Tài liệu Tập huấn Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TÀI LIỆU TẬP HUẤN
LUẬT THI HÀNH TẠM GIỮ, TẠM GIAM
NĂM 2015
Hà Nội, tháng 4 năm 2016
LÃNH ĐẠO VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO DUYỆT
TÀI LIỆU:
Đồng chí Lê Hữu Thể, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
ĐƠN VỊ CHỦ TRÌ XÂY DỰNG TÀI LIỆU:
Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
THÀNH VIÊN THAM GIA BIÊN SOẠN TÀI LIỆU:
1. Đồng chí Vũ Huy Thuận, Vụ trưởng Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam và thi hành án hình sự
2. Đồng chí Lương Minh Thống, Phó Vụ trưởng Vụ kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
3. Đồng chí Đặng Thị Mai Hương, Trưởng phòng kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam -Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
4. Đồng chí Hoàng Văn Long, Kiểm sát viên cao cấp, Phó Trưởng
phòng kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam -Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
và thi hành án hình sự
5. Đồng chí Lại Thị Thu Hà, Trưởng phòng Quản lý khoa học và tổng
hợp - Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học
6. Đồng chí Hoàng Anh Tuyên, Trưởng phòng Pháp luật hình sự - Vụ
Pháp chế và Quản lý khoa học
ĐƠN VỊ THẨM ĐỊNH TÀI LIỆU:
Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học
PHẦN I
MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
LUẬT THI HÀNH TẠM GIỮ, TẠM GIAM
1. SỰ CẦN THIẾT, MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT
1.1. Sự cần thiết xây dựng Luật thi hành tạm giữ, tạm giam
- Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước trong
công tác quản lý giam, giữ. Các quy định này giúp cho các cơ quan nhà
nước nhận thức đúng về vị trí, vai trò của công tác quản lý tạm giữ, tạm
giam và chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của mình góp phần bảo đảm an
ninh, trật tự an toàn xã hội, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm và
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
- Bảo đảm tốt hơn quyền con người nói chung, quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam nói riêng theo quy định của
Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp, cải cách hành chính trong tình hình mới;
- Tháo gỡ những khó khăn, hạn chế, bất cập trong công tác quản lý
giam, giữ trong giai đoạn hiện nay, bảo đảm hiệu quả công tác quản lý giam
giữ, phục tốt cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án;
- Góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm sự thống nhất và
đồng bộ với các đạo luật khác có liên quan như Bộ luật TTHS, Luật an ninh
quốc gia, Luật công an nhân dân, Luật tổ chức VKSND, Luật thi hành án
hình sự trong việc cụ thể hóa Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013;
1.2. Mục tiêu
Bảo đảm tốt hơn quyền con người nói chung, quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam nói riêng theo quy định của
Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp, cải cách hành chính trong tình hình mới; tháo gỡ những hạn
chế, vướng mắc trong công tác quản lý giam, giữ trong giai đoạn hiện nay,
bảo đảm hiệu quả công tác này trong thời gian tới, phục vụ tốt cho công tác
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
1.3. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT
- Quán triệt và thể chế hoá chủ trương, quan điểm, chính sách của
Đảng, Nhà nước về thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam; bảo đảm đồng bộ
với quá trình cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp, cải cách hành
chính ở nước ta.
1
- Tổng kết đầy đủ và toàn diện các quy định của pháp luật về thực hiện
chế độ tạm giữ, tạm giam ở nước ta trong những năm qua; kế thừa các quy
định còn phù hợp, khắc phục những tồn tại, bất cập, hạn chế, đáp ứng yêu cầu
của công tác thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam trong tình hình mới.
- Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013 về bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bảo đảm
sự thống nhất, đồng bộ với các đạo luật có liên quan như Bộ luật tố tụng hình
sự, Luật an ninh quốc gia, Luật công an nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân, Luật thi hành án hình sự...; bảo đảm các quy định của Luật thi hành
tạm giữ, tạm giam có tính khả thi.
- Tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật và thực tiễn thực hiện
chế độ tạm giữ, tạm giam của một số nước phù hợp với điều kiện thực tiễn
Việt Nam; bảo đảm phù hợp với pháp luật, thông lệ và điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên.
2. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
Theo sự phân công của Chính phủ, Bộ Công an là cơ quan được giao
chủ trì, phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao
và các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng Dự án Luật thi
hành tạm giữ, tạm giam. Nhiều hoạt động đã được triển khai để xây dựng Dự
án Luât như: nghiên cứu, rà soát các chủ trương, quan điểm, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước về thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam; tổ
chức biên dịch, nghiên cứu các điều ước quốc tế về quản lý giam, giữ mà
Việt Nam là thành viên; pháp luật về thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam của
một số nước; tổng kết thực tiễn công tác thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam
của Việt Nam từ năm 1998 đến năm 2014; xây dựng dự thảo Luật; tổ chức
hội thảo khoa học, lấy ý kiến bộ, ngành có liên quan về nội dung dự án Luật,
ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, ý kiến thẩm định của Hội đồng thẩm định
các văn bản triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, ý kiến của các thành
viên Chính phủ. Trên cơ sở đó, Bộ Công an hoàn chỉnh dự án Luật và thừa ủy
quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình Quốc hội cho ý kiến
về dự án Luật. Dự án Luật đã được Quốc hội cho ý kiến lần thứ nhất tại Kỳ
họp thứ 9 Quốc hội khóa XIII; cho ý kiến lần thứ hai và thông qua ngày
25/11/2015 tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII với tỷ lệ biểu quyết thông
qua là 88.26% trên tổng số đại biểu Quốc hội.
2
PHẦN II
NHỮNG NỘI DUNG MỚI CƠ BẢN TRONG LUẬT THI HÀNH
TẠM GIỮ, TẠM GIAM
1. Về cơ cấu, bố cục của Luật
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01
tháng 7 năm 2016 có 11 chương, 73 điều với cơ cấu, bố cục trong từng
chương như sau:
- Chương I. Quy định chung gồm 09 điều (từ Điều 1 đến Điều 9);
- Chương II. Hệ thống tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản
lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gồm 06 điều (từ Điều 10 đến Điều 15);
- Chương III. Chế độ quản lý giam giữ gồm 11 điều (từ Điều 16 đến
Điều 26);
- Chương IV. Chế độ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam gồm 05
điều (từ Điều 27 đến Điều 31);
- Chương V. Chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là
người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi gồm 04
điều (từ Điều 32 đến Điều 35);
- Chương VI. Chế độ đối với người bị kết án tử hình đang bị tạm giam
gồm 02 điều (Điều 36 và Điều 37);
- Chương VII. Bảo đảm điều kiện quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam
gồm 04 điều (từ Điều 38 đến Điều 41);
- Chương VIII. Kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gồm 02
điều (Điều 42 và Điều 43);
- Chương IX. Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gồm 2 mục với 18 điều (từ Điều 44 đến
Điều 61), cụ thể: Mục 1. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong quản lý, thi
hành tạm giữ, tạm giam gồm 12 điều (từ Điều 44 đến Điều 55); Mục 2. Tố
cáo và giải quyết tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gồm 06
điều (từ Điều 56 đến Điều 61).
- Chương X. Trách nhiệm trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam
gồm 10 điều (từ Điều 62 đến Điều 71)
- Chương XI. Điều khoản thi hành gồm 02 điều (Điều 72 và Điều 73).
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam có các nội dung mới cơ bản như sau:
3
2. Về tên gọi của dự án Luật
Theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015 thì tên gọi của
dự án là Luật tạm giữ, tạm giam. Quá trình xây dựng Dự án Luật, có nhiều ý
kiến đề nghị lấy tên gọi khác nhau như: Luật tổ chức và thi hành tạm giữ, tạm
giam; Luật hoạt động tạm giữ, tạm giam hay Luật thi hành và quản lý việc
tạm giữ, tạm giam. Tuy nhiên, phạm vi điều chỉnh của Luật này là trình tự,
thủ tục thi hành và các điều kiện bảo đảm thi hành quyết định tạm giữ, lệnh
tạm giam, quyết định tạm giam; quyền, nghĩa vụ, chế độ của người bị tạm
giữ, người bị tạm giam; tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi
hành tạm giữ, tạm giam. Luật này không quy định về căn cứ, trình tự, thủ tục,
thẩm quyền ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam, quyết định tạm giam (do
những nội dung này thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật tố tụng hình sự).
Vì vậy, nếu lấy tên gọi là Luật tạm giữ, tạm giam thì không phù hợp với
phạm vi điều chỉnh của dự án Luật và không phân biệt được với phạm vi điều
chỉnh của Bộ luật tố tụng hình sự. Hơn nữa, Luật Thi hành án hình sự, Luật
thi hành án dân sự đều quy định về mô hình, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn,
cơ sở vật chất của các cơ quan thi hành án. Do đó, Quốc hội quyết định điều
chỉnh tên gọi dự án Luật là Luật thi hành tạm giữ, tạm giam để bảo đảm tính
chính xác, phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Dự án Luật.
3. Về quy định chung
3.1. Về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
- Phạm vi điều chỉnh: Quá trình xây dựng Dự án Luật, có ý kiến đề
nghị mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật theo hướng quy định về chế độ
quản lý tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự và chế độ quản lý tạm giữ
hành chính theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, qua
thảo luận, đa số ý kiến cho rằng tạm giữ hình sự khác với tạm giữ hành chính
về tính chất, mức độ ngăn chặn và về chế độ quản lý nên không thể điều
chỉnh chung trong cùng một Luật. Do vậy, Luật này chỉ quy định về chế độ
quản lý tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự, còn chế độ quản lý tạm giữ
hành chính đã được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật chuyên ngành khác.
Trên cơ sở đó, phạm vi điều chỉnh của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy
định là nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành tạm giữ, tạm giam; tổ chức,
nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý thi hành tạm giữ, tạm giam; trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan trong thi hành tạm giữ, tạm giam.
- Đối tượng áp dụng: bao gồm người bị tạm giữ, tạm giam; cơ quan
người có thẩm quyền quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; cơ quan điều tra,
4
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Viện kiểm
sát nhân dân; Tòa án nhân dân; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
3.2. Về giải thích từ ngữ
- Về người bị tạm giữ, người bị tạm giam: Bộ luật tố tụng hình sự quy
định khái niệm người bị tạm giữ, người bị tạm giam dưới góc độ địa vị pháp
lý của họ trong tố tụng hình sự, trên cơ sở đó quy định quyền và nghĩa vụ tố
tụng của người bị tạm giữ, người bị tạm giam. Còn Luật thi hành tạm giữ,
tạm giam quy định khái niệm người bị tạm giữ, người bị tạm giam dưới góc
độ là những người đang bị quản lý tại các cơ sở giam giữ, để xác định chế độ
quản lý đối với họ và xác định quyền và nghĩa vụ của họ trong quản lý tạm
giữ, tạm giam. Trên cơ sở đó, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định khái
niệm người bị tạm giữ, người bị tạm giam như sau:
Người bị tạm giữ là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời
hạn tạm giữ, gia hạn tạm giữ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự. Người bị tạm giam là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời
hạn tạm giam, gia hạn tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự,
bao gồm bị can; bị cáo; người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà
bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án; người bị tạm
giam để thực hiện việc dẫn độ.
- Chế độ tạm giữ, tạm giam là chế độ quản lý giam giữ người bị tạm giữ,
người bị tạm giam và chế độ ăn, ở, mặc, tư trang, chăm sóc y tế, sinh hoạt tinh
thần, gửi, nhận thư, nhận quà, nhận sách, báo và tài liệu, gặp thân nhân, người
bào chữa, tiếp xúc lãnh sự của người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
- Cơ sở giam giữ là nơi tổ chức giam giữ, quản lý người bị tạm giữ,
người bị tạm giam, bao gồm trại tạm giam, nhà tạm giữ, buồng tạm giữ thuộc
đồn biên phòng.
- Trích xuất là việc đưa người bị tạm giữ, người bị tạm giam ra khỏi cơ
sở giam giữ trong thời gian nhất định theo lệnh, quyết định của cơ quan,
người có thẩm quyền để thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự; khám bệnh,
chữa bệnh, thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự, thực hiện quyền, nghĩa vụ khác do luật
định.
- Thân nhân của người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người có quan
hệ ông bà nội, ông bà ngoại; bố mẹ đẻ, bố mẹ nuôi, bố mẹ vợ, bố mẹ chồng;
vợ, chồng; anh chị em ruột hoặc con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể với người
bị tạm giữ, người bị tạm giam; cháu ruột với người bị tạm giữ, người bị tạm
giam mà người bị tạm giữ, người bị tạm giam là ông bà nội, ông bà ngoại.
5
Cần lưu ý: thân nhân của người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam có phạm vi hẹp hơn so với người thân thích
của người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong Bộ luật tố tụng hình sự. Đối
tượng là thân nhân được mặc nhiên thăm gặp người bị tạm giữ, người bị tạm
giam; còn những người khác không phải là thân nhân muốn gặp người bị tạm
giữ, người bị tạm giam thì phải được cơ quan đang thụ lý vụ án đồng ý.
3.3. Về nguyên tắc và những hành vi bị nghiêm cấm (Điều 4, Điều 8)
Theo quy định tại Điều 4, quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam phải
tuân thủ các nguyên tắc sau đây: Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm
lợi ích của Nhà nước, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân; bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh lệnh, quyết định về tạm giữ,
tạm giam, trả tự do của cơ quan, người có thẩm quyền; tổ chức, thực hiện
quản lý giam giữ nghiêm ngặt và chịu sự kiểm soát, giám sát chặt chẽ của cơ
quan, người có thẩm quyền; bảo đảm nhân đạo; không tra tấn, truy bức, dùng
nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam; bảo đảm cho người bị tạm
giữ, người bị tạm giam thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ của
công dân nếu không bị hạn chế bởi Luật này và luật khác có liên quan; áp
dụng các biện pháp quản lý giam giữ phải căn cứ vào tính chất, mức độ của
hành vi phạm tội, độ tuổi, giới tính, sức khỏe; bảo đảm bình đẳng giới, quyền,
lợi chính đáng của phụ nữ, trẻ em và các đặc điểm nhân thân khác của người
bị tạm giữ, người bị tạm giam
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về bảo đảm quyền con người,
quyền công dân, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ,
người bị tạm giam trong quản lý giam giữ; đồng thời, để bảo đảm việc quản
lý, thi hành tạm giữ, tạm giam tuân thủ đúng quy định của pháp luật, bảo đảm
hiệu quả của công tác quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, đáp ứng yêu cầu
điều tra, truy tố, xét, xử và thi hành án, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy
định các hành vi bị nghiêm cấm đối với ba nhóm người: (1) những người có
thẩm quyền, trách nhiệm trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; (2) người
bị tạm giữ, người bị tạm giam; (3) thân nhân của người bị tạm giữ, người bị
tạm giam và những người khác ở ngoài xã hội. Cụ thể các hành vi nghiêm
cấm bao gồm:
1. Tra tấn, truy bức, dùng nhục hình; các hình thức đối xử, trừng phạt
tàn bạo, vô nhân đạo, hạ nhục con người hoặc bất kỳ hình thức nào khác xâm
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
6
2. Không chấp hành lệnh, quyết định của cơ quan, người có thẩm
quyền về tạm giữ, tạm giam, trả tự do.
3. Giam giữ người trái pháp luật; trả tự do trái pháp luật người bị tạm
giữ, người bị tạm giam; vi phạm quy định trong quản lý, canh gác, áp giải
người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
4. Cản trở người bị tạm giữ, người bị tạm giam thực hiện quyền thăm
gặp thân nhân, quyền bào chữa, được trợ giúp pháp lý, tiếp xúc lãnh sự, khiếu
nại, tố cáo, quyền con người, quyền và nghĩa vụ khác của công dân theo quy
định của Luật này và luật khác có liên quan.
5. Phá hủy cơ sở giam giữ, huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của
cơ sở giam giữ; tổ chức trốn hoặc trốn khỏi nơi giam giữ; tổ chức trốn hoặc
trốn khi đang bị áp giải; đánh tháo người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
6. Không chấp hành nội quy của cơ sở giam giữ, chế độ quản lý giam
giữ hoặc quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền quản lý, thi
hành tạm giữ, tạm giam.
7. Thực hiện hoặc tổ chức, kích động, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, giúp
sức, che giấu, ép buộc người khác vi phạm pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm
giam; trả thù, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản
của người khác trong thi hành tạm giữ, tạm giam.
Lưu ý trong công công tác kiểm sát: Đối tượng của công tác kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam là cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quản
lý, thi hành tạm giữ, tạm giam. Trên cơ sở các nguyên tắc thực hiện chế độ
tạm giữ, tạm giam và những hành vi bị nghiêm cấm, tại các Chương III,
Chương IV, Chương V, Chương VI đã quy định cụ thể về chế độ quản lý
giam giữ, chế độ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, chế độ đối với
người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai
hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi và chế độ đối với người bị kết án tử hình
đang bị tạm giam. Vì vậy, công tác kiểm sát góp phần bảo đảm thực hiện
nghiêm chỉnh các nguyên tắc, những hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý,
thi hành tạm giữ, tạm giam của cơ quan và người có thẩm quyền.
Ví dụ như: Đối với quyền được trợ giúp pháp lý, Luật quy định nguyên
tắc bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý, nghiêm cấm cản trở quyền được
trợ giúp pháp lý, giải thích hướng dẫn cho người bị tạm giữ, tạm giam, các
đương sự biết để họ thực hiện quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý. Điều 72
của Bộ luật TTHS 2015, quy định đối với người thuộc diện được trợ giúp
pháp lý là: Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất
7
của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; người bị buộc tội có
nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về
tâm thần hoặc là người chưa thành niên thì Trung tâm trợ giúp pháp lý phải cử
người bào chữa cho họ theo chỉ định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng.Điều 77 Bộ luật TTHS 2015 quy định: Điều tra viên phải cùng người bào
chữa trực tiếp gặp người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để xác nhận việc từ chối -
nhằm bảo đảm tính minh bạch, khách quan khi người bị bắt, bị tạm giữ, tạm
giam thể hiện nguyện vọng đồng ý hoặc từ chối người bào chữa…
3.4. Về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam
- Pháp luật hiện hành: quy định tản mạn và chưa đầy đủ quyền và
nghĩa vụ người bị tạm giữ, người bị tạm giam. Do vậy, có nhiều vướng mắc
trong thực tiễn thi hành công tác tạm giữ, tạm giam, dẫn đến chưa bảo đảm
tốt quyền của người bị tạm giữ, tạm giam mà họ đáng được hưởng.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: quy định cụ thể về quyền và nghĩa
vụ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong quản lý giam giữ. Tuy
nhiên, đây là vấn đề khó về kỹ thuật lập pháp. Trong quá trình xây dựng dự
án Luật, có ý kiến cho rằng dự án Luật chỉ nên quy định quyền mà người bị
tạm giữ, người bị tạm giam bị hạn chế, còn các quyền khác không bị hạn chế
thì họ đương nhiên được hưởng theo quy định của pháp luật có liên quan. Ý
kiến khác đề nghị quy định cụ thể trong dự án Luật người bị tạm giữ, người
bị tạm giam được hưởng những quyền gì và bị hạn chế những quyền gì.
Qua nghiên cứu, thảo luận Quốc hội cho rằng, quyền và nghĩa vụ của
người bị tạm giữ, người bị tạm giam hiện nay được quy định ở nhiều văn bản
pháp luật khác nhau và cũng đang có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với
quy định của Hiến pháp năm 2013, như Luật khám, chữa bệnh quy định về
việc không cấp chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh cho người đang
bị truy cứu trách nhiệm hình sự (trong đó có người bị tạm giữ, người bị tạm
giam); Luật việc làm quy định về chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp đối với
người đang bị tạm giam; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân mới bổ sung quy định về quyền bầu cử của người bị tạm giữ, người
bị tạm giam; Luật Bảo hiểm xã hội quy định về việc tạm dừng đóng bảo hiểm
xã hội bắt buộc đối với người bị tạm giam... Do đó, việc liệt kê tất cả các
quyền của người bị tạm giữ, người bị tạm giam được hưởng hoặc bị hạn chế
đã được quy định trong các luật, bộ luật hiện hành vào Luật thi hành tạm giữ,
tạm giam là không khả thi, dẫn đến trùng lặp, chồng chéo và cũng không bảo
đảm tính linh hoạt khi phải sửa đổi, bổ sung.
8
Trên cơ sở đó, Điều 9 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã quy định cụ
thể về những quyền cơ bản nhất của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, còn
một số quyền khác được quy định mang tính nguyên tắc được thực hiện nếu
không bị hạn chế bởi Luật này hoặc các Luật khác có liên quan; trong đó đã
bổ sung một số quyền quan trọng cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam
như: được phổ biến các quyền và nghĩa vụ của mình (điểm a khoản 1); Được
hướng dẫn, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa, nhờ người
bào chữa, trợ giúp pháp lý (điểm đ khoản 1); Được gặp người đại diện hợp
pháp để thực hiện giao dịch dân sự” (điểm e khoản 1); Được yêu cầu trả tự do
khi hết thời hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam (điểm g khoản 1).
Việc quy định quyền của người bị tạm giữ, tạm giam như trong Điều 9
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, đồng thời, xác định rõ các biện pháp để bảo
đảm quyền của người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong Luật này là một
bước tiến bộ mới của pháp luật nước ta trong tiến trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cụ thể hóa yêu cầu của Hiến pháp về tôn trọng,
bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; quyền con người, quyền
công dân chỉ bị hạn chế bởi luật trong các trường hợp cần thiết vì lý do an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Quy định quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam
trong Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã có sự phân biệt với người chấp
hành án phạt tù, chẳng hạn như: người chấp hành án phạt tù phải lao động,
học tập…; còn người bị tạm giữ, người bị tạm giam không có các nghĩa vụ
này. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam có quyền bầu cử; người chấp hành
án phạt tù không có quyền này…
Cần lưu ý là: Quyền bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân, quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân của người bị tạm giữ, tạm giam đã
được quy định trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân, Luật trưng cầu ý dân, có hiệu lực từ 01/9/2015.
4. Về hệ thống tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thực hiện
chế độ tạm giữ, tạm giam
- Pháp luật hiện hành: chưa có quy định cụ thể về cơ quan quản lý, cơ
quan thi hành trong tạm giữ, tạm giam.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: Quá trình xây dựng Luật, có ý kiến
đề nghị giao 04 trại tạm giam thuộc Bộ Công an cho Tổng cục Cảnh sát và
Tổng cục An ninh quản lý để vừa phục vụ tốt cho hoạt động điều tra, vừa bảo
đảm hoạt động độc lập của cơ sở giam giữ với các đơn vị điều tra của Bộ. Có
ý kiến đề nghị giao các trại tạm giam thuộc Bộ Công an cho Cơ quan quản lý
9
thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp quản lý. Cũng có ý kiến cho rằng, cần tổ
chức lại nhà tạm giữ, trại tạm giam theo hệ thống dọc do Bộ Công an quản lý
từ Trung ương tới địa phương để bảo đảm tính độc lập và tính thống nhất về
tổ chức, tránh việc cơ quan điều tra có thể lợi dụng việc quản lý để dẫn đến
tình trạng bức cung, dùng nhục hình.
Qua khảo sát thực tiễn tại một số nhà tạm giữ, trại tạm giam cho thấy,
trại tạm giam, nhà tạm giữ ở các tỉnh, huyện đang do cơ quan quản lý thi
hành án và hỗ trợ tư pháp Công an cấp tỉnh, cấp huyện quản lý, về cơ bản đã
tách khỏi hệ thống cơ quan điều tra cùng cấp. Riêng đối với 04 Trại tạm giam
thuộc Bộ Công an hiện nay đang do Cơ quan Cảnh sát điều tra, Cơ quan An
ninh điều tra, Bộ Công an quản lý, tiếp thu ý kiến của Đại biểu Quốc hội,
Luật đã quy định theo hướng tách các cơ sở giam giữ này ra khỏi cơ quan
điều tra và thuộc Bộ Công an (điểm a, Khoản 1 Điều 11; giao cho Tổng cục
cảnh sát và Tổng cục an ninh trực tiếp quản lý về hệ thống tổ chức, cán bộ và
kinh phí hoạt động, do 01 đồng chí Phó Tổng cục trưởng không phải là thủ
trưởng cơ quan điều tra phụ trách) để vừa tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động điều tra, khám phá tội phạm, nhất là những tội phạm về an ninh quốc
gia, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, vừa bảo đảm hoạt động độc lập của
cơ sở giam giữ với các đơn vị điều tra của Bộ. Thẩm quyền về quản lý tạm
giữ, tạm giam vẫn thuộc cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam thuộc Bộ Công
an. Trên cơ sở đó, kế thừa quy định hiện hành về hệ thống tổ chức của các
trại tạm giam, nhà tạm giữ trong Công an nhân dân, trong Quân đội nhân dân
và buồng tạm giữ thuộc Đồn biện phòng; đồng thời, để phù hợp với quy định
của Luật thi hành án hình sự, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã quy định về
hệ thống tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan quản lý, thi hành tạm giữ,
tạm giam thuộc Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, buồng tạm giữ thuộc
đồn biên phòng và nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này tại Chương II,
gồm 6 điều (từ Điều 10 đến Điều 15). Trong đó, có các nội dung mới như
sau:
4.1. Về hệ thống tổ chức cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam trong
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân (khỏan 1 Điều 10), gồm:
- Cơ quan quản lý thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp thuộc Bộ Công
an thực hiện quản lý tạm giữ, tạm giam trong phạm vi cả nước;
- Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương thực hiện quản lý tạm giữ, tạm giam trong địa bàn tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương;
10
- Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản
lý tạm giữ, tạm giam trong địa bàn huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương;
- Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Quốc phòng thực hiện
quản lý tạm giữ, tạm giam (sau đây gọi là cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam
thuộc Bộ Quốc phòng);
- Cơ quan thi hành án hình sự quân khu và tương đương thực hiện quản
lý tạm giữ, tạm giam đối với trại tạm giam, nhà tạm giữ khu vực thuộc phạm
vi quản lý;
- Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng cấp tỉnh thực hiện quản lý tạm giữ đối
với Buồng tạm giữ của đồn biên phòng.
4.2. Về hệ thống tổ chức cơ quan thi hành tạm giữ, tạm giam (khoản
1 Điều 11), gồm:
- Trại tạm giam thuộc Bộ Công an;
- Trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng;
- Trại tạm giam Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau
đây gọi chung là trại tạm giam Công an cấp tỉnh); Trại tạm giam thuộc quân
khu và tương đương (sau đây gọi chung là trại tạm giam cấp quân khu);
- Nhà tạm giữ Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành
phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là nhà tạm giữ
Công an cấp huyện); Nhà tạm giữ Cơ quan điều tra hình sự khu vực trong
Quân đội nhân dân;
- Buồng tạm giữ của đồn biên phòng ở hải đảo, biên giới xa trung tâm
hành chính cấp huyện.
4.3. Về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam
(Điều 12), gồm:
- Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam thuộc
Bộ Công an, Bộ Quốc phòng: (1) Giúp Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 63 và Điều 64
của Luật này; (2) Tổ chức triển khai thi hành pháp luật về thi hành tạm giữ,
tạm giam; (3) Chỉ đạo nghiệp vụ, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật về
thi hành tạm giữ, tạm giam; (4) Quyết định việc điều chuyển người bị tạm
giữ, tạm giam giữa các cơ sở giam giữ; (5) Thanh tra, kiểm tra về tạm giữ,
tạm giam theo thẩm quyền; (6) Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo về thi
11
hành tạm giữ, tạm giam; (7) Tổng kết công tác thi hành tạm giữ, tạm giam;
(8) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác do Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng giao.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam cấp
tỉnh, cấp quân khu: (1) Giúp Giám đốc Công an cấp tỉnh, thủ trưởng cấp quân
khu quản lý công tác thi hành tạm giữ, tạm giam trên địa bàn; (2) Tổ chức thi
hành pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; (3) Chỉ đạo nghiệp vụ và kiểm
tra công tác thi hành tạm giữ, tạm giam đối với trại tạm giam, nhà tạm giữ;
(4) Quyết định việc điều chuyển người bị tạm giữ, tạm giam giữa các cơ sở
giam giữ trong phạm vi tỉnh, quân khu; (5) Thanh tra, kiểm tra về tạm giữ,
tạm giam theo thẩm quyền; (6) Tổng kết công tác thi hành tạm giữ, tạm giam
và thực hiện chế độ thống kê, báo cáo về công tác tạm giữ, tạm giam theo
hướng dẫn của cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ
Quốc phòng.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam thuộc
Công an cấp huyện, Cơ quan điều tra hình sự khu vực trong Quân đội nhân
dân: (1) Giúp Trưởng Công an cấp huyện, thủ trưởng Cơ quan điều tra hình
sự khu vực quản lý công tác thi hành tạm giữ, tạm giam trên địa bàn; (2) Chỉ
đạo nghiệp vụ và kiểm tra công tác thi hành tạm giữ, tạm giam đối với nhà
tạm giữ; (3) Tổng kết công tác thi hành tạm giữ, tạm giam và thực hiện chế
độ thống kê, báo cáo theo hướng dẫn của cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam
cấp trên; (4) Trực tiếp quản lý nhà tạm giữ thuộc Công an cấp huyện, Cơ
quan điều tra hình sự khu vực trong Quân đội nhân dân.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng cấp tỉnh: (1)
Chỉ đạo nghiệp vụ và kiểm tra công tác thi hành tạm giữ đối với buồng tạm
giữ của đồn biên phòng; (2) Tổng kết công tác thi hành tạm giữ và thực hiện
chế độ thống kê, báo cáo
4.4. Về quy định buồng tạm giữ thuộc đồn biên phòng
- Pháp luật hiện hành: quy định Buồng tạm giữ ở đồn biên phòng do
Đồn trưởng đồn biên phòng trực tiếp quản lý và chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Đồn trưởng đồn biên phòng trong việc quản lý tạm giữ.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: quy định mới về chức danh:
“Trưởng buồng tạm giữ” thuộc đồn biên phòng; Trưởng buồng tạm giữ chịu
sự quản lý trực tiếp của Đồn trưởng đồn biên phòng và nhiệm vụ, quyền hạn
của Trưởng buồng tạm giữ trong quản lý người bị tạm giữ như Trưởng nhà
tạm giữ theo quy định tại khoản 3 Điều 13 của Luật thi hành tạm giữ, tạm
giam (khoản 2 Điều 15).
12
4.5. Về cơ cấu, tổ chức của nhà tạm giữ, trại tạm giam
- Pháp luật hiện hành: chưa có quy định cụ thể về “buồng kỷ luật” có
trong cơ cấu, tổ chức của nhà tạm giữ, trại tạm giam.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: không chỉ quy định nhà tạm giữ,
trại tạm giam có “buồng kỷ luật” mà còn quy định nhà tạm giữ có các công
trình phục vụ việc quản lý giam giữ, hoạt động tố tụng hình sự. Theo đó, tùy
quy mô giam giữ, nhà tạm giữ, trại tạm giam có thể có các công trình phục vụ
sinh hoạt, chăm sóc y tế, giáo dục người bị tạm giữ, người bị tạm giam, thi
hành án phạt tù; có các công trình làm việc, sinh hoạt của sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức công tác tại nhà
tạm giữ, trại tạm giam. Bên cạnh đó, Luật còn quy định phòng làm việc của
cơ quan, người tiến hành tố tụng, người bào chữa được thiết kế, xây dựng bảo
đảm an toàn, đáp ứng yêu cầu điều tra, xử lý vụ án và bào chữa. Đây là quy
định mới, tiến bộ của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam so với quy định của
các văn bản pháp luật trước đây nhằm phòng ngừa, hạn chế tình trạng bức
cung, dùng nhục hình.
4.6. Về nhiệm vụ, quyền hạn của nhà tạm giữ, trại tạm giam
- Pháp luật hiện hành: Chưa quy định rõ và cụ thể về nhiệm vụ, quyền
hạn của nhà tạm giữ, trại tạm giam; chưa rõ về việc chịu trách nhiệm của thủ
trưởng cơ sở giam giữ, của người thi hành tạm giữ, tạm giam về hành vi, quyết
định của mình trong việc chấp hành pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của
nhà tạm giữ, trại tạm giam (khoản 1 Điều 13) và phân biệt với nhiệm vụ,
quyền hạn của Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam (khoản 3 Điều 13).
- Bổ sung nhiệm vụ của nhà tạm giữ Công an cấp huyện “có nhiệm vụ,
quyền hạn tiếp nhận, quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm nhân” (khoản 2
Điều 13).
- Quy định cụ thể về trách nhiệm của Trưởng nhà tạm giữ, Phó Trưởng
nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam, Phó giám thị trại tạm giam, người thi
hành tạm giữ, tạm giam: “... phải chịu trách nhiệm về hành vi, quyết định của
mình trong việc chấp hành pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; nếu vi
phạm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự” (khoản 5 Điều 13).
- Sửa đổi quy định: “Trường hợp cơ quan đang thụ lý vụ án không giải
quyết các trường hợp hết hạn tạm giữ, tạm giam thì kiến nghị ngay lên cấp
trên có thẩm quyền của cơ quan đó giải quyết” thành quy định: “Trường hợp
13
hết thời hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam, cơ quan đang thụ lý vụ án không
giải quyết thì kiến nghị ngay Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền kiểm
sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam xử lý” (điểm h khoản 1 Điều 13).
5. Về chế độ quản lý tạm giữ, tạm giam (Chương III: Điều 16 đến
Điều 26)
- Pháp luật hiện hành: quy định tản mạn và chưa đầy đủ về chế độ
quản lý tạm giữ, tạm giam
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: kế thừa các quy định cũ, pháp điển
hóa và bổ sung đầy đủ các quy định về chế độ quản lý tạm giữ, tạm giam. Cụ
thể như sau:
5.1. Về tiếp nhận, hồ sơ quản lý người bị tạm giữ, người bị tạm giam
- Sửa đổi thẩm quyền của Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam
thành thẩm quyền của nhà tạm giữ, trại tạm giam.
- Bổ sung quy định về trách nhiệm của Thủ trưởng cơ sở giam giữ khi
tiếp nhận người bị tạm giữ, người bị tạm giam: tổ chức khám sức khỏe, kiểm
tra thân thể của trẻ em dưới 36 tháng tuổi đi theo (nếu có) (khoản 2 Điều 16);
phổ biến, hướng dẫn, giải thích quyền, nghĩa vụ của người bị tạm giữ, tạm
giam (khoản 4 Điều16).
Pháp điển hóa và quy định cụ thể, đầy đủ về quy trình tiếp nhận người
bị tạm giữ, tạm giam (Điều 16), hồ sơ quản lý tạm giữ, tạm giam (Điều 17).
Đây là quy định tiến bộ, tạo điều kiện cho cơ sở giam giữ thực thi pháp luật,
quản lý hồ sơ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam được đầy đủ, đúng
quy định của pháp luật, phục vụ tốt cho công tác điều tra, truy tố, xét xử.
5.2. Về phân loại quản lý người bị tạm giữ, người bị tạm giam
- Pháp luật hiện hành: Chưa quy định đầy đủ về đối tượng được phân
loại quản lý, bố trí theo khu.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: quá trình xây dựng dự án Luật, có ý
kiến cho rằng cần duy trì chế độ giam riêng giữa nam và nữ, giữa người chưa
thành niên với người đã thành niên, giữa những người trong cùng một vụ án,
nhưng cũng cần quy định cơ chế linh hoạt cho phép Nhà tạm giữ, trại tạm
giam phối hợp với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xử lý trong một số trường
hợp đặc biệt, quyết định việc giam giữ chung đối với người trong cùng một
vụ án hoặc người đã thành niên với người chưa thành niên trong các tình
huống cụ thể mà thực tiễn đã phát sinh.
14
Qua khảo sát thực tiễn về công tác tạm giữ, tạm giam tại một số địa
phương thời gian qua cho thấy, hầu hết các nhà tạm giữ của Công an cấp
huyện cũng như buồng tạm giữ trong Trại tạm giam đều có số lượng phòng
hạn chế, trong khi đó một số vụ án có số người bị tạm giữ, tạm giam đông thì
việc quy định không tạm giữ, tạm giam chung những người trong cùng một
vụ án trong mọi trường hợp là rất khó khả thi. Bên cạnh đó, người bị tạm giữ,
người bị tạm giam là người chưa thành niên khi mới bị tạm giữ, tạm giam
thường có biểu hiện tâm lý không ổn định thì Nhà tạm giữ, Trại tạm giam vẫn
cần bố trí một đến hai người đã thành niên chấp hành tốt kỷ luật, nội quy tạm
giữ, tạm giam cùng sinh hoạt với họ để kiểm soát hành vi, khuyên răn, tránh
việc họ tự sát hoặc tự gây thương tích cho mình.
Do đó, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã quy định người bị tạm giữ,
người bị tạm giam được bố trí theo khu và kế thừa các quy định cũ, pháp điển
hóa và bổ sung mới 02 đối tượng trong 12 đối tượng được phân loại quản lý,
bố trí theo khu: người thường xuyên vi phạm nội quy của cơ sở giam giữ”
(điểm l khoản 1 Điều 18); và “người có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần hoặc
một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
của mình nhưng chưa được giám định, đang chờ kết quả giám định hoặc đang
chờ đưa đi cơ sở bắt buộc chữa bệnh” (điểm m khoản 1 Điều 18). Không
giam giữ chung buồng những người trong cùng một vụ án đang trong giai
đoạn điều tra, truy tố, xét xử (khoản 2 Điều 18). Bên cạnh đó, để tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc trong điều kiện thực tế của cơ sở giam giữ
không thể đáp ứng được yêu cầu giam giữ riêng. Luật thi hành tạm giữ, tạm
giam quy định: “Trong trường hợp đặc biệt, do điều kiện thực tế mà nhà tạm
giữ, trại tạm giam không thể đáp ứng được yêu cầu giam giữ riêng hoặc để
bảo đảm yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử, bảo đảm an toàn cho người bị tạm
giữ, người bị tạm giam thì Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam,
Trưởng buồng tạm giữ đồn biên phòng phối hợp với cơ quan đang thụ lý vụ
án quyết định bằng văn bản những người được giam giữ chung” (khoản 3
Điều 18). Đồng thời, để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và bất cập trong
điều kiện buồng giam, giữ còn hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu giam,
giữ riêng, Luật đã quy định những trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm
giam “có thể” được bố trí giam giữ ở buồng riêng bao gồm: (1) Người đồng
tính, người chuyển giới; (2) Người quy định tại các điểm e, i và m khoản 1
Điều này; (3) Phụ nữ có thai hoặc có con dưới 36 tháng tuổi ở cùng (khoản 4
Điều 18).
Trong quá trình xây dựng dự án Luật, có ý kiến đề nghị giam giữ riêng
những người cao tuổi từ 70 tuổi trở lên và người khuyết tật. Tuy nhiên, đa số
15
ý kiến cho rằng, người từ 70 tuổi trở lên là người cao tuổi, nhưng theo quy
định của pháp luật thì họ vẫn có đầy đủ khả năng nhận thức, năng lực hành
vi, năng lực chịu trách nhiệm hình sự, do đó, việc giam giữ riêng đối với họ
là không cần thiết, nhất là trong điều kiện giam giữ ở nước ta còn khó khăn.
Đối với người khuyết tật, nếu giam giữ riêng có thể dẫn đến họ gặp khó khăn
trong sinh hoạt hàng ngày, nhất là đối với những việc mà họ không thể tự
mình làm được, mà cần phải có sự hỗ trợ của người khác hoặc của cơ sở
giam giữ. Do đó, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam không quy định phân loại
để giam, giữ riêng đối với những người này.
Bên cạnh đó, cũng có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “có thể” quy định tại
khoản 4 Điều 18 (về việc bố trí giam giữ ở buồng riêng) để bảo đảm những
người này phải được giam giữ ở buồng riêng. Tuy nhiên, quy định tại Điều
18 đã cho thấy các đối tượng quy định tại khoản 4 Điều này đã được giam giữ
tại các khu riêng theo sự phân loại. Khoản 4 Điều 18 quy định về giam giữ tại
buồng riêng, theo đó không phải tất cả đối tượng quy định tại khoản này bên
cạnh việc giam giữ tại khu riêng đều phải giam ở buồng riêng trong mọi
trường hợp. Mặt khác, nếu quy định tất cả những người quy định tại khoản 4
Điều 18 đều phải được giam giữ ở buồng riêng thì thực tiễn cơ sở vật chất, kỹ
thuật của các trại tạm giam, nhà tạm giữ trên toàn quốc cũng không thể đáp
ứng được quy định này. Căn cứ vào tình hình, mức độ cụ thể của đối tượng
và điều kiện thực tế mà người đứng đầu cơ sở giam giữ cân nhắc để quyết
định giam giữ ở buồng riêng hay không. Quy định như vậy để bảo đảm việc
áp dụng linh hoạt trong các trường hợp cụ thể.
Lưu ý: Khi tiến hành kiểm sát việc phân loại giam giữ, Viện kiểm sát
cần nắm vững những trường hợp nào phải giam giữ riêng; những trường hợp
nào được coi là trường hợp đặc biệt, Thủ trưởng cơ sở giam giữ phối hợp với
cơ quan đang thụ lý vụ án quyết định bằng văn bản những người được giam
giữ chung và những trường hợp nào “có thể” được bố trí giam giữ ở buồng
riêng.
5.3. Về chế độ quản lý đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam
- Pháp luật hiện hành: Quy định tản mạn và chưa đầy đủ.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: kế thừa các quy định cũ, pháp điển
hóa và bổ sung nội dung: “Người bị tạm giữ, người bị tạm giam bị hạn chế
quyền đi lại, giao dịch, tiếp xúc, thông tin, liên lạc, tuyên truyền tín ngưỡng,
tôn giáo. Trường hợp cần thiết thực hiện giao dịch dân sự thì phải thông qua
người đại diện hợp pháp và được sự đồng ý của cơ quan đang thụ lý vụ án”
(khoản 3 Điều 19).
16
Liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý tạm giữ, tạm
giam, thẩm quyền và việc phối hợp trong việc điều chuyển người bị tạm giữ,
người bị tạm giam, Luật quy định: việc điều chuyển do thủ trưởng cơ quan
quản lý tạm giữ, tạm giam quyết định sau khi thống nhất với thủ trưởng cơ
quan đang thụ lý vụ án và thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết. Các
trường hợp cụ thể:
“a) Việc điều chuyển giữa các cơ sở giam giữ thuộc cùng một tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, quân khu và tương đương do thủ trưởng cơ
quan quản lý tạm giữ, tạm giam cấp tỉnh, cấp quân khu quyết định;
b) Việc điều chuyển giữa các cơ sở giam giữ không thuộc cùng một
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quân khu và tương đương do thủ
trưởng cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam cấp tỉnh, cấp quân khu nơi chuyển
đi quyết định sau khi thống nhất với thủ trưởng cơ quan quản lý tạm giữ, tạm
giam cấp tỉnh, cấp quân khu nơi nhận;
c) Việc điều chuyển giữa cơ sở giam giữ Công an cấp tỉnh, cấp quân
khu với cơ sở giam giữ thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng do thủ trưởng cơ
quan quản lý tạm giữ, tạm giam Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quyết định;
d) Việc điều chuyển giữa cơ sở giam giữ trong Công an nhân dân với
cơ sở giam giữ trong Quân đội nhân dân do thủ trưởng cơ quan quản lý tạm
giữ, tạm giam nơi chuyển đi quyết định sau khi thống nhất với thủ trưởng cơ
quan quản lý tạm giữ, tạm giam nơi nhận” (khoản 4 Điều 19).
5.4. Về thực hiện trích xuất người bị tạm giữ, người bị tạm giam
- Pháp luật hiện hành: Quy định tản mạn và chưa đầy đủ.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: đã cụ thể hóa và quy định bổ sung
việc cơ sở giam giữ có trách nhiệm kiểm tra, bàn giao người bị tạm giữ,
người bị tạm giam cho cơ quan, người có nhiệm vụ áp giải. Cơ quan, người
có nhiệm vụ áp giải có trách nhiệm bàn giao người được trích xuất cho người
có thẩm quyền ra lệnh trích xuất. Việc giao nhận phải được lập biên bản, có
ghi rõ tình trạng sức khoẻ của người đó và ghi sổ theo dõi. Về trách nhiệm
tiếp nhận người được trích xuất; việc quản lý và bảo đảm thực hiện chế độ ăn,
ở, sinh hoạt đối với người được trích xuất; khi chưa hết hoặc hết thời hạn
trích xuất; thời hạn trích xuất và gia hạn trích xuất… (khoản 4 Điều 20).
5.5. Về chế độ thăm gặp
- Pháp luật hiện hành: người bị tạm giữ, người bị tạm giam chỉ được
gặp thân nhân nếu được cơ quan thụ lý vụ án đồng ý. Điều này dẫn đến trong
nhiều trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam không được gặp thân
17
nhân trong quá trình bị tạm giữ, tạm giam. Không quy định cụ thể về trường
hợp người bào chữa được gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam để thực
hiện bào chữa theo quy định của pháp luật và việc thăm gặp người bị tạm giữ,
người bị tạm giam là người nước ngoài.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: quá trình xây dựng dự án Luật, có ý
kiến đề nghị giữ quy định hiện hành về việc gặp thân nhân của người bị tạm
giữ, người bị tạm giam phải được cơ quan đang thụ lý vụ án đồng ý. Tuy
nhiên, qua khảo sát thực tế tại các trại tạm giam, nhà tạm giữ cho thấy quy
định như trên là không phù hợp với tình hình thực tiễn về cải cách thủ tục
hành chính cũng như tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền
con người và trong nhiều trại tạm giam, phòng thăm gặp đã được thiết kế
vách cách ly; thân nhân, người bị tạm giữ, người bị tạm giam chỉ có thể trao
đổi qua điện thoại, được giám sát chặt chẽ nên khó xảy ra việc thông cung. Vì
vậy, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam bỏ quy định việc gặp thân nhân của
người bị tạm giữ, người bị tạm giam phải được sự cho phép của cơ quan đang
thụ lý vụ án và quy định cụ thể về số lần thăm gặp: “người bị tạm giữ được
gặp thân nhân một lần trong thời gian tạm giữ, một lần trong mỗi lần gia hạn
tạm giữ. Người bị tạm giam được gặp thân nhân một lần trong một tháng…”
(khoản 1 Điều 22).
Đối với thẩm quyền giải quyết thăm gặp, Luật thi hành tạm giữ, tạm
giam quy định: “Thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định cụ thể thời điểm thăm
gặp; thông báo cho cơ quan đang thụ lý vụ án về việc thăm gặp người bị tạm
giữ, người bị tạm giam” (khoản 2 Điều 22); “ trường hợp tăng thêm số lần
gặp hoặc người gặp không phải là thân nhân thì phải được cơ quan đang thụ
lý vụ án đồng ý” (khoản 1 Điều 22).
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định cụ thể trường hợp: “Người
bào chữa được gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam để thực hiện bào
chữa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật này tại buồng làm
việc của cơ sở giam giữ hoặc nơi người bị tạm giữ, tạm giam đang khám
bệnh, chữa bệnh; phải xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy tờ về việc bào chữa”
(khoản 3 Điều 22). Việc thăm gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam là
người nước ngoài được thực hiện theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4
Điều này (khoản 5 Điều 22).
Đồng thời, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định cụ thể các trường
hợp Thủ trưởng cơ sở giam giữ không đồng ý cho thăm gặp. Cụ thể về
trường hợp không đồng ý cho thăm gặp (khoản 4 Điều 22) như sau:
18
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Tập huấn Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tai_lieu_tap_huan_luat_thi_hanh_tam_giu_tam_giam_nam_2015.pdf