
Huyện Bát Xát
512
8.782
Tầy
Tầy
Tầy
Tầy
Tầy
Tầy
Tầy
Tầy
9.705
10.113
29.592
359
Dao
Dao
Dao
Dao
Dao
Dao
Dao
Dao
3.183
13.676
20.324
3.325
Nùng
Nùng
Nùng
Nùng
Nùng
Nùng
Nùng
Nùng
465
3.537
2.014
14.441
3.605
94
Giáy
Giáy
Giáy
Giáy
Giáy
Giáy
Giáy
Giáy
6.020
2.120
2.262
1.469
5.755
1.526
250
3.778
834
10.994
27.400
28.344
24.884
10.365
174.567
2.994
25
150
61
735
21.369
15.665
100.999
14.770
2.659
32.026
Huyện Văn Bàn
Tổng cộng
45.336
105.423
44
3.775
20.392
29.619
Nguồn: Thống kê DTTS tỉnh Lào Cai năm 2018
2.2. Đặc điểm kinh tế, văn hóa xã hội của DTTS trong vùng dự án
Tính đến thời điểm 31/12/2017, tỉnh Lào Cai có 29 thành phần dân tộc sinh
sống trên địa bàn tỉnh, trong đó có 28 thành phần dân tộc thiểu số (12 dân tộc
thiểu số định cư lâu đời, sống thành cộng đồng, làng bản, còn lại 16 thành phần
dân tộc từ các địa phương khác đến định cư). Dân số toàn tỉnh Lào Cai có 699.507
triệu dân; trong đó người kinh 235.383 người, chiếm khoảng 33,65% tổng dân số;
tiếp theo là dân tộc H'Mông khoảng 174.567 người, chiếm 24,96% tổng dân số
của tỉnh; dân tộc Tày khoảng 105.423 người, chiếm 15,07% dân số của tỉnh; Dân
tộc Dao 101.026 người, chiếm 14,44% dân số toàn tỉnh; dân tộc Giáy có khoảng
32.026 người, chiếm 4,57% dân số toàn tỉnh; dân tộc Nùng có khoảng 29.621
người, chiếm 4,23% dân số toàn tỉnh; dân tộc Phù Lá có khoảng 9.824 người,
chiếm 1,40% dân số toàn tỉnh; dân tộc Hà Nhì có khoảng 4.599 người, chiếm
0,66% dân số toàn tỉnh; dân tộc Thái có khoảng 2.047 người, chiếm 0,29% dân
6
số toàn tỉnh; dân tộc Mường có khoảng 1.495 người, chiếm 0,21% dân số toàn
tỉnh; dân tộc Bố Y có khoảng 1.703 người, chiếm 0,24% dân số toàn tỉnh; dân tộc
Hoa có khoảng 800 người, chiếm 0,11% dân số toàn tỉnh; dân tộc La Chí có
khoảng 672 người, chiếm 0,1% dân số toàn tỉnh.
Ngoài ra, 16 dân tộc thiểu số có dân số 322 người, chiếm 0,07% so với dân
số người dân tộc thiểu số như dân tộc Sán Chay, Sán Dìu, Khơ me, Khơ Mú, Tà
Ôi, Lô Lô, Lào, Xơ Đăng, Gia Rai, Pà Thẻn, Giẻ Triêng, Ê đê, Thổ, Cơ Tu, La
Hủ, Kháng.
Đặc thù riêng của từng dân tộc thiểu số như sau:
a) Dân tộc H'Mông:
H'Mông là tộc người có số dân đứng thứ hai trong tỉnh Lào Cai sau dân tộc
Kinh. Tính đến năm 2018, dân số H Mông ở Lào Cai có khoảng 174.567 người,
chiếm 24,96% tổng dân số của tỉnh. Dân tộc H Mông cư trú ở các huyện trên địa
bàn tình. Nhưng chủ yếu tập chung ở các huyện Sa Pa, Bắc Hà, Mường Khương,
Si Ma Cai.
Mỗi bản của người H'Mông gồm vài chục nóc nhà nằm ở sườn núi, chân
đồi, dọc theo ven suối để tiện việc ra ruộng lên nương. Người đứng đầu làng do
dân tự chọn tên gọi “già làng”, là người có tuổi cao, có đạo đức, năng lực, biết
làm ăn, biết lý người H'Mông, biết đối nhân xử thế với cá nhân và cộng đồng, biết
những chính sách của nhà nước.
Nhằm duy trì nếp sống tự quản, mỗi làng đều có những luật tục (quy ước)
chung, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các chức dịch trong làng đều
dựa vào những quy ước đó để điều hành công việc. Các thành viên, gia đình trong
làng bản đều dựa vào đó để tổ chức cuộc sống của mình và gia đình. Hàng năm,
già làng đứng ra tổ chức họp làng; thành viên tham gia gồm chủ nhà của các hộ
trong làng bản. Mọi người lắng tai nghe già làng nói. Khi ra về phải truyền lại cho
tất cả người trong gia đình mình rõ và phải làm theo cho đúng.
Do cư trú trên các dải núi cao, sống gắn bó với rừng và đất rừng cho nên
nông nghiệp nương rẫy trở thành nền tảng kinh tế vô cùng quan trọng của người
H'Mông. Địa hình vùng cao đã tạo cho người H'Mông điều kiện phát triển kinh tế
nương rẫy theo các dạng khác nhau. Ở phía đông địa hình bằng phẳng, ít xói mòn
người dân trên loại nương đặc thù - nương thổ canh hốc đá với cây trồng chính là
ngô và một số hoa mầu khác. Ở phía tây của tỉnh (Sa Pa, Bát Xát) người dân chủ
yếu canh tác trên loại hình ruộng bậc thang hoặc nương dốc. Công cụ chủ yếu làm
nương rẫy sắc bén, điển hình là cày và cuốc bướm. Người H'Mông canh tác thâm
canh, một mảnh nương bình quân có thể khai tác 4-5 vụ hoặc có thể kéo dài đến
vài chục năm (ở nơi đất bằng phẳng). Ngoài ra đồng bào còn trồng thêm một số
loại lương thực như khoai lang, đậu tương, lạc, vừng, rau cải, bầu, nó. Họ trồng
các loại cây ăn quả trong vườn nhà như mận, đào, bưởi...
Về chăn nuôi, mỗi gia đình người H'Mông nuôi gà, lợn, trâu, bò để cung
cấp sức kéo, vận chuyển và làm thực phẩm. Bên cạnh đó người H'Mông rất giỏi
trong việc săn bắt và hái lượm.
Nghề thủ công của người H'Mông gồm: trồng lanh, dệt vải, nghề rèn đúc,
nghề mộc, đan lát.
7
Người H'Mông thường họp chợ phiên. Cơ cấu mặt hàng ở chợ phản ánh
nền kinh tế tự cung, tự cấp của đồng bào như một vài con gà, gạo, ngô, sản phẩm
thêu, rèn... Với người H'Mông việc đến chợ là để vui chơi, đáp ứng nhu cầu giao
lưu tình cảm chứ không nhất thiết là trao đổi hàng hóa.
Nhà ở của người H'Mông chủ yếu là nhà trình tường đất, có 3 cửa gồm một
cửa chính, một cửa ngách và một cửa thông xuống bếp. Trước kia nhà thường lợp
mái cỏ gianh bây giờ nhiều nơi sử dụng mái tôn hoặc prôximăng, 3 gian, cao
khoảng 3 - 5m, mái dốc hai bên. Gian chính giữa là gian thiêng rộng hơn hai gian
bên cạnh chừng 80 - 100cm, nơi bắc vạch hậu chếch bên phải gian giữa dán giấy
bản là nơi thờ cúng tổ tiên. Nhà bao giờ cũng có hai bếp, một bếp lò to đắp bằng
đất để nấu rượu, nấu cám, được gọi là bếp mẹ (bếp dành cho người phụ nữ lo toan
việc chăn nuôi, bếp núc) và một bếp kiềng con để nấu com, đun nước thường gọi
là bếp bố (dùng cho nam giới đun nước pha trà, tiếp khách). Nhà làm hai gác để
dự trữ lương thực và các vật dụng khác. Các góc nhà là buồng ngủ của các cặp vợ
chồng, con cái.
Nhìn chung, xã hội H'Mông vẫn mang tính cộng đồng nhất, đoàn kết gắn
bó giữa các thành viên. Điều này thể hiện ở các hình thức vần đổi công, tương trợ,
tục chia sẻ trong ăn uống lễ tết, sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Sự liên kết giữa
các gia đình cũng như sự gắn bó của mỗi thành viên với làng dựa trên quan hệ
thân tộc hoặc quan hệ láng giềng.
Nguồn kinh tế đDTTS lại thu nhập quan trọng nhất trong đời sống của
người H'Mông là nông nghiệp trồng lúa. Nguồn thu nhập từ rẫy chiếm vị trí thứ
hai sau thu nhập hoa lợi ruộng nước và cũng đóng vai trò rất quan trọng trong đời
sống của người H Mông, đặc biệt là trong những năm gần đây giá trị kinh tế từ
cây lâm nghiệp cao đã thúc đẩy đồng bào sử dụng đất lâm nghiệp.
Tuy nhiên đối với phụ nữ dân tộc H'Mông đa số đều không nói được tiếng
Việt, họ thường nói tiếng dân tộc của họ mặc dù một số phụ nữ biết tiếng Việt.
Do đó rất khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển dân
tộc thiểu số của dự án. Vì vậy, để việc triển khai Kế hoạch được thuận lợi thì các
chương trình tập huấn và truyền thông tại các địa phương này cần phải dịch ra
tiếng H’Mông để người dân có thể hiểu và tiếp cận đến dự án một cách đầy đủ.
Hiện nay, các thửa đất của người dân cơ bản đã được cấp GCN QSDĐ theo
đúng mục đích sử dụng và chủ sử dụng. Tuy nhiên, trong quá trình cấp giấy chứng
nhận QSDĐ nhiều hộ gia đình không cung cấp đủ các thủ tục pháp lý cần thiết
theo quy định của Luật Đất đai bởi vì họ mua, bán hay thừa kế nhưng không có
giấy tờ hoặc có giấy tờ nhưng không có xác nhận của chính quyền địa phương
như quy định của luật đất đai. Mặt khac, việc làm thất lạc, mất giấy chứng nhận
QSD đất đã cấp cũng phổ biến trong cộng đồng người H’Mong vì họ chưa nhận
thức được tầm quan trọng của việc có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Họ
vẫn còn duy trì việc sử dụng đất theo phong tục của cha ông để lại mà không ai
có thể lấn chiếm được.
b) Dân tộc Tày:
8
Dân tộc Tày là dân tộc có số dân đông thứ ba trong tỉnh Lào Cai, với số
lượng khoảng 105.423 người, chiếm 15,07% dân số của tỉnh và là dân tộc có số
dân đông thứ hai trong các dân tộc thiểu số, sau dân tộc H'Mông.
Người Tày là cư dân nông nghiệp có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu
đời đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm canh tác với những kỹ thuật đắp bờ, giữ
nước, chống úng, dẫn thuỷ nhập điền để trồng cấy các cây lương thực phù hợp
với từng vụ, từng chất đất. Người Tày thường trồng lúa nước, lúa nương, ngô, sắn,
đậu xanh, lạc, vừng, các loại rau củ như rau mét, khoai lang, rau muống, bầu, bí,
cây ăn quả như xoài, chuối, vải...
Người Tày chăn nuôi trâu, ngựa, lợn gà, cá... cung cấp thực phẩm cho bữa
ăn hàng ngày, các dịp lễ tết hoặc đDTTS bán, đổi.
Các nghề thủ công gia đình được chú ý như: Dệt thổ cẩm, rèn, đúc, nghề
mộc, đan lát. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm thủ công truyền thống từ lâu đời
được duy trì đến ngày nay. Nghề rèn, đúc được phát triển mạnh trong vùng người
Tày ở xã Thanh Phú, Nậm Sài huyện Sa Pa, xã Tà Chải huyện Bắc Hà... Nghề
mộc, nghề đan lát cũng là nghề phát triển phổ biến rộng rãi.
Chợ là một hoạt động kinh tế quan trọng. Người Tày thường tập trung họp
chợ vào ngày chủ nhật hàng tuần với quy mô từ 3 đến 5 xã liền kề. Hoạt động
buôn bán thường diễn ra trong 1/2 ngày. Các mặt hàng chủ yếu là thực phẩm, đồ
dùng sinh hoạt và các sản phẩm thủ công truyền thống. Chợ cũng là nơi giao lưu
gặp gỡ, trao đổi, thăm hỏi nhau.
Mỗi làng đều có khu vực cư trú và đất đai canh tác riêng. Người Tày thường
lấy con sông, suối hay một quả đồi làm ranh giới giữa làng này với làng khác. đất
đai cũng như mọi sản vật trên vùng đất của làng như cây, cỏ, chim, thú đều do
làng quản lý. Bộ máy tổ chức các làng truyền thống của người Tày rất chặt chẽ.
Đứng đầu làng có già làng, trưởng bản, là người am hiểu về phong tục tập quán,
ược mọi người tín nhiệm. Già làng đứng ra điều tiết các mối quan hệ giữa các
dòng họ, thành viên trong làng. Sau già làng có trưởng bản là người đứng ra quản
lý và giải quyết các công việc của làng như quản lý đất đai và giải quyết những
xung đột trong làng. Cơ chế hoạt động của các làng dựa trên những quy tác, quy
ước, hương ước do các thành viên trong làng đặt ra, ai vi phạm quy tắc sẽ bị làng
phạt. Các làng của người Tày không chỉ là một tổ chức xã hội mà còn là một cộng
đồng về văn hoá, tín ngưỡng tạo nên những nét đặc trưng, sự khác biệt giữa làng
này với làng khác. Sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng của người Tày rất phong phú và
đa dạng. Hầu như các làng đều lập miếu thờ các vị thần, có thể là Thần Núi, Thần
Rừng, Thần Sông, nhưng miếu được dựng chủ yếu là thờ Thần Thổ địa. Miếu thờ
thường được dựng dưới một gốc cây to hoặc hang suối. Ngày nay, các làng của
người Tày có nhiều thay đổi so với trước về không gian, kiến trúc đến các thiết
chế xã hội, sinh hoạt văn hoá tinh thần. Tính chất khép kín của các làng truyền
thống dần được cởi mở hơn, họ không còn sống độc lập trong những ngôi làng
mà đã sống xen kẽ với đồng bào các dân tộc khác như Nùng, Dao, H'Mông, Kinh,
làm cho quá trình giao thoa văn hoá giữa các dân tộc ngày càng diễn ra mạnh mẽ,
đặc biệt là với dân tộc Kinh.
9
Hiện nay, hầu hết người dân tộc Tày ở một số địa bàn các huyện trong tỉnh
đã được cấp GCN QSDĐ theo dự án đo đạc cấp GCN QSDĐ. Các thửa đất của
người dân cơ bản đã được cấp GCN theo đúng mục đích sử dụng và chủ sử dụng.
Về ngôn ngữ giao tiếp đa số người dân tộc Tày đều nghe và nói được tiếng
Tiếng Việt, nên việc triển khai Kế hoạch phát triển dân tộc thiểu số là khá thuận
lợi.
10
c) Dân tộc Dao:
Dân tộc Dao là tộc người có số dân đứng thứ tư trong tỉnh Lào Cai, với
101.026người, chiếm 14,44%% dân số toàn tỉnh.
Người Dao Đỏ cư trú chủ yếu ở các huyện Sa Pa, Bát Xát, Văn Bàn, Bảo
Yên, Bắc Hà, Bảo Thắng. Người Dao Họ là một nhóm địa phương của ngành Dao
Quần Trắng, cư trú chủ yếu ở 5 xã thuộc huyện Bảo Thắng là Sơn Hà, Sơn Hải,
Phú Nhuận, Thái Niên, Trì Quang; một xã thuộc huyện Bảo Yên là xã Cam Cọn
và hai xã thuộc huyện Văn Bàn là Tân An, Tân Thượng. Người Dao Tuyển cư trú
tại các xã Long Khánh, Long Phúc, Xuân Hòa, Thượng Hà, Xuân Thượng, Tân
Tiến, Tân Dương, Điện Quan, Bảo Hà, Kim Sơn thuộc huyện Bảo Yên; xã Xuân
Quang, Trì Quang, Phong Niên, Phong Hải, Bản Cần, Bản Phiệt thuộc huyện Bảo
Thắng; xã Cốc Mỳ, Bản Qua, Quang Kim thuộc huyện Bát Xát; xã Bản Lầu, Bản
Xen, Thanh Bình thuộc huyện Mường Khương; xã Cốc Ly, Tả Củ Tỷ, Bảo Nhai
thuộc huyện Bắc Hà; xã Đồng Tuyển, Cam Đường, Vạn Hòa, phường Nam
Cường, phường Bắc Cường thuộc thành phố Lào Cai.
Canh tác nương rẫy là hình thức canh tác phổ biến của người Dao Đỏ và
Dao Tuyển. Trải qua nhiều đời, đồng bào đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm
chọn đất để trồng lúa, trồng ngô, hoa màu. Riêng người Dao Đỏ còn có hình thức
nương thổ canh hốc đá với cây trồng chủ yếu là ngô, kê. Hình thức này ít bị xói
mòn. Trên nương, ngoài trồng lúa, ngô, đồng bào còn trồng sắn, khoai. Trước đây,
nguồn lương thực từ nương rẫy là nguồn sống chính của người Dao.
Người Dao Họ canh tác lúa nước từ sớm. Người Dao Đỏ và Dao Tuyển từ
những năm 50 - 60 thế kỷ XX mới tiến hành trồng lúa nước. Canh tác ruộng nước
của người Dao chủ yếu là ruộng bậc thang. Bên cạnh làm nương, người Dao còn
làm kinh tế vườn góp phần tăng thêm thu nhập cho gia đình.
Người Dao chăn nuôi trâu, lợn, gà, ngan, vịt, cá… chủ yếu để cung cấp
nguồn thực phẩm cho gia đình, làm sức kéo, làm lễ vật phục vụ nghi thức cúng
bái, ít dùng làm vật trao đổi với bên ngoài.
Trong đời sống kinh tế truyền thống của người Dao ở Lào Cai trước đây,
các hoạt động khai thác nguồn lợi tự nhiên không thể thiếu bao gồm săn bắt, hái
lượm và đánh bắt cá. Hoạt động khai thác nguồn lợi tự nhiên của người Dao diễn
ra quanh năm. Phân công lao động trong hoạt động này khá rõ ràng: nam giới sắn
bắt, phụ nữ hái lượm rau quả, kiếm măng, tìm thuốc, bắt cua, ốc…
Nghề thủ công truyền thống của người Dao có dệt vải, mộc, rèn đúc, thêu,
làm trống, chạm khắc bạc, làm giấy.
Hoạt động trao đổi, mua bán của người Dao diễn ra chủ yếu ở các phiên
chợ trong vùng. Các mặt hàng người Dao mang ra chợ bán khá phong phú: thóc,
ngô, ngựa, trâu, gà, mật ong, sản phẩm thủ công… hàng hóa mua về là nhu yếu
phẩm cần thiết cho sinh hoạt gia đình. Người Dao đến chợ không chỉ để mua bán,
mà còn đi "chơi chợ". Phiên chợ là nơi giao lưu, gắp gỡ mọi người.
Mối làng người Dao có khoảng vài ba chục nóc nhà, có một người đứng
đầu. Trước đây, vai trò người đứng đầu thuộc về chủ làng. Đó thường là trưởng
họ của dòng họ có công lập làng hoặc một người có uy tín, giỏi làm ăn, có khả
11
năng thuyết phục, tập hợp, chỉ đạo dân làng, nắm vững luật tục, quy ước chung
của làng. Hiện nay, người đứng đầu làng thường là trưởng thôn.
Mỗi làng còn có một già làng. Đó là người am hiểu phong tục, tập quán,
biết cúng bái, gương mẫu, có uy tín. Già làng có chức năng giám sát việc thực
hiện các nghi lễ chung của làng và của cả các gia đình theo đúng phong tục cổ
truyền.
Mỗi làng người Dao đều có những quy ước về bảo vệ rừng, rừng cấm,
nguồn nước; quy ước về quan hệ giữa các gia đình trong làng và quan hệ giữa các
thành viên trong mỗi gia đình và trong cả cộng đồng. Luật tục của làng được cộng
đồng làng chấp nhận và thành viên trong làng tự nguyện tuân theo. Nếu vi phạm
sẽ căn cứ vào mức độ mà xử phạt theo luật tục.
Về ngôn ngữ giao tiếp đa số người dân tộc Dao đều nghe và nói được tiếng
Việt, nên việc triển khai Kế hoạch phát triển dân tộc thiểu số là khá thuận lợi.
Tương tự, đến nay trên địa bàn tỉnh Lào Cai đã thực hiện cơ bản việc cấp
giấy chứng nhận QSD đất cho người dân nói chung và người dân tộc Dao nói
riêng.
d) Dân tộc Giáy
Dân tộc Giáy là tộc người có số dân đứng thứ năm trong tỉnh Lào Cai, với
32.026 người, chiếm 4,57%% dân số toàn tỉnh.
Người Giáy ở Lào Cai có truyền thống canh tác lúa nước. Kỹ thuật canh
tác lúa nước của người Giáy khá cao, năng suất tốt. Bên cạnh đó, họ còn trồng lúa
nương. Ngoài ra, họ còn trồng sắn, mía, đậu tương, vừng, lạc… trồng các loại rau
như rau ngót, rau cải, rau muống… và các loại cây ăn quả.
Chăn nuôi là nghề phụ. Đồng bào Giáy thường nuôi gà, vịt, ngan, chó, trâu,
ngựa, dê… Trâu để phục vụ sản xuất, lợn, gà, vịt phục vụ cúng tế, cải thiện bữa
ăn hoặc để trao đổi mua bán.
Người Giáy ở Lào Cai có các nghề thủ công như mộc, rèn, đan lát, kim
hoàn, dệt… chủ yếu để phục vụ trong gia đình, số ít được trao đổi mua bán.
Hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa của người Giáy thường thông qua
chợ phiên. Không chỉ mang ra chợ những sản vật do gia đình tự làm để bán và
mua những sản phẩm khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt sản xuất, đồng bào Giáy
đến chợ còn để giao lưu, gặp gỡ nhau.
Nhà ở của người Giáy ở Lào Cai là nhà đất. Bếp liền với nhà ở. Gian giữa
đặt bàn thờ. Gian bên phải là bếp sưởi. Trong cùng là buồng ngủ. Các nhà truyền
thống của người Giáy đều có gác - là nơi chứa thóc, gạo, các vật dụng của gia
đình, còn có thể là nơi ngủ của con trẻ, con trai, khách nam. Tuy nhiên, đến nay,
nhiều ngôi nhà của người Giáy được xây bằng gạch, có tầng.
Trang phục Áo nam giới gồm hai mảnh vải gập lại, khoét nách, khoét cổ,
khi may chập hai mảnh vải đó thành 1 đường chỉ sau lưng áo; phía trước may mép
vải lại, vạt bên phải may thêm 1 chiếc nẹp nhỏ bằng ngón tay cái và ở hai mép vải
phía trước là nơi để cài khuy áo. Gấu áo xẻ khoảng 1 - 2 cm theo đường may từ
nách xuống. Tà áo dài qua thắt lưng, vừa chấm hông, có 3 túi. Cổ tròn, đứng, cao
khoảng 2 cm.
Áo của phụ nữ Giáy được cắt may đơn giản. Xẻ hai nách, mỗi
12
bên dài khoảng 20 cm, không thêu thùa nhưng có viền. Viền của cổ áo, tay áo
bằng vải khác màu áo. Đuôi áo vạt trước, sau bằng nhau, được cắt theo hình đuôi
tôm hơi tù. Khuy áo cài ở nách bên phải. Áo của phụ nữ Giáy thường được may
bằng các loại vải màu tươi: hồng, xanh nõn chuối, xanh nước biển, tím nhạt.Quần
của nam và nữ có cách cắt may giống nhau: Gồm hai ống quần, mỗi ống phải chắp
thêm một mảnh vải nữa, nên ống quần thường có hai đường may, người Giáy gọi
là quần hai xương, cạp rời. Quần của nữ được may bằng vải lụa cho mềm mại.
Cộng đồng, làng bản thông thường của người Giáy sống theo từng làng.
Tên làng thường được đặt theo vị trí địa lý, đặc điểm hay quy mô, hoặc sự kiện,
sự việc. Mỗi làng đều có những luật tục quy định về sử dụng nguồn nước, đất đai,
chăn thả gia súc, luật tục về xã hội…
Về ngôn ngữ giao tiếp đa số người dân tộc Giáy đều nghe và nói được tiếng
Tiếng Việt, nên việc triển khai Kế hoạch phát triển dân tộc thiểu số là khá thuận
lợi.
Hiện nay, tỉnh Lào Cai đã thực hiện cơ bản việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ
cho người dân trên địa bản tỉnh nói chung và đồng bào dân tộc Giáy nói riêng.
e) Dân tộc Nùng
Ở Lào Cai, người Nùng đã có mặt từ lâu đời, cư trú ở tất cả các huyện,
thành phố trong tỉnh, nhưng sinh sống thành cộng đồng làng bản chỉ tập trung ở
các huyện Mường Khương, Bắc Hà, Bảo Thắng, Si Ma Cai, Bảo Yên
Người Nùng chủ yếu trồng các loại cây lương thực, thực phẩm và hoa màu
trên đồng ruộng, nương rẫy, gò đồi. Cây lương thực chủ yếu là lúa, ngô. Người
Nùng Dín ở Mường Khương trồng loại lúa Séng Cù ngon, dẻo nổi tiếng khắp nơi.
Người Nùng trồng các loại cây công nghiệp, hoa màu kết hợp như đậu tương,
khoai, sắn, lạc, rau cải, su hào, bầu, bí, mướp, ớt, chuối, bưởi, đào, mận, cam,
quýt.
Đồng bào Nùng thường nuôi trâu, ngựa để cày bừa, thồ củi; lợn, gà, vịt,
ngan dùng làm thực phẩm, hoặc để bán.
Người Nùng ở Lào Cai vẫn duy trì loại hình kinh tế hái lượm và săn bắt các
sản phẩm tự nhiên sẵn có, đó là măng vầu, măng nứa, củ mài, mộc nhĩ, hoa chuối,
rau xương cá, rau dớn, rau dền dại, nấm đất, nấm hương… săn bắt châu chấu, dế,
tôm tép, cá suối, ốc, ếch, sâu măng.
Bên cạnh sản xuất nông nghiệp, người Nùng còn có một số nghề thủ công
truyền thống tiêu biểu như đan lát, mộc, tranh cắt giấy, thêu hoa văn, làm ngói
máng. Các nghề thủ công truyền thống của người Nùng tuy không có quy mô lớn
phát triển thành sản phẩm hàng hoá nhưng có vai trò quan trọng trong đời sống,
đó là đã khai thác và tận dụng được nguyên liệu vật liệu sẵn có của địa phương
tạo ra sản phẩm giảm bớt chi phí, đDTTS lại hiệu quả kinh tế tại chỗ, tranh thủ,
tận dụng thời gian rảnh rỗi tạo việc làm, tạo ra nhiều đồ dùng sinh hoạt, công cụ
lao động.
Hoạt động trao đổi, mua bán chủ yếu diễn ra ở các chợ phiên trong vùng.
Đồng bào mang các sản phẩm do mình sản xuất ra bán lấy tiền và mua về các nhu
yếu phẩm phục vụ đời sống.
13
Nhà ở của người Nùng có hai loại chính là nhà trình tường quá giang và
nhà lầu hay nhà vì.
Nhà trình tường là loại nhà chân cột bắc quá giang, xung quanh trình tường
quây kín, mái lợp gianh có độ dốc cao. Người ở tầng dưới (mặt đất), từ quá giang
lên làm sàn gác để thóc ngô, của cải. Còn nhà lầu (nhà vì) làm bằng gỗ tốt gồm 3
tầng, xung quanh có thể bưng ván hoặc trình tường. Kiến trúc làm theo kiểu tàu
gồm cột, xà, kèo nhưng luồn phang ngang dọc đảm bảo có độ bền vững cao. Người
ở tầng dưới, tầng hai để thóc ngô của cải và chỗ ngủ cho khách, tầng ba để thóc
ngô giống và đồ dùng ít sử dụng. Mái nhà chủ yếu được lợp bằng ngói máng. Sau
này được lợp bằng ngói đất nung hoặc ngói xi măng.
Cả hai loại nhà đều có ban gian chính. Gian giữa đặt bàn thờ gia tiên có bài
trí các câu đối trang trọng, bàn ghế tiếp khách và chỗ ngủ của gia chủ, hai gian
hai bên làm buồng ngủ của con cháu, ông bà. Đối với nhà trình tường có thêm hai
chái để làm bếp và chuồng chăn nuôi trâu, ngựa, lợn, gà. Nhà ở của người Nùng
tương đối rộng rãi.
Cộng đồng, làng bản người Nùng thường sống tập trung thành làng bản.
Làng người Nùng thường lập ở dưới chân núi, phía trước có suối nước, cánh đồng
hoặc gò đồi, xung quanh có núi bao bọc. Dù ở vị trí nào cũng tuân theo nguyên
lý: trước mặt có tầm nhìn xa trông rộng, sau lưng có điểm tựa vững chắc và có
nguồn nước phục vụ sinh hoạt thuận lợi. Các gia đình trong làng bản người Nùng
nằm liền kề với nhau nhằm đoàn kết chống thú dữ, chống giặc ngoại xâm, chống
trộm cướp, đồng thời có điều kiện giúp đỡ lẫn nhau khi có người ốm đau bệnh tật,
có việc cưới xin, tang lễ, dựng nhà hoặc không may gặp hỏa hoạn…
Về ngôn ngữ giao tiếp đa số người dân tộc Nùng đều nghe và nói được tiếng
Tiếng Việt, nên việc triển khai Kế hoạch phát triển dân tộc thiểu số là khá thuận
lợi.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Lào Cai đã thực hiện cơ bản việc cấp giấy chứng
nhận QSDĐ cho người dân nói chung và đồng bào dân tộc Nùng nói riêng.
2.3. Đánh giá tác động khi triển khai thực hiện dự án
Các tác động tích cực
Qua các phương pháp điều tra, phân tích và phỏng vấn, tham vấn người
dân, nhìn chung, việc triển khai thực hiện dự án được cho rằng sẽ đDTTS lại nhiều
tác động tích cực đối với cộng đồng dân cư trong vùng dự án, trong đó có lợi ích
của cộng đồng dân tộc thiểu số, cụ thể như sau:
- Giảm thời gian hành chính và tăng hiệu quả cho người sử dụng đất:
việc thực hiện các thủ tục hành chính trên môi trường mạng internet sẽ tăng cường
tính minh bạch về thông tin trong việc kê khai, thực hiện các thủ tục của người
dân, tiết kiệm thời gian và tính hiệu quả trong việc tiếp cận với các cơ quan và
công chức nhà nước. Dựa vào các hoạt động cải cách hành chính, chi phí đi lại và
giấy tờ, cùng với các vấn đề về quan liêu và sự phiền nhiễu sẽ được giảm thiểu.
- Cải thiện môi trường kinh doanh: với sự minh bạch về thông tin đất đai
và việc tra cứu thông tin một cách thuận tiện, nhà đầu tư có thể thu được các thông
14
tin mà họ cần để phục vụ cho lô đất mà họ nhắm tới (tình trạng của lô đất, yêu cầu
và các thủ tục của hợp đồng mà không cần phải đến vị trí lô đất).
- Cải thiện thủ tục hành chính cho các dịch vụ công cộng và người sử
dụng đất hộ gia đình: Dựa vào việc chia sẻ về thông tin đất đai giữa các dịch vụ
công liên quan, như phòng công chứng, cơ quan thực thi pháp luật và cơ quan
thuế …. cho thấy sự cải thiện đáng kể trong đẩy nhanh sự phối hợp trong giải
quyết công cho người sử dụng đất. Đặc biệt, sự liên kết giữa các phòng công
chứng với nhau sẽ tránh được việc sự chồng chéo trong dịch vụ công chứng như
là công chứng viên có thể kiểm tra được lô đất đó có được công chứng tại một nơi
khác hay không trước khi họ tiến hành các dịch vụ công chứng. Điều này cũng sẽ
dẫn đến việc giảm chi phí của quá trình kiểm tra và xác mình hồ sơ vì hồ sơ đó đã
có sẵn trên hệ thống MPLIS. Những đối tượng sử dụng là hộ gia đình, cá nhân có
thể hưởng lợi từ việc liên kết giữa các Phòng công chứng vì có thể giảm thiểu rủi
ro và chi phí liên quan. Họ có thể kiểm tra về việc lô đất của họ có nằm trong khu
vực dự án, hay quy hoạch cho vùng phát triển mới hoặc trong một cuộc tranh chấp
nào đó. Điều này sẽ làm giảm tối thiểu các rủi ro trong giao dịch về đất.
Tác động tiêu cực
Dự án sẽ đặt trọng tâm vào việc cải thiện khung pháp lý, xây dựng và điều
hành MPLIS trên cơ sở dữ liệu về đất đai hiện có để quản lý đất tốt hơn và phát
triển kinh tế - xã hội. Dự án không đề xuất xây dựng bất kỳ công trình dân dụng
nào, do đó sẽ không có thu hồi đất. Sẽ không có bất kì tác động nào gây ra hạn
chế cho việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên và ngược lại, do đó, tác động
tiêu cực khi triển khai dự án hầu như không có. Tuy nhiên, sẽ phát sinh các vấn
đề thực tiễn cần giải quyết khi các thông tin liên quan đến người sử dụng đất rõ
ràng, cụ thể và minh bạch hơn như: tranh chấp đất đai; quyền và lợi ích hợp pháp
của từng chủ thể sử dụng đất khi có sự so sánh… Việc giải quyết những tác động
tiêu cực sẽ được thể hiện trong các hoạt động cụ thể tại bản Kế hoạch này để đảm
bảo việc tổ chức thực hiện.
2.4. Khung chính sách và cơ sở pháp lý
2.4.1. Quy định pháp lý hiện hành của Việt Nam đối với các nhóm dân
tộc thiểu số
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định vấn đề dân tộc, công tác dân
tộc luôn có vị trị chiến lược quan trọng. Tất cả người dân tộc ở Việt Nam đều có
đầy đủ quyền công dân và được bảo vệ bằng các điều khoản công bằng theo Hiến
pháp và pháp luật. Chủ trương, chính sách cơ bản đó là "Bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ giúp nhau cùng phát triển”, trong đó vấn đề ưu tiên là "đảm bảo phát
triển bền vững vùng DTTS và miền núi”.
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã ghi
nhận quyền bình đẳng giữa các dân tộc ở Việt Nam (Điều 5) như sau:
15
“1. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của
các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển;
nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,
chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và
văn hoá tốt đẹp của mình.
4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để
các DTTS phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.”
Hiến pháp sửa đổi qua các năm từ 1946, 1959, 1980, 1992 và đến năm 2013
đều quy định rõ “Tất cả các dân tộc là bình đẳng, thống nhất, tôn trọng và giúp đỡ
nhau để cùng phát triển; tất cả các hành vi phân biệt đối xử, phân biệt dân tộc;
DTTS có quyền sử dụng tiếng nói và chữ viết, duy trì bản sắc của dân tộc, và duy
trì phong tục, nguyên tắc và truyền thống của họ. Nhà nước thực hiện chính sách
phát triển toàn diện và tạo điều kiện thuận lợi cho người DTTS phát huy sức mạnh
nội lực để bắt kịp với sự phát triển của quốc gia”.
Các vấn đề về đất đai là bản chất chính trị và có thể gây tác động tới sự phát
triển kinh tế - xã hội của rất nhiều quốc gia, đặc biệt là những nước đang phát
triển. Chính sách đất đai có tác động rất lớn đối với sự phát triển bền vững và cơ
hội về phát triển kinh tế - xã hội cho mọi người cả ở khu vực nông thôn và thành
thị, đặc biệt là những người nghèo.
Tại Điều 53, Hiến pháp và Điều 4, Luật đất đai 2013 đã nêu rõ về vấn đề
sở hữu đất như sau: “Đất đai thuộc sở hữu của toàn dân do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng
đất theo quy định của Luật này”. Theo quy định này thì đất đai là thuộc sở hữu
của toàn dân, nhà nước đóng vai trò là đại diện chủ sở hữu để quản lý và Nhà
nước trao quyền sử dụng đất cho các đối tượng sử dụng đất (người sử dụng đất)
với các hình thức giao đất, cho thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất theo các
quy định của pháp luật về đất đai.
Điều 27, Luật Đất đai năm 2013 quy định: Nhà nước có chính sách về đất
ở, đất sinh hoạt cộng đồng cho đồng bào DTTS phù hợp với phong tục, tập quán,
bản sắc văn hóa và điều kiện thực tế của từng vùng; có chính sách tạo điều kiện
cho đồng bào DTTS trực tiếp sản xuất nông nghiệp ở nông thôn có đất để sản xuất
nông nghiệp.
Điều 28, Luật Đất đai năm 2013 quy định: Nhà nước có trách nhiệm xây
dựng, quản lý hệ thống thông tin đất đai và bảo đảm quyền tiếp cận của tổ chức,
16
cá nhân đối với hệ thống thông tin đất đai; thực hiện công bố kịp thời, công khai
thông tin cho các tổ chức, cá nhân; cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong
quản lý, sử dụng đất đai có trách nhiệm tạo điều kiện, cung cấp thông tin về đất
đai cho tổ chức, cá nhân theo quy định.
Điều 43, Luật đất đai 2013 về “Lấy ý kiến về quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất” quy định: Cơ quan nhà nước lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất như được
quy định tại khỏan 1 và 2 của điều 42 của Luật này sẽ có trách nhiệm tổ chức lấy
ý kiến đóng góp của nhân dân về quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất”. Việc lấy ý
kiến của người dân sẽ được diễn ra thông qua công khai thông tin về nội dung của
quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, qua các hội nghị và tham vấn trực tiếp.
Điều 110, Luật Đất đai năm 2013 quy định miễn, giảm tiền sử dụng đất,
tiền thuê đất đối với trường hợp sử dụng đất để thực hiện chính sách nhà ở, đất ở
đối với hộ gia đình, cá nhân là DTTS ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn, vùng biên giới, hải đảo; sử dụng đất sản xuất nông nghiệp đối với hộ
gia đình, cá nhân là dân tộc thiểu số.
Theo quy định của Luật Đất đai, cộng đồng dân cư gồm cộng đồng người
Việt Nam sinh sống trên cùng địa bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân
phố và điểm dân cư tương tự có cùng phong tục, tập quán hoặc có chung dòng họ.
Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ
đường, nhà thờ họ; đất nông nghiệp quy định tại Khoản 3, Điều 131, Luật Đất đai
và đất đó không có tranh chấp, được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận
là đất sử dụng chung cho cộng đồng thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (Điều 100) và được Nhà
nước giao đất, công nhận quyền sử dụng đất để bảo tồn bản sắc dân tộc gắn với
phong tục, tập quán của các dân tộc (Điều 131), đồng thời việc giao đất, cho thuê
đất phải ưu tiên hộ gia đình, cá nhân là DTTS không có đất hoặc thiếu đất sản
xuất ở địa phương (Điều 133).
Nhà nước yêu cầu áp dụng chính sách kinh tế - xã hội cho từng vùng và
từng dân tộc, có tính đến nhu cầu cụ thể của các nhóm DTTS. Kế hoạch và chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam chú
trọng tới DTTS. Một vài chương trình chính của DTTS, như Chương trình 135
(xây dựng cơ sở hạ tầng cho khu vực nghèo, vùng xa và sâu) và Chương trình 134
(xóa nhà tạm).
2.4.2. Sự thống nhất với chính sách hoạt động của Ngân hàng thế giới về
người bản địa
Chính sách hoạt động 4.10 (cập nhật năm 2013) của Ngân hàng Thế giới
(WB) yêu cầu Bên đi vay thực hiện một quá trình tham vấn tự do, được thông báo
trước và được thực hiện trước khi tiến hành dự án với người dân bản địa khi người
17
dân bản địa bị ảnh hưởng bởi dự án. Mục đích của việc tham vấn này là nhằm
tránh hoặc giảm đến mức tối thiểu những tác động xấu của dự án đến người DTTS
và để đảm bảo các hoạt động của dự án phù hợp với văn hóa và phong tục của địa
phương. Khuyến khích việc ra quyết định của địa phương và sự tham gia của cộng
đồng trong khuôn khổ quy định pháp luật của Việt Nam về phân cấp và về đất đai
phù hợp với chính sách của Ngân hàng thế giới.
Chính sách an toàn của Ngân hàng thế giới chỉ rõ người dân bản địa là nhóm
(a) tự xác định là những thành viên của nhóm văn hóa bản địa riêng biệt và điều
đó được những nhóm khác công nhận; (b) cùng chung môi trường sống riêng biệt
về mặt địa lý hoặc cùng lãnh thổ của tổ tiên trong khu vực dự án và cùng chung
nguồn tài nguyên thiên nhiên trong những môi trường và lãnh thổ này; (c) thể chế
về văn hóa theo phong tục tập quán riêng biệt so với xã hội và văn hóa chủ đạo;
và (d) một ngôn ngữ bản địa, thường là khác với ngôn ngữ chính thức của đất
nước hoặc của vùng.
Trong phạm vi triển khai dự án VILG, các nhóm dân tộc thiểu số tại các địa
bàn triển khai dự án có khả năng nhận được lợi ích lâu dài từ việc được truyền
thông để nhận thức được các quy định của pháp luật cho đến việc được tiếp cận
với các thông tin đất đai và các dịch vụ đất đai. Việc xây dựng kế hoạch phát triển
DTTS (DTTSDP) là hành động để giảm thiểu các tác động tiềm tàng có thể xảy
ra trong quá trình triển khai các hoạt động của dự án. Đảm bảo công cuộc giảm
ghèo và phát triển bền vững, đồng thời, tôn trọng đầy đủ nhân phẩm, quyền con
người, giá trị kinh tế và bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số.
III. KẾT QUẢ THAM VẤN CỘNG ĐỒNG
3.1. Kết quả các phát hiện chính từ tham vấn về xã hội
Sở Tài nguyên và Môi trường Lào Cai đã phối hợp với các huyện vừng sâu,
vừng xa trong khu vực dự án tổ chức tham vấn người đồng bào DTTS tại 03 xã/03
huyện (xã Na Hối, huyện Bắc Hà; xã Hầu Thào, huyện Sa Pa và xã Dương Quỳ,
huyện Văn Bàn). Thông tin chi tiết về các đối tượng được tham vấn xem tại Phụ
lục 1 và Phụ lục 2
PPMU đã thực hiện tham vấn với các đối tượng: (1) làm công tác quản lý
như cán bộ các Sở, ngành, phòng tài nguyên và môi trường, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân xã, Công chức địa chính xã,… (2) Các doanh nghiệp, tổ chức sử dụng đất; và
(3) Cộng đồng DTTS với tổng số lượng Phiếu tham vấn là 50 phiếu. Kết quả tổng
hợp nội dung từ các Phiếu tham vấn cụ thể như sau:
Đơn vị tính: (%)
STT
Nội dung tham vấn
Cán bộ quản lý
Tổ chức
Đồng bào DTTS
18
Trung
bình
Trung
bình
Trung
bình
Tốt
Kém
Tốt
Kém
Tốt
Kém
Cung cấp các thông
tin đất đai của các cơ
quan đăng ký đất đai
cho người sử dụng đất
90
3
85
1
100
1
Kỹ năng ứng dụng và
2 sử dụng công nghệ
100
20
80
50
thông tin
Giải quyết các thủ tục
hành chính về đất đai
của các cơ quan đăng
10
90
3
ký đất đai
Giải quyết khiếu nại
về đất đai
90
90
90
90
85
90
15
4
Tổ chức tuyền truyền,
5 phổ biến để nâng cao
nhận thức cộng đồng
5
Ghi chú: Kết quả được lấy trên cơ sở đa số phiếu đã tổng hợp
Trên cơ sở đó khi PPMU giới thiệu về Dự án “Tăng cường quản lý đất đai
và cơ sở dữ liệu đất đai”, những mục tiêu cụ thể của dự án thì hầu hết các đối
tượng được tham vấn đều bày tỏ sự đồng tình với Dự án và mong muốn dự án
được triển khai sớm để họ được dễ dàng có được các thông tin đất đai cần thiết.
Để giảm thiểu những tác động không mong muốn của dự án về dân tộc
thiểu số, hầu hết những người được hỏi đồng ý đề xuất các biện pháp sau đây:
- Tăng cường công tác cung cấp thông tin về đất đai cho các đối tượng sử
dụng đất theo nhiều loại hình (bao gồm cả dịch vụ công) nhằm hạn chế các khiếu
nại có liên quan đến đất đai của người dân và doanh nghiệp.
- Tập trung, tuyền truyền, phổ biến đối để nâng cao nhận thức đối với những
đối tượng DTTS, người nghèo với nhiểu hình thức khác nhau phù hợp với từng
đối tượng, phong tục tập quán;
- Tập huấn kỹ năng sử dụng máy tính cho cán bộ thôn và người dân.
3.2. Khung tham vấn và phương pháp tham vấn cộng đồng
PPMU sẽ thiết lập một khung tham vấn bao gồm các vấn đề về giới và liên
thế hệ để cung cấp cơ hội tư vấn và sự tham gia của cộng đồng DTTS, tổ chức
DTTS và các tổ chức dân sự khác trong các hoạt động của dự án trong quá trình
thực hiện dự án. Khung tham vấn sẽ làm rõ (i) mục tiêu tham vấn, (ii) nội dung
tham vấn; (iii) phương pháp tham vấn; và (iv) thông tin phản hồi. Dựa trên khung
19
tham vấn, một kế hoạch tham vấn sẽ được xây dựng và triển khai như sau: (i) Mục
tiêu tham vấn và thông tin cơ bản cần có từ họ; (ii) xác định các vấn đề cần thiết
cho tham vấn; (iii) lựa chọn các phương pháp tham vấn phù hợp với mục tiêu
tham vấn và văn hóa của các nhóm DTTS; (iv) chọn địa điểm và thời gian để tham
vấn phù hợp với văn hóa và tập quán của các nhóm DTTS; (v) ngân sách để thực
hiện; (vi) thực hiện tư vấn; và (vi) sử dụng kết quả tham vấn và trả lời.
Một số phương pháp tham vấn phổ biến và hiệu quả là (i) họp cộng đồng
hoặc thảo luận nhóm (ii) phỏng vấn với các nhà cung cấp thông tin quan trọng
hoặc phỏng vấn sâu; (iii) sử dụng bảng câu hỏi có cấu trúc; (iv) Triển lãm và trình
diễn di động. Các phương pháp và ngôn ngữ được chọn sẽ phù hợp với văn hóa
và thực tiễn của cộng đồng DTTS. Ngoài ra, thời gian thích hợp sẽ được phân bổ
để có được sự hỗ trợ rộng rãi từ những người liên quan.
Các thông tin liên quan đến dự án có liên quan, đầy đủ và có sẵn (bao gồm
các tác động tiêu cực và tiềm năng) cần được cung cấp cho người DTTS theo
những cách phù hợp nhất về mặt văn hóa trong quá trình thực hiện dự án.
IV. KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI CÁC HOẠT ĐỘNG
Dựa trên kết quả tham vấn và đánh giá, một kế hoạch hành động bao gồm
các hoạt động sau đây được đề xuất để đảm bảo rằng người DTTS nhận được lợi
ích kinh tế xã hội tối đa của dự án theo cách phù hợp với văn hóa, bao gồm đào
tạo để nâng cao năng lực của các cơ quan thực hiện dự án.
- Hoạt động 1: Thiết lập nhóm tư vấn cộng đồng cấp tỉnh, nhóm tham
gia cộng đồng cấp huyện
Để xây dựng một kênh phổ biến thông tin và tiếp nhận ý kiến phản hồi của
người sử dụng đất, đặc biệt là cộng đồng DTTS, một nhóm tư vấn cộng đồng cấp
huyện cần được thành lập. Thành phần của nhóm bao gồm đại diện của Ban
DTTS, Phòng quản lý và đăng ký đất đai, Mặt trận tổ quốc, Hội phụ nữ, cán bộ
Ban QLDA tỉnh, lãnh đạo xã, cán bộ địa chính xã, Mặt trận tổ quốc xã, Hội phụ
nữ xã. UBND tỉnh Lào Cai ra quyết định thành lập nhóm và quy định cơ chế hoạt
động của nhóm. Nhiệm vụ chính của nhóm là phổ biến thông tin về dự án và thực
hiện các cuộc tham vấn với cộng đồng DTTS về các hoạt động của dự án nhằm
thu thập thông tin và ý kiến phản hồi của cộng đồng DTTS về các vấn đề chính
sau đây để cung cấp kịp thời cho Ban QLDA và các cơ quan thực hiện dự án cũng
như cộng đồng DTTS:
- Nhu cầu về thông tin đất đai của cộng đồng DTTS ở địa phương;
- Các yếu tố văn hóa và phong tục tập quán của cộng đồng DTTS cần được
quan tâm trong quá trình thực hiện các hoạt động của dự án;
20
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Kế hoạch phát triển dân tộc thiểu số cho tỉnh Lào Cai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tai_lieu_du_an_tang_cuong_quan_ly_dat_dai_va_co_so_du_lieu_d.pdf