Tài liệu Tâm lý học căn bản (Phần 2)
TÂM LÝ HỌC CĂN BẢN à Chương 6. KÝ ỨC
Một giờ sau khi tham dự cuộc phỏng vấn xin việc làm, Rich đang ngồi trong một
quán cà phê khoa trương với cô bạn Laura về sự thành công nắm chắc trong tay thì
người phụ nữ đã phỏng vấn anh bước vào. Bà nói: "A, chào Rich. Anh khỏe chứ?" Cố
gắng tạo ấn tượng tốt đẹp, Rích định giới thiệu Laura với bà, nhưng lại chợt nhận ra
anh không nhớ người phụ nữ phỏng vấn anh tên là gì. Ấp a ấp úng, anh cuống cuồng
lùng sục tên bà ta trong ký ức nhưng không tài nào nhớ ra được. Anh tự nhủ: “Mình
biết tên bà ấy mà, nhưng giờ đây mình trông thật giống anh ngố. Đành phải giã biệt
chỗ làm này thôi”.
Phải chăng bạn đã từng cố gắng nhớ lại tên của một người nào đó vì hoàn toàn
biết chắc rằng bạn biết tên ấy, nhưng lại vô phương nhớ được dù cố gắng đến mấy
chăng nữa? Sự việc không phải là không thường xảy ra này - được gọi là hiện tượng
không nhớ lại được (tip-of-the-tongue phenomenon) - là thí dụ cho những trường hợp
khó truy xuất các thông tin lưu giữ trong ký ức lâu dài.
Một lý do khiến cho việc nhớ lại gặp trở ngại chính là số lượng thông tin lưu trữ
trong ký ức lâu dài. Mặc dù vấn đề này còn lâu mới ngã ngũ, nhưng nhiều nhà tâm lý
cho rằng các thông tin lưu trữ vào ký ức này có tính tương đồi lâu bền. Nếu như quan
điểm này chính xác thì dung lượng của ký ức lâu dài quả thực to lớn, bởi vì nó chứa
đựng rất nhiều kinh nghiệm từng trải cũng như học tập của con người. Thí dụ, nếu
giống như bất kỳ một sinh viên bình thường nào thì kho từ vựng của bạn chứa đựng
khoảng 50.000 từ ngữ, bạn am hiểu hàng trăm "cơ sở lập luận" toán học, và bạn có
thể nhớ lại được các hình ảnh - như hình dáng ngôi nhà bạn đã ở hồi thơ ấu - mà
không gặp khó khăn gì cả. Trên thực tế, chỉ riêng công việc phân loại toàn bộ các
điều ghi nhớ của bạn có lẽ cũng phải mất đến nhiều năm mới làm xong.
Làm cách nào chúng ta sàng lọc trong số lượng thông tin khổng lồ này để truy
xuất được một thông tin nhất định vào thời điểm thích hợp? Một trong số các phương
pháp chủ yếu là sử dụng các gợi ý để nhớ lại. Gợi ý để nhớ lại là một kích thích giúp
chúng ta dễ dàng nhớ lại hơn các thông tin lưu trữ trong ký ức lâu dài. Kích thích ấy
có thể là một từ ngữ, một cảm xúc, một âm thanh chẳng hạn; cho dù gợi ý ấy là gì đi
nữa thì sự hiện diện của nó cũng khiến cho ký ức sẽ đột nhiên xuất hiện lại trong tâm
trí. Thí dụ, mùi thơm thịt gà tây đút lò có thể gợi lên những kỷ niệm về ngày lễ Tạ ơn
hay những buổi họp mặt gia đình.
Các gợi ý để nhớ lại giúp chúng ta tìm kiếm thông tin lưu trữ trong ký ức lâu dài
rất giống trường hợp các thẻ tên sách trong thư viện. Các gợi ý này đặc biệt quan
trọng khi nhớ lại thông tin, nhưng ngược lại đối với trường hợp được yêu cầu nhận
diện thông tin lưu trữ trong ký ức. Trong trường hợp nhớ lại, người ta phải truy xuất
một mẫu thông tin đặc biệt - như các thông tin cần thiết để điền vào các chỗ trống hay
gồm nhiều kích thích khác nhau.
Như bạn có thể đoán được, hiện tượng nhận diện thường dễ dàng hơn nhiều
so với hành vi nhớ lại. Nhớ lại hay hồi ức khó khăn hơn bởi vì nó bao gồm một loạt
tiến trình: lùng sục trong ký ức, truy xuất thông tin có khả năng phù hợp, và sau đó
quyết định xem liệu thông tin đã tìm được ấy có chính xác không. Nếu chính xác,
cuộc truy tìm sẽ kết thúc; nếu không thì cuộc tìm kiếm ắt sẽ phải tiếp tục. Ngược lại,
hành vi nhận diện (recognition) đơn giản hơn bởi vì nó gồm ít bước hơn.
1. Kỷ niệm khó quên
Bạn ở đâu khi nghe được tin phi thuyền con thoi Chalienger phát nổ?
Có lẽ bạn ít gặp khó khăn khi nhớ lại địa điểm chính xác và nhiều chi tiết linh
tinh khác về các sự việc đã xảy ra khi bạn nghe được tin tức ấy cho dù tai nạn ấy đã
xảy ra trước đây nhiều năm. Lý do là một hiện tượng được gọi là kỷ niệm khó quên.
Kỷ niệm khó quên gồm các điều ghi nhớ tập trung quanh một biến cố quan trọng hoặc
kỳ lạ đặc biệt, có tính sinh động đến mức giống như một bức ảnh chụp ghi lại biến cố
ấy.
Một vài kỷ niệm khó quên thường xảy ra trong cuộc đời của các sinh viên. Thí
dụ, can dự vào một tai nạn ô tô, lần đầu gặp gỡ người bạn cùng phòng ký túc xá, và
đêm lễ nhận bằng tốt nghiệp trung học chẳng hạn đều là các kỷ niệm khó quên điển
hình (xem hình 6 -7).
Hình 6-7: Hầu hết các kỷ niệm khó quên thông thường nhất ở một mẫu phỏng
vấn gồm đối tượng là các sinh viên đại học
Can dự hoặc chứng kiến một tai nạn ô tô
Lần đầu gặp gỡ người bạn cùng phòng ký túc xá
Đêm lễ phát bằng tốt nghiệp trung học
Đêm khiêu vũ cuối năm lớp 12
Lần đầu biết yêu
Nói chuyện trước công chúng
Nhận được thư báo trúng tuyển vào trường đại học
Buổi hò hẹn đầu tiên với người yêu
Tổng thống Reagan bị ám sát hụt
Đêm ông Nixon đọc diễn văn từ chức
Đáp chuyến phi cơ đầu tiên
Giây phút nhận kết quả trắc nghiệm SAT
lúc đang ngồi học giờ địa lý của thầy Sharp thì nghe tin tổng thống Kennedy bị ám sát.
Dù có nhớ lại lúc ấy tôi đang ở đâu và các bạn cùng lớp đã phản ứng ra sao đối với
tin buồn ấy, nhưng tôi không tài nào nhớ được hôm ấy tôi mặc quần áo màu gì hoặc
bữa cơm trưa hôm ấy tôi đã ăn món gì. Như vậy, kỷ niệm khó quên vừa không đầy đủ
vừa không phải là không bao giờ sai sót, và bản chất chủ yếu của nó khác biệt đến
mức nào so với các ký ức bình thường khác vốn còn là một nghi vấn chưa được giải
đáp thỏa đáng.
Dù vậy, các kỷ niệm khó quên vốn là một hiện tượng kỳ lạ do các chi tiết mà
chúng chứa đựng. Một phân tích về các hồi ức của nhiều người đối với vụ ám sát
tổng thống Kennedy cho thấy kỷ niệm riêng tư của họ có nhiều điểm giống nhau. Hầu
hết đều là lúc nghe tin họ đang ở đâu, ai báo tin cho họ, sự việc nào bị ngưng lại khi
họ nghe tin ấy, xúc động của người báo tin, xúc động của bản thân họ, và một số chi
tiết cá nhân về biến cố ấy (như nhìn thấy một con chim cổ đỏ bay qua khi nghe được
tin buồn ấy).
Ngược lại, chúng ta không thể khẳng đinh rằng mọi chi tiết nhớ lại trong kỷ
niệm khó quên đều chính xác cả. Thí dụ, một ngày sau khi tai nạn nổ phi thuyền con
thoi Challenger xảy ra, các nhà tâm lý Nicole Harsh và Ulric Nelsser phỏng vấn một
nhóm sinh viên về tình huống tiếp nhận tin tức về tai nạn ấy. Rồi ba năm sau đó khi
phỏng vấn lại chính nhóm sinh viên ấy về các câu hỏi tương tự, thì hầu hết đều trả lời
được ngay và những câu trả lời đều hợp lý. Nhưng rắc rối là trong khoảng 1/3 các
trường hợp câu trả lời hoàn toàn sai lạc so với câu trả lời cũ trước đó 3 năm.
Các kỷ niệm khó quên minh chứng một hiện tượng khá tổng quát về ký ức là: kỷ
niệm nào càng độc đáo thì càng dễ nhớ lại hơn so với các kỷ niệm liên hệ đến các
biến cố bình thường. Thí dụ, chúng ta dễ dàng nhớ lại một con số đặc biệt nào đó
xuất hiện trong một nhóm gồm 20 từ ngữ hơn so với trường hợp con số đó xuất hiện
trong một loạt gồm 20 con số khác. Như vậy, kích thích càng độc đáo chừng nào thì
sau này chúng ta càng dễ nhớ lại hơn. Hiện tượng này được gọi là hiệu ứng Von
Restorff theo tên của người khám phá ra nó.
Hiệu ứng von Restorff tác dụng trong đời sống thường ngày của chúng ta.
Chúng ta ghi nhớ các biến cố kỳ lạ dễ dàng hơn so với các sự việc tầm thường ngày
nào cũng diễn ra choáng hầu hết thời gian trong cuộc sống của chúng ta. Thí dụ,
trong một khảo cứu một nhóm sinh viên được trang bị máy phát ra tiếng bíp bíp vào
những lúc ngẫu nhiên khi họ viết ra giấy những sự việc họ đang làm. Khi đối chiếu trí
nhớ với các sự việc đã ghi ra giấy, rõ ràng đa số bọn họ không tài nào nhớ lại nhiều
việc đã từng làm vào những lúc ấy. Nhưng, các biến cố lạ thường và đặc biệt, như
buổi hẹn hò đầu tiên chẳng hạn, lại được ghi nhớ khá rõ ràng.
2. Các tiến trình xây dựng trong ký ức: Tái lập quá khứ
dựng (Constructive processes), là các tiến trình trong đó các điều ghi nhớ bị ảnh
hưởng bởi ý nghĩa mà chúng ta gán cho các biến cố ghi nhớ. Như vậy, khi chúng ta
nhớ lại thì hồi ức phát sinh đã bị ảnh hưởng không chỉ bởi kinh nghiệm trực tiếp của
chúng ta với kích thích ban đầu, mà còn bởi các phỏng đoán và suy luận chủ quan về
ý nghĩa của biến cố ấy nữa.
Quan điểm cho rằng ký ức căn cứ vào các tiến trình xây dựng được đề xướng
đầu tiên bởi một nhà tâm lý người Anh là Sir Frederic Bartlett. Ông này cho rằng
người ta thường ghi nhớ các thông tin theo dạng lược đồ (schemas), là các chủ đề
chứa đựng tương đối ít chi tiết cụ thể. Ông lập luận rằng các lược đồ ấy căn cứ vào
các thông tin được cống hiến không chỉ bởi các kích thích đơn thuần mà còn bởi sự
tìm hiểu của chúng ta về tình huống xảy ra biến cố, bởi các kỳ vọng của chúng ta đối
với tình huống ấy, và bởi sự hiểu biết của chúng ta về động cơ gây ra hành vi cư xử
của những người trong cuộc nữa.
Trong một thí nghiệm chứng minh tác dụng của các lược đồ này, các nhà khảo
cứu đã sử dụng một tiến trình gọi là hiện tượng tái tạo theo chuỗi (serial reproduction),
trong đó các thông tin từ ký ức được chuyển đi liên tiếp từ người này sang người
khác. Để thí dụ về hiện tượng tái tạo theo chuỗi này, hãy nhìn qua một bức hí họa ở
Hình 6-8 dưới đây, rồi cố gắng miêu tả lại cho một người khác mà không cần phải
nhìn lại bức tranh ấy. Sau đó, yêu cầu người ấy miêu tả lại cho một người khác, rồi
lặp lại tiến trình này với một người khác nữa.
Nếu bạn nghe lời miêu tả của người cuối cùng về nội dung của bức tranh, chắc
chắn bạn sẽ thấy rằng miêu tả ấy về nhiều khía cạnh quan trọng khác biệt hẳn với
chính bức tranh. Nhiều người nhớ lại bức tranh cho rằng lưỡi dao cạo nằm trong tay
một người Mỹ gốc Phi Châu - hiển nhiên là nhớ sai, bởi vì tranh vẽ một người da trắng
cầm dao.
Thí dụ này được rút ra từ một thí nghiệm kinh điển nhằm minh chứng vai trò
của kỳ vọng trong hiện tượng ghi nhớ. Sự chuyển dịch lưỡi dao cạo từ tay người da
trắng sang tay của người Mỹ da đen trong ký ức hiển nhiên biểu thị kỳ vọng của
chúng ta về thế giới chung quanh - trong trường hợp này nó phản ánh một thành kiến
không lấy gì làm xác đáng là người Mỹ gốc Phi thì có khuynh hướng hung bạo hơn
người da trắng, nên dễ bị gán cho hình ảnh cầm dao hơn - đã tác động vào cách hồi
tưởng của chúng ta về các biến cố đã xảy ra.
Bartlett cho sáng các lược đồ đã tác động đến sự nhớ lại vào lúc truy xuất
thông tin và rằng các thông tin ban đầu được ghi nhớ chính xác. Thế nhưng, các công
trình khảo cứu sau này đã chứng minh rằng các kỳ vọng cũng như các kiến thức tiên
nghiệm (prior knowledge) của chúng ta đã tác động vào cách thức ghi nhớ thông tin
ngay từ lúc đầu ghi nhận vào ký ức. Thí dụ, hãy đọc và cố gắng ghi nhớ đoạn văn sau
hiện. Nếu bạn phải đi đến một nơi nào khác vì thiếu phương tiện làm việc, thì đó là
bước thứ nhì; nếu không, bạn thật khá ổn rồi đấy. Điều quan trọng là không nên làm
quá nhiều. Nghĩa là, làm ít việc mỗi lúc sẽ hoàn hảo hơn làm quá nhiều. Trong ngắn
hạn, tình trạng này dường như không có gì quan trọng, nhưng lại dễ phát sinh các
phức tạp. Sai lầm cũng rất dễ xảy ra. Thoạt đầu, toàn bộ thủ tục dường như phức tạp.
Nhưng chẳng bao lâu nó sẽ trở thành một khía cạnh khác của cuộc sống. Khó mà
lường trước được bất kỳ một kết cục nào cho sự cần thiết phải làm việc này trong một
tương lai tức thời, nhưng sau đó người ta cũng không bao giờ có thể nói được. Sau
khi hoàn tất thủ tục này, người ta sẽ sắp xếp các vật dụng thành nhiều nhóm khác
nhau lần nữa. Khi ấy người ta có thể đặt chúng đúng vào chỗ thích hợp. Sau cùng,
chúng sẽ được sử dụng thêm lần nữa và toàn bộ chu kỳ khi ấy sẽ phải được lặp lại.
Tuy nhiên, đây là một phần của cuộc sống.
Tóm lại, rõ ràng cách nhận định của chúng ta về động cơ tâm lý nấp sau hành
vi của một người nào đó, cũng như các kỳ vọng và kiến thức tiên nghiệm về ngoại
giới, đã ảnh hưởng đến mức độ tin cậy của ký ức chúng ta. Như được thảo luận
trong đoạn Ứng Dụng Tâm Lý Học dưới đây, các khía cạnh bất toàn trong hồi ức của
chúng ta có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Hình 6-8: Một người xem bức thí hoạ này rồi kể lại theo trí nhớ cho một
người thứ hai, và người này nghe xong lại kể cho người thứ ba, và cứ thế - theo một
tiến trình gọi là hiện tượng tái tạo theo chuỗi – thì người cuối cùng sẽ kể lại nội dung
bức tranh khác hẳn với bức tranh gốc về nhiều khía cạnh quan trọng (theo Allport
và Postman, 1958)
ỨNG DỤNG TÂM LÝ HỌC
VẤN ĐỀ KÝ ỨC TRONG CÁC PHIÊN TÒA: SỰ SAI LẦM CỦA NHÂN CHỨNG
Đối với William Jackson, ký ức không chính xác về hai con người đã khiến
cho anh phải đánh mất 5 năm trời trong cuộc sống. Jackson là nạn nhân của sự xác
định tội trạng sai lầm trong thủ tục tố tụng hình sự. Hai nhân chứng đã quả quyết
định là thủ phạm trong một vụ án hình sự. Dựa vào cơ sở đó, người ta đã kết án anh
phải chịu hình phạt từ 14 đến 50 năm tù.
Năm năm sau đó khi người ta tìm ra được thủ phạm thực sự, Jackson mới
được phóng thích. Dù vậy, đối với Jackson việc làm ấy đã quá trễ. Anh cay đắng
tâm sự: "Họ đã lấy đi một quãng đời của tôi, tước đoạt những năm tháng thanh xuân
của tôi. Tôi đã trải qua 5 năm trời chìm đắm trong thất vọng khổ đau, thế mà họ chỉ
biết nói: "Chúng tôi rất tiếc".
Bất hạnh thay, Jackson không phải là nạn nhân duy nhất nhận được lời xin lỗi
các nhân chứng thường dễ phạm sai lầm nghiêm trọng khi họ cố nhớ lại các chi tiết
vụ phạm pháp.
Nguyên nhân gây ra sai lầm ấy là ảnh hưởng của các loại vũ khí được sử
dụng để gây án. Khi thủ phạm dùng súng hoặc dao uy hiếp nạn nhân, thì loại vũ khí
ấy tác động giống như một thỏi nam châm thu hút toàn bộ nhận thức của các nhân
chứng. Do đó, những chi tiết khác trong vụ án ít được chú ý đến, nên các nhân
chứng khó lòng nhớ lại được diều gì đã thực sự diễn ra.
Ngay cả trong trường hợp không có vũ khí, các nhân chứng tại hiện trường
phạm pháp cũng dễ mắc phải sai lầm trong việc ghi nhớ. Thí dụ, các khán giả xem
một đoạn phim 20 giây về một vụ mưu sát được phát trên đài truyền hình thành phố
New York sau này có dịp nhận diện hung thủ trong số sáu kẻ bị tình nghi. Trong số
khoảng 2000 khán giả gọi điện đến đài truyền hình, chỉ có 15% có thể nhận diện
đúng tên hung thủ - một con số tương tự với mức phỏng đoán ngẫu nhiên.
Những khảo cứu khác cho thấy nhân chứng có thể phạm rất nhiều sai lầm
khác nhau. Thí dụ một thí nghiệm khám phá rằng các nhân chứng tại hiện trường
các vụ án ước lượng chiều cao của thủ phạm cách biệt nhau đến khoảng 6dm và
chênh lệch trung bình so với chiều cao đích thực là khoảng 2dm. Ước lượng của họ
về tuổi tác của thủ phạm chênh lạch trung bình khoảng 8 tuổi, khoảng 83% nhân
chứng nhớ sai màu tóc thủ phạm, và khoảng 1/4 số nhân chứng đã quên mất hơn
phân nửa số chi tiết đã thực sự chứng kiến.
Ngay đến cách đặt câu hỏi để nhân chứng trả lời cũng ảnh hưởng đến ký ức
của họ, như được minh chứng trong nhiều thí nghiệm. Thí dụ, trong một thí nghiệm
các đối tượng được xem một đoạn phim 2 chiếc ôtô đụng nhau. Sau đó, một số đối
tượng được yêu cầu trả lời câu hỏi: "Hai chiếc ôtô ấy đang chạy với vận tốc bao
nhiêu khi chúng đâm sầm vào nhau?". Các đối tượng này đã ước tính tốc độ của
hai xe trung bình khoảng 40,8 dặm/giờ. Ngược lại, một nhóm đối tượng khác được
yêu cầu trả lời câu hỏi: "Hai chiếc ôtô ấy đang chạy với tốc độ bao nhiêu khi chúng
đụng nhau?". Ước tính tốc độ trung bình của họ chỉ vào khoảng 31,8 dặm/giờ.
Vấn đề mức tin cậy của trí nhớ lại càng nghiêm trọng hơn trong trường hợp
nhân chứng là trẻ em. Trong những năm qua người ta chứng kiến nhiều phiên tòa xử
các vụ lạm dụng tình dục đối với thiếu nhi. Thí dụ, trong một phiên tòa nổi tiếng xử
những người chủ trường mẫu giáo ở thị trấn Manhattan Beach thuộc tiếu bang
California, các đứa trẻ được yêu cầu nhớ lại xem chúng có bi lạm dụng tình dục
trước đó khoảng gần 10 năm không. Các chủ trường đã được phán quyết vô tội,
phần lớn vì ký ức rất mù mờ và mâu thuẫn của những đứa trẻ ấy.
Ký ức của thiếu nhi dường như rất đáng nghi ngờ. Hầu hết các cuộc khảo
sinh dục và hỏi các bé gái ấy: "Bác sĩ có khám chỗ này của các em không?". Ba bé
gái không được khám âm hộ hay hậu môn đã nói "Có". Và thậm chí một trong ba em
còn nêu ra một chi tiết nữa: "Bác sĩ khám bằng một chiếc que".
Tóm lại, trí nhớ của các nhân chứng khó mà khẳng định là chính xác, và điều
này đặc biệt đúng trong trường hợp thiếu nhi. Ngoài ra, không chỉ vấn đề ký ức của
nhân chứng trong thủ tục tố tụng hình sự mà cả đến ký ức của bồi thẩm đoàn cũng
ảnh hưởng đến vấn đề xét xử công bằng. Trong các vụ án phức tạp, các thành viên
trong bồi thẩm đoàn phải sàng lọc một khối lượng rất nhiều thông tin chi tiết, lại
thường chỉ sử dụng trí nhớ của họ về các chi tiết đã được xuất trình trước phiên
tòa.
Vấn đề còn rắc rối hơn nữa là đôi khi bồi thẩm đoàn còn bị lèo lái để quên đi
các thông tin mà họ đã thụ lý trong các phiên tòa, khi vi chánh án yêu cầu họ bỏ qua
các chi tiết bị cho là không hợp pháp trong các phiên họp luận tội. Như bạn có thể
đoán được, các vị bồi thẩm đoàn hầu như khó bỏ qua được các chi tiết mà chánh
án đã yêu cầu họ quên đi, nhất là khi họ cho rằng các chi tiết ấy là quan trọng hay
phù hợp với cách luận tội của họ.
3. Ký ức tự truyện: khi quá khứ trùng phùng hiện tại
Ký ức về quá khứ riêng tư của bạn có thể hoàn toàn hư cấu - hoặc ít ra là hình
ảnh bị bóp méo về các sự việc thực sự đã xảy ra. Chính các tiến trình xây dựng tác
động khiến cho chúng ta nhớ không chính xác hành vi của người khác, làm giảm mức
chính xác của ký ức tự truyện. Ký ức tự truyện (autobiographlcal memory) ám chỉ
những hồi tưởng về các sự việc đã xảy ra trong cuộc sống riêng tư của chung ta.
Chẳng hạn, người ta thường hay quên đi những sự việc xảy ra trong quá khứ
không phù hợp với lối suy nghĩ về cuộc sống hiện tại của họ. Một khảo cứu cho thấy
những người bị tổn thương tình cảm hồi thời thơ ấu mà nay đã hồi phục thường hay
quên đi các biến cố tuy quan trọng nhưng lại khó chịu đã xảy ra trong quá khứ. Thí
dụ, họ quên đi những chi tiết như gia đình họ sống nhờ trợ cấp phúc lợi xã hội khi họ
còn bé, làm con nuôi của người khác, và phải sống trong một gia đình có những
người phạm tội chẳng hạn. Tương tự, những người bi quan yếm thế thường hay nhớ
lại những sự việc đau buồn trong quá khứ, còn người lạc quan lại thường nhớ đến
các kỷ niệm hạnh phúc hơn so với kẻ bị quan.
Không phải chỉ một vài loại kỷ niệm mới bị bóp méo đi, mà một vài đoạn đời
nào đó cũng dễ được hồi tưởng hơn những quãng khác trong cuộc đời. Ngoài ra,
người ta cũng hay nhớ lại những sự kiện quan trọng chung giữa mọi người trong
những thời kỳ được ghi nhớ nhiều nhất. Như bạn thấy ở Hình 6-4, các cụ già ở độ
tuổi thất thập có khuynh hướng hay nhớ lại nhiều nhất các biến cố xảy ra hồi thời họ
với những năm về trước.
4. Ký ức tháng ngày: Phải chăng có khác biệt trong bối cảnh phòng thí
nghiệm?
Các mặt hạn chế của ký ức tự truyện cho thấy tầm quan trọng của việc tìm hiểu
ký ức trong phạm vi bối cảnh cuộc sống thực tế của con người. Nhiều nhà khảo cứu
về ký ức đã lo ngại rằng đa số các cuộc nghiên cứu hiện hành về ký ức còn thiếu sót
bởi vì chúng bị hạn chế quá nhiều từ bối cảnh thí nghiệm. Các quan điểm phê phán
này cho rằng các cuộc thí nghiệm về ký ức nên được thực hiện trong các khung cảnh
thực tế tự nhiên, sử dụng các hồi niệm về kinh nghiệm riêng tư của con người.
Thực tế một số nhà khảo cứu sử dụng thuật ngữ "ký ức thường ngày"
(everyday memory) để phân biệt ký ức liên hệ đến cuộc sống thực tế của các đối
tượng với ký ức của chính họ được gợi lại trong bối cảnh thí nghiệm. Thí dụ, một nhà
khảo cứu về ký ức đã thực hiện một chuyến du hành xuyên qua Châu Âu trong 47
ngày bằng xe đạp với một bạn đồng hành vốn là một tay đua xe đạp sáng giá nhất,
người này chấp nhận làm đối tượng thí nghiệm của nhà khảo cứu. Trong suốt cuộc
hành trình, nhà khảo cứu đã ghi nhận được nhiều sự kiện khác nhau, như số bưu
thiếp mà tay đua xe ấy đã gởi đi, và vân vân chẳng hạn. Ba tháng sau ngày kết thúc
chuyến du hành, nhà khảo cứu yêu cầu tay đua làm một trắc nghiệm trí nhớ về số lần
ức sự kiện khác nhau đã xảy ra trong chuyến đi ấy. Ông nhận thấy - không lấy gì làm
lạ rằng - tay đua ấy nhớ lại các sự việc đã xảy ra hoàn hảo hơn so với một nhóm kiểm
soát gồm các cá nhân chỉ đơn thuần phỏng đoán sự việc nào đã xảy ra. Điều quan
trọng hơn nữa là nhà khảo cứu tìm hiểu được tiến trình nhờ đó tay đua ấy đã sử
dụng để ước tính số lần xảy ra sự việc. Ông thấy tiến trình dùng để ước tình các sự
việc ít xảy ra khác biệt với tiến trình dùng để ước tính các sự việc thường xuyên xảy
ra hơn.
Đối với những người bênh vực khảo hướng "ký ức thường ngày", chuyến du
hành bằng xe đạp này tiêu biểu cho tầm quan trọng của sự việc sử dụng các tình tiết
trong hoàn cảnh thực tế để nghiên cứu trí nhớ. Họ lập luận rằng không cuộc khảo cứu
trong bối cảnh phòng thí nghiệm nào có thể sánh bằng chuyến du hành 47 ngày ấy, và
do đó việc tìm hiểu trí nhớ về các sự việc thực tế, thường xuyên, và quan trọng không
thể nào đoán quyết được từ các cuộc khảo cứu chỉ được thực hiện trong phạm vi
phòng thí nghiệm.
Ngược lại, cũng có nhiều nhà khảo cứu đã phê phán quan điểm này. Họ cho
rằng dù các cuộc nghiên cứu trong hoàn cảnh tự nhiên có gặt hái được kết quả thế
nào đi nữa thì cũng uổng phí, bởi vì chúng ta không thể tổng quát hóa các kết quả ấy
cho các tình huống cũng như cá nhân khác được. Họ nêu nghi vấn rằng người ta có
thể học tập được đến mức nào từ các kinh nghiệm của một cá nhân duy nhất. Ngoài
Mới đây đã xuất hiện một quan điểm chiết trung giữa hai khảo hướng. Những
người phê phán công trình nghiên cứu trong hoàn cảnh tự nhiên đã chịu thừa nhận
rằng một số cuộc nghiên cứu trí nhớ địa đưa đến kết quả sai lạc khi được thực hiện
trong các điều kiện hạn chế của phòng thí nghiệm. Tương tự, các nhà nghiên cứu
theo khảo hướng "ký ức thường ngày" cũng công nhận tầm quan trọng của các cuộc
nghiên cứu trí nhớ được tổ chức thận trọng trong bối cảnh phòng thí nghiệm. Hầu
như mọi người đều nhất trí về quan điểm cho rằng điều kiện quyết định trong cuộc
khảo cứu ký ức là bối cảnh thực hiện nghiên cứu không quan trọng lắm so và mức độ
thận trọng trong việc thực hiện nghiên cứu.
Hình 6-9: Chúng ta thường hay nhớ lại các sự việc đã xảy ra trong một số
đoạn đời của mình. Ở độ tuổi thất thập, người ta thường nhớ lại nhiều sự việc đã
xảy ra hồi họ vào quãng tuổi 20 hơn so với các quảng tuổi 40 và 50 của họ; trong
khi những người ở độ tuổi ngũ thập thường hay nhớ lại nhiều sự việc đã xảy ra hồi
họ ở quãng tuổi niên thiếu hơn (Rubin, 1986)
5. Tóm tắt và học ôn II
A. TÓM TẮT
- Hiện tượng khó nhớ lại (Hip-of-the-tongue-phenomena) liên hệ đến tình trạng
không thể nhớ lại sự việc gì đó mà người ta biết chắc rằng mình đã từng biết qua.
- Các gợi ý để nhớ lại (retrieval cues) đặc biệt quan trọng trong trường hợp
nhớ lại thông tin - ngược lại trường hợp nhận diện thông tin đã từng tiếp nhận.
- Kỷ niệm khó quên (fashbulb memories) là các kỷ niệm xoay quanh một biên cố
quan trọng đặc biệt, và các kỷ niệm này rõ rệt đến mức giống như chụp hình biến cố
ấy vậy.
- Ít ra ký ức phần nào phản ánh các tiến trình xây dựng trong đó ký ức bị ảnh
hưởng bởi ý nghĩa mà chúng ta chủ quan gán cho các biến cố đã xảy ra. Thí dụ, ký
ức tự truyện là dạng ký ức bị bóp méo.
B. HỌC ÔN
1/ Trong lúc họp mặt cùng bạn bè từ một buổi khiêu vũ, Mary ngẫu nhiên gặp lại
một người đàn ông đã quen biết hồi tháng trước. Khi giới thiệu ông ta với các bạn, cô
không thể nhớ lại được tên ông ấy dù cô khẳng định mình đã từng biết tên ấy. Hiện
tượng này là gì?
2/ Một người được tiếp nhận một kích thích nhất định rồi được yêu câu trả lời
liệu đã từng nhìn thấy qua kích thích ấy chưa. Người ta dùng loại trắc nghiệm ký ức
nào đối với đối tượng này?
khi nghe tin ca sĩ Elvvis Presley qua đời ". Hiện tượng nào lý giải dạng hồi tưởng này?
5/ Người này cũng bảo với bạn ông bà ta có thể nhớ chính xác các chi tiết như
lúc ấy vì đang mặc bộ quần áo nào, thậm chí đến cả màu sắc của dải dây trên đôi
giày da của bà nữa. Đúng hay sai?...................
6/ Chúng ta thường hay nhớ lại các kích thích độc đáo hơn so với các sự việc
tầm thường. Hiện tượng này gọi là gì?
7/ Việc nhớ lại các kỷ niệm không chỉ liên quan đến sự thực khách quan mà
còn liên hệ đến các tiến trình xây dựng các sự việc quá khứ trong tâm trí chúng ta
nữa. Đúng hay sai?...............
8/ …………… là các “chủ đề” (themes), chứa đựng rất ít chi tiết đặc biệt, dùng
để tổ chức, sắp xếp các thông tin trong ký ức.
9/ Các cuộc nghiên cứu đã chứng minh rằng việc nhớ lại các nội dung tự
truyện thường hay xảy ra nhìn đó với các giai đoạn gần đây nhất trong cuộc đời của
người ta. Đúng hay sai?................
C. CÂU HỎI NGHI VẤN
Căn cứ vào sự hiểu biết về các sai lầm và thành kiện mà ký ức hay mắc phải,
có lẽ thủ tục xét xử của tòa án sẽ được cải tiến như thế nào? Nếu vậy, các bộ luật
cũng cần có những thay đổi nào?
(Giải đáp câu hỏi học ôn ở cuối chương)
Created by AM Word CHM
2
TÂM LÝ HỌC CĂN BẢN à Chương 6. KÝ ỨC
Ông ta hoàn toàn không còn nhớ được điều gì cả. Hiện tượng này phát sinh do
tổn thương ở các thùy thái dương và cấu tạo dưới đồi (hippocampus) trong não bộ
của ông từ cuộc giải phẫu thí nghiệm nhằm giảm bớt các cơn co giật động kinh.
Trước đó trí nhớ của ông hoàn toàn bình thường. Nhưng sau cuộc giải phẫu, ông ta
không thể nhớ điều gì quá vài phút, rồi sau đó hầu như quên hẳn mọi thứ. Ông không
còn nhớ địa chỉ của mình hoặc tên của người vừa mới nói chuyện với ông. Ông đọc
đi đọc lại một cuốn tạp chí. Như ông tâm sự, cuộc sống của ông giống như vừa tỉnh
giấc chiêm bao, không còn biết mình đang ở đâu học tại sao mình ở đây.
Những khó khăn mà người - mất - đi - trí - nhớ - bình - thường gặp phải thật rất
nhiều, như trong trường hợp vừa nêu và trường hợp cô Pamilla Smith chúng ta đã bàn
ở đoạn mở đầu chương này. Tất cả chúng ta đều đã trải qua các trường hợp quên
thông thường - như không nhớ được tên người quen hoặc một vài điều đã học khi làm
bài thi chẳng hạn - đều hiểu rõ các hậu quả nghiêm trọng của tình trạng mất trí nhớ.
Các nỗ lực đầu tiên nhằm nghiên cứu hiện tượng quên do nhà tâm lý người
Đức là Hermann Ebbinghaus thực hiện khoảng một thế kỷ trước đây. Dùng bản thân
chính ông làm đối tượng thí nghiệm duy nhất, ông ghi nhớ các bảng kê gồm các vần
có ba mẫu tự không có ý nghĩa gì cả - các nhóm mẫu tự vô nghĩa gồm hai phụ âm
ghép với một nguyên âm ở giữa, như FIW và BOZ chẳng hạn. Bằng cách đo lường
mức độ dễ học lại một bảng kê các từ ấy khi thay đổi các thời gian cách quãng so với
lần học thuộc ban đầu, ông nhận thấy hiện tượng quên đã xảy ra có qui củ như trình
bày trong Hình 6- 10. Theo hình vẽ, hiện tượng quên nhanh nhất xảy ra trong giai
đoạn 9 giờ đầu tiên, và nhất là trong giờ đầu sau lần đầu học thuộc bảng kê. Sau giai
đoạn 9 giờ ấy, mức độ quên giảm dần theo thời gian và hạ thấp còn rất ít thậm chí
sau nhiều ngày trôi qua mới xảy ra hiện tượng quên.
Dù phương pháp thô sơ nhưng công trình khảo cứu của Ebbinghans đã ảnh
hưởng quan trọng đến các công cuộc nghiên cứu sau này, và các kết luận văn bản
của ông đến nay vẫn còn có giá trị. Hầu như luôn luôn trong những giờ đầu tiên mức
độ quên xảy ra rất nhiều, nhưng tiếp sau đó mức độ này giảm dần đi theo thời gian.
Ngoài ra, việc học lại những điều đã hiểu rõ trước đây hầu như luôn luôn gặt hái kết
quả nhanh hơn so với lần học đầu tiên bất kể nội dung học tập là kiến thức thuộc lãnh
vực học vấn hay là một kỹ năng vận động như cách giao một quả bóng quần vợt
chẳng hạn.
Các nỗ lực tìm hiểu nguyên nhân khiến cho chúng ta mắc phải hiện tượng quên
đến nay đã gặt hái được hai cách lý giải quan trọng. Một lý thuyết giải thích hiện
tượng quên theo một tiến trình gọi là phai nhạt (decay), hoặc tình trạng mất mát các
thông tin ghi nhớ do không sử dụng đến chúng. Cách giải thích này giả sử rằng khi
cả.
Hình 6-10. Trong một công trình khảo cứu kinh điển Ebbinghaus đã khám
phá được rằng hiện tượng quên nhanh nhất xảy ra trong giai đoạn 9 giờ đầu tiên sau
khi tiếp nhận các thông tin mới. Nhưng mức độ quên giảm dần theo thời gian và hạ
thấp còn rất ít, thậm chí sau nhiều ngày trôi qua mới xảy ra hiện tượng quên
(Ebbinghaus, 1885).
Mặc dù có chứng cứ xác nhận rằng hiện tượng phai nhạt quả thực có xảy ra,
nhưng dường như hiện tượng này không phải là cách giải thích trọn vẹn về nguyên
nhân gây ra hiện tượng quên. Thường thì giữa thời điểm phải nhớ lại với mức độ nhớ
lại không có liên hệ gì cả. Nếu cho rằng hiện tượng phai nhạt do thời gian giải thích
được toàn bộ hiện tượng quên, hóa ra chúng ta cho rằng khoảng thời gian từ lúc ban
đầu tiếp nhận thông tin đến lúc cố gắng nhớ lại thông tin ấy, càng dài chừng nào thì
thông tin ấy càng khó nhớ lại chừng ấy, bởi vì dấu vết ký ức có càng nhiều thời gian
để phai nhạt đi. Thế mà những người tham dự liên tiếp mấy kỳ thi về cùng một nội
dung thường trong mấy buổi thi sau cùng lại nhớ được nhiều thông tin ban đầu hơn
so với những buổi thi trước đó. Nếu như hiện tượng phai nhạt có tác dụng tự sự việc
ngược lại phải xảy ra mới đúng.
Bởi vì hiện tượng phai nhạt theo thời gian không thể nào giải thích trọn vẹn
nguyên nhân gây ra hiện tượng quên, nên các chuyên viên về ký ức đã đề nghị một
cơ chế bổ sung: đó là hiện tượng can thiệp (interference). Trong hiện tượng can thiệp
thông tin đưa vào ký ức sẽ thế chỗ hoặc loại trừ thông tin ghi nhớ khác, ngăn chặn cố
gắng nhớ lại của chúng ta.
Để phân biệt giữa hai hiện tượng phai nhạt và can thiệp, hãy hình dung một dãy
các cuốn sách để trên giá sách trong thư viện. Trong hiện tượng phai nhạt, các cuốn
sách cũ thường bi mục nát đi dành chỗ cho các cuốn sách mới mua vào. Còn trong
hiện tượng can thiệp, các cuốn sách mới mua vào đẩy các sách cũ rơi ra khỏi giá
sách khiến cho người ta không còn tìm thấy được chúng.
Hầu hết các công trình khảo cứu đều cho rằng hiện tượng can thiệp là tiến trình
chủ yếu làm phát sinh tình trạng quên. Chúng ta thường quên đi ức sự việc không
phải vì dấu vết ký ức bị phai nhạt đi mà bởi vì các ký ức mới gây trở ngại mo việc gợl
lại ký ức cũ.
Mặc dù chúng ta có thể xem hiện tượng can thiệp có tác dụng tiêu cực, nhưng
điều quan trọng phải ghi nhớ là thực ra nó giúp chúng ta tăng thêm khả năng tìm hiểu
và tương tác với thế giới chung quanh. Hiện tượng can thiệp giúp chúng ta ghi nhớ
một cách tổng quát và ngắn gọn các kinh nghiệm từng trải của chúng ta. Thí dụ, thay
vì phải nhớ lại mọi chi tiết vụn vặt về một vị giáo sư, chúng ta thường nhớ lại các tình
hiện tượng này còn giúp chúng ta dự đoán được diễn biến các tương tác trong tương
lai nữa.
1. Hiện tượng can thiệp tác động và trước và về sau: quên về trước và
quên về sau
Thực ra có hai loại can thiệp ảnh hưởng đến tình trạng quên là: can thiệp về
trước và can thiệp về sau. Trong hiện tượng can thiệp về sau (proactive interference),
các thông tin học hỏi được trước đây tác động gây trở ngại cho việc nhớ lại các
thông tin mới tiếp nhận. Giả sử là một sinh viên ban ngoại ngữ, hồi lớp 10 bạn đã học
Pháp ngữ và sau đó đến lớp 11 bạn học ngoại ngữ thứ hai là tiếng Tây Ban Nha
chẳng hạn. Đến khi thi tuyển vào đại học về môn ngoại ngữ Tây Ban Nha, bạn cảm
thấy khó nhớ lại các từ ngữ Tây Ban Nha bởi vì tâm trí bạn có hiện ra những từ ngữ
có ý nghĩa tương tự trong Pháp ngữ.
Ngược lại, hiện tượng can thiệp về trước (retroactive interference) khiến mo
người ta khó nhớ lại các thông tin đã học hỏi được trước đây do sự tiếp nhận các
thông tin khác sau này. Thí dụ, nếu bạn gặp khó khăn trong bài thi Pháp ngũ do mới
học tiếng Tây Ban Nha, thì hiện tượng gây trở ngại về trước là thủ phạm (xem Hình 6-
11). Một phương pháp để phân biệt giữa hai loại hiện tượng can thiệp về sau và về
trước là hãy ghi nhớ rằng hiện tượng can thiệp về sau tác động thuận dòng thời gian -
quá khứ tác động gây trở ngại đến hiện tại - còn hiện tượng can thiệp về trước tác
động ngược dòng thời gian, là hiện tại tác động gây trở ngại ngược về quá khứ.
Hình 6-11: Hiện tượng can thiệp về sau xảy ra khi nội dung học hỏi được
trước đây tác động gây trở ngại cho việc nhớ lại các thông tin mới ghi nhớ sau này.
Trong thí dụ này, Pháp ngữ được tiếp nhận trước khi học tiếng TBN đã tác động gây
trở ngại cho thành tích bài thi tiếng TBN. Ngược lại hiện tượng can thiệp về trước
xảy ra khi nội dung học hỏi được sau này tác động gây trở ngại cho việc nhớ lại các
thông tin đã ghi nhớ trước đây. Trong thí dụ này, hiện tượng can thiệp về trước xảy
ra khi việc nhớ lại Pháp ngữ bị sút giảm đi vì tiếng TBN ghi nhớ sau này.
Mặc dù các khái niệm can thiệp về sau và về trước giải thích được nguyên
nhân gây ra tình trạng quên, nhưng các hiện tượng này vẫn không giải thích được
nghi vấn liệu tình trạng quên đó hiện tượng can thiệp có phải là tình trạng thực sự mất
mát hay cải tiến thông tin, hoặc là hậu quả gây ra bởi các rắc rối trong việc nhớ lại
thông tin hay không. Hầu hết các công trình khảo cứu đều cho rằng các thông tin nhất
thời bị mất đi do hiện tượng can thiệp sau cùng có thể được nhớ lại nếu người ta
được tiếp nhận loại kích thích phù hợp, nhưng vấn đề nêu trên vốn chưa được giải
đáp thỏa đáng. Trong một nỗ lực giải quyết vấn đề này, một số nhà tâm lý đã khởi sự
khảo cứu nền tảng sinh học của ký ức nhằm mục đích tìm hiểu sâu rộng hơn nữa và
điều gì được nhớ lại và điều gì bị bỏ quên đi - một khảo hướng đóng vai trò ngày
Dấu vết ký ức (engram) – dấu vết vật chất ở mô thần kinh biểu thị sự ghi nhớ
trong não bộ - thực ra nằm ở bộ phần nào trong não bộ con người?
Câu hỏi này đã gây nhiều bối rối cho các nhà tâm lý chuyên về ký ức và đà trở
thành mục tiêu của rất nhiều công trình khảo cứu hiện hành. Công cuộc tìm hiểu đã
khởi đầu từ những năm 1920. Khi nhà tâm lý Karl Lashley tổ chức một loạt thí nghiệm
cắt bỏ đi từng phần vỏ não của loài chuột. Ông khám phá thấy khả năng học tập lại
trong thí dụ chạy qua mê cung của các chú chuột bị giảm bớt đi theo tỷ lệ với mục tổn
thương vỏ não của chúng. Võ não càng bị cắt bỏ đi nhiều chừng nào thì khả năng học
tập lại càng gặp nhiều khó khăn hơn.
Nhưng đáng lưu ý hơn là khám phá ấy còn cho thấy thời lượng cần thiết để học
tập lại của chúng không liên quan gì đến vị trí tổn thương trong não bộ cả. Bất kể vùng
não bộ nào bị cắt đi mức độ giảm sút khả năng học tập cũng tương tự nhau, điều này
chứng tỏ rằng các dấu vết ký ức được phân bố khá đồng đều khắp cấu trúc não bộ.
Kết quả công trình kháo cứu của Lashley - được tóm tắt trong một luận văn nói riêng
có nhan đề là “In Search of the Engram” - đã dẫn đến một quan điểm có giá trị trong
vài thập niên cho rằng các thông tin lưu trữ vào ký ức được phân bố rộng rãi và khá
đong đều khắp cấu trúc não bộ.
Tuy nhiên, các công trình khảo cứu hiện đại dường như lại đi đến một kết luận
khác hẳn. Các khảo cứu ấy xuất phát từ những khám phá về nền tảng sinh lý của tiến
trình học tập cho thấy các vùng vỏ não khác biệt nhau đồng thời xử lý thông tin về các
chiều kích khác biệt nhau của thế giới chung quanh, bao gồm các kích thích thị giác,
thính giác, và các giác quan khác. Bởi vì các vùng khác nhau trong não bộ đồng thời
tham gia vào việc xử lý thông tin về các khía cạnh khác nhau của một kích thích, nên
dường như hợp lý khi nói rằng việc lưu trữ thông tin có liên hệ đến các hiện trường xử
lý và do đó định vị ở các vùng vỏ não đặc biệt ấy. Tóm lại, vị trí của dấu vết ký ức tùy
thuộc vào bản chất của thông tin học hỏi và hệ thần kinh nào chịu trách nhiệm xử lý
thông tin ấy.
Làm sao chúng ta dung hòa được giữa quan điểm hiện đại ngày càng có nhiều
ảnh hưởng cho rằng ký ức có liên hệ đến cách xử lý đặc biệt của hệ thần kinh được
vận dụng trong quá trình học tập với các khám phá của Lashley cho rằng sự giảm sút
trí nhớ không có liên quan gì đến vị trí tổn thương trong vỏ não? Một giải đáp cho rằng
sự mâu thuẫn giữa hai quan điểm trên có tính biểu kiến hơn là thực sự. Thí dụ, thủ tục
tiến hành thí nghiệm của Lashley buộc các chú chuột chạy qua một mê cung thực ra
liên hệ đến một vài dạng thông tin cũng như một số tiến trình học tập - bao gồm thông
tin thi giác, nhận thức hình thể không gian, cảm nhận mùi, và có lẽ cả đến cảm nhận
âm thanh nữa. Giả sử đúng như vậy thì tiến trình học tập và xử lý thông tin ắt phải diễn
ra đồng thời ở nhiều vùng khác nhau trong não bộ chi phối các giác quan ấy. Nếu
Tóm lại, dường như ký ức tập trung ở các vùng đặc biệt trong đó một dấu vết
ký ức đặc thù liên hệ đến một hệ thống xử lý thông tin đặc biệt thuộc não bộ. Nhưng
theo ý nghĩa bao quát hơn, các dấu vết được phân bố ở nhiều nơi bởi vì bất kỳ tình
huống học tập nào cũng bao gồm một số hệ thống xử lý thông tin thuộc não bộ - dẫn
đến tình trạng các dấu vết ký ức được phân bố đều khắp các vùng não bộ.
Các nhà khảo cứu khác đang vận dụng các khảo hướng khác nhau nhằm tìm
hiểu nền tảng sinh học của ký ức. Thí dụ, cấu tạo dưới đồi (hippocampus) đóng vai
trò trọng tâm trong việc chuyển hóa thông tin cảm giác mới tiếp nhận thành dạng lưu
trữ được trong vỏ não. Ngoài ra, một số hoá chất và chất dẫn truyền thần kinh cũng có
liên hệ đến sự hình thành, làm suy giảm, và cải thiện trí nhớ. Thí dụ, trong một công
trình khảo cứu một nhóm trẻ em được dùng một loại dược phẩm ngăn chặn tiến trình
tổng hợp protein có thành tích trong trắc nghiệm trí nhớ kém hơn những em không
dùng loại thuốc đó.
Sau cùng, ngay đến nhiều loại thực phẩm cũng có liên quan đến trí nhớ. Thí
dụ, một khảo cứu mới đây cho thấy một món thực phẩm hay thức uống đơn giản như
một ly nước chanh chẳng hạn cũng có thể giúp chúng ta ghi nhớ dễ dàng hơn. Kết
quả thí nghiệm của nhà nghiên cứu Paul Gold cùng các đồng sự đã chứng minh rằng
mức đường glucose trong máu tăng lên - nhờ uống một ly nước chanh nhiều đường -
giúp cho những người trưởng thành đạt được hiệu quả cao trong một số công việc
đòi hỏi vận dụng trí nhớ. Mặc dù các khám phá này còn lâu mới đưa ra được kết luận
dứt khoát, nhưng cũng cho thấy rằng một ngày kia ít ra chúng ta có thể chọn được
một chế độ dinh dưỡng phần nào dựa trên cơ sở giúp chúng ta nâng cao khả năng
vận dụng trí nhớ theo ý muốn.
3. Các rối loạn ký ức: bệnh quên
Đối với người quan sát không thường xuyên, Harold có vẻ là một tay đánh Solf
nổi bật. Dường như anh đã rèn luyện được kỹ thuật chơi khá hoàn hảo, những cú
đánh bóng của anh hầu như đều hoàn thiện.
Thế nhưng, bất kỳ ai gần gũi với anh nhất định sẽ thấy được nhiều đều phi lý lạ
thường. Mặc dù có khả năng tức thời ước lượng tình huống và đánh quả bóng đến vị
trí chính xác, ngay khi quả bóng rơi vào lỗ là anh quên béng ngay điểm số vừa đạt
được.
Harold mắc phải bệnh Alzhelmer (Alzhelmer's disease), một chứng bệnh bao
gồm các rối loạn ký ức nghiêm trọng cùng với nhiều triệu chứng khác. Như đã đề cập
lần đầu ở chương 2, bệnh Alzheimer là một trong bốn nguyên nhân quan trọng nhất
đưa đến cái chết của nhiều người cao tuổi ở Mỹ. Vào khoảng 10% số người ở đó tuổi
trên 65, và gần phân nửa các cụ già trên 85 tuổi đã mức phải chứng bệnh này.
brain) - theo Từ điển Y học. ND
Vào các giai đoạn khởi đầu, các triệu chứng bệnh Alzheimer xuất hiện dưới
dạng đơn thuần quên đi những sự việc lặt vặt như các cuộc hẹn và ngày sinh chẳng
hạn. Khi bệnh phát triển thì tình trạng mất trí nhớ ngày càng trầm trọng hơn, và thậm
chí đến các việc làm đơn giản nhất - như cách quay số điện thoại - cũng không còn
nhớ được. Cuối cùng, bệnh nhân có thể quên đến cả tên tuổi của chính mình cũng
như mặt mũi của những người thân trong gia đình. Ngoài ra, người bệnh bắt đầu có
tình trạng thoái hóa về thể chất và có thể hoàn toàn mất đi khả năng ngôn ngữ.
Mặc dù người ta chưa hoàn toàn hiểu rõ nguyên nhân gây ra bệnh Alzheimer,
nhưng các chứng cứ mới đây cho thấy nó có thể liên quan đến một khuyết tật di
truyền đặc thù của dòng họ. Chính khuyết tật ấy là nguyên nhân gây trở ngại cho việc
sản sinh chất protein beta amyloid cần thiết để duy trì sự nỗ kết các tế bào thần kinh.
Việc sản xuất chất beta amylold gặp trở ngại sẽ đưa đến tình trạng thoái hóa của các
tế bào thần kinh trong não bộ - gây ra các triệu chứng bệnh Alzheimer.
Bệnh Alzheimer chỉ là một trong vài dạng rối loạn ký ức gây đau khổ cho bệnh
nhân. Một dạng khác là chứng mất trí nhớ (amnesia), trong chứng bệnh này tình trạng
mất trí nhớ không xảy ra kèm với các rối loạn tâm thần khác. Trường hợp mất trí nhớ
phổ biến - trở thành bất cứ trong nhiều vở bi kịch - là trường hợp nạn nhân bị đập
trúng đầu rồi không còn nhớ được bất cứ điều gì về quá khứ của mình. Trên thực tế,
dạng mất trí nhớ kiểu này, được gọi là chứng quên về trước, rất hiếm khi xảy ra. Mắc
phải chứng quên về trước (retrograde amnesla), người bệnh mất trí nhớ đó với các
sự việc xảy ra trước một biến cố nhất định. Thông thường người bệnh sẽ dần dần nhớ
lại các sự việc đã quên đi dù phải mất nhiều năm mới phục hồi trí nhớ hoàn toàn.
Trong một số trường hợp một vài kỷ niệm bị quên đi vĩnh viễn.
* Chứng quên/ mất trí nhớ(amnesia): mất trí nhớ hoàn toàn hay một phần
do tổn thương thể chất, bệnh, dùng nhầm thuốc, hoặc chấn thương tâm thần.
Chứng quên về sau (anterograde amnesia) là mất trí nhớ đối với các sự việc xảy ra
sau một vài chấn thương; còn chứng quên về trước (retrograde amnesia) là mất trí
nhớ đối với các sự việc đã xảy ra trước khi bị chấn thương. Một số bệnh nhân mặc
phải cả hai dạng bệnh này.
Một dạng bệnh quên thứ hai đặc trưng bởi các trường hợp giống như ca bệnh
của Pamilla Smith và người đàn ông vừa được đề cập. Cả hai người này đều không
thể ghi nhớ bất kỳ sự việc gì vừa mới xảy ra. Trong chứng bệnh quên về sau
(anterograde amnesia), tình trạng mất trí nhớ diễn ra đối với các sự việc xảy ra sau
một chấn thương. Các thông tin không thể được chuyển từ ký ức ngắn hạn sang lưu
trữ trong ký ức lâu dài, gây ra tình trạng không còn khả năng nhớ lại bất cứ sự việc gì
ngoài các kỷ niệm đã lưu lại trong ký ức lâu dài trước khi tai nạn xảy ra.
mặt thuộc khả năng trí tuệ còn nguyên vẹn, nhưng người bệnh có một loạt triệu chứng
kỳ lạ bao gồm những ảo giác (hallucinatlons); cứ lặp đi lặp lại mãi những câu hỏi dù
vừa được trả lời xong; và lặp đi lặp lại cùng một câu chuyện nhiều lần.
* Hội chúng Korsakoff*/ loạn tâm thần Korakoff (Korsakoff’s syndrome/
Korsakoff's psychosis) Một rối loạn hữu cơ anh hưởng đến não bộ gây ra khuyết tật
về ký ức, không ghi nhận được các thông tin mới nhưng các sự kiến đã qua vẫn
còn nhớ lại được; mất đinh hướng và thời gian và nơi chốn; và có khuynh hướng
sáng tạo ra các chất liệu để lấp đầy khoảng trống trong ký ức. Nguyên nhân thông
thường nhất của tình trạng này là do nghiện rượu (alcoholism), nhất là khi nó dẫn
đến tình trạng thiếu thiamin (vitamin B). Chữa trị bằng cách cho dùng thiamin liều
cao. Tình trạng bệnh thường trở thành mạn tính - theo Từ điển Y học.
May mắn thay, hầu hết chúng ta đều có ký ức nguyên vẹn, và đã khi có bị quên
đôi chút lại tốt hơn có một trí nhớ thực hoàn hảo. Chẳng hạn, hãy xét trường hợp một
người như được hết toàn bộ các sự việc đã xảy ra. Sau khi đọc các đoạn văn trong
tác phẩm Divine Coedy bằng tiếng Ý - một thứ ngôn ngữ mà anh ta không nói được -
anh ta có thể lặp lại các đoạn văn ấy theo trí nhớ ngay cả khoảng 15 năm sau đó. Anh
ta có thể ghi nhớ được các bảng kê gồm 50 từ ngữ không liên quan gì nhau cả, và
sau đó hơn cả chục năm tùy tiện có thể nhớ lại được cả danh sách ấy. Nếu cần, anh
ta có thể đọc ngược thứ tự các từ ngữ trong danh sách.
Một năng khiếu như thế thoạt nghe có vẻ như có đôi chút bất lợi, nhưng thật sự
lại là cả một vấn đề. Ký ức người đàn ông đó trở thành một mớ bòng bong gồm rất
nhiều từ ngữ, con số, và tên tuổi. Khi anh ta cố thư giãn thì tâm trí anh hiện lên đầy ắp
các hình ảnh. Thậm chí đến việc đọc sách báo cũng gặp khó khăn, bởi vì mỗi từ ngữ
đều gợi ra một dòng thác ý tưởng từ quá khứ đổ ra gây trở ngại cho khả năng tìm
hiểu ý nghĩa của những điều đang đọc. Phần nào bị ảnh hưởng bởi ký ức phi thường
của người đàn ông ấy, nhà tâm lý A.R. Luria nghiên cứu trường hợp này đã phát hiện
anh ta là “một người hay nhầm lẫn mọi việc và đúng ra là người chậm hiểu”.
Như vậy, chúng ta nên an tâm vì tình trạng quên đôi chút quả thực lại hữu ích
cho cuộc sống.
THỪA HƯỞNG THÀNH QUẢ CỦA TÂM LÝ HỌC: TĂNG CƯỜNG TRÍ NHỚ
Mặc dù các ưu điểm của tình trạng quên như một số phim khó học giả tưởng
đã hư cấu quá mức, phần đông chúng ta vẫn cứ muốn ôm cách nâng cao khả năng
ghi nhớ. Với trình độ hiểu biết hiện thời về ký ức, liệu chúng ta có thể tìm được các
phương pháp thực tiễn nhằm tăng cường khả năng nhớ lại các thông tin đã tiếp nhận
không? Nhất định là có. Các công trình khảo cứu đã khám phá được nhiều phương
pháp khả dĩ giúp chúng ta tăng cường trí nhớ. Trong sống, các phương pháp hữu
nhất là sử dụng kỹ thuật dùng từ then chốt (keyword technique), theo đó một từ vựng
ngoại ngữ được cặp đôi với một từ Anh ngữ có cùng cách phát âm. Từ Anh ngữ này
được gọi là từ then chốt. Thí dụ, muốn học thuộc từ ngữ Tây Ban Nha có nghĩa là con
vịt (pato, phát âm là pót - o) thì từ then chốt có thể là "pót" (có nghĩa là ấm, bình, chậu,
hũ, vại); đối với từ ngữ Tây Ban Nha có nghĩa là con ngựa (caballo, phát âm là cob-
eye-yo), từ then chốt sẽ là "eye" (mắt).
Khi nghĩ đến một từ then chốt nào đó, bạn tưởng tượng một hình ảnh phác họa
trong tâm trí nhằm "tương tác" với kích diễn đạt từ TBN ấy trong Anh ngữ. Thí dụ, bạn
có thể tưởng tượng một chú và đang tắm trong một cái chậu để ghi nhớ từ pato, hoài
tưởng tượng một con ngựa có cặp mắt lồi to tướng ở giữa đầu để ghi nhớ từ caballo:
Kỹ thuật này đã gặt hái được thành quả trong việc học thuộc ngữ vựng tiếng nước
ngoài khả quan hơn so với các phương pháp truyền thống nhằm chỉ ghi nhớ mặt chữ
của ngữ vựng mà thôi.
* Phương pháp định vị. Nếu đã từng thuyết trình trong lớp học, bạn sẽ thấy
được khó khăn trong việc ghi nhớ tất cả các điểm mà bạn muốn nói. Người Hy Lạp cổ
đại đã tìm ra được một biện pháp khá hữu hiệu. Khi các nhà hùng biện Hy Lạp tìm
cách ghi nhớ các bài diễn văn dài lê thê, họ thường dùng phương pháp định vị
(method of loci - loci là một từ Latin có nghĩa là nơi chốn, vị trí) nhằm sắp xếp các ý
tưởng cần phải nhớ để diễn thuyết. Theo phương pháp này, người ta hình dung một
đoạn của bài diễn văn "cư trú" ở một vị trí đặc biệt trong một tòa nhà.
Chẳng hạn, bạn có thể tưởng tượng đoạn mở đầu bài nói chuyện định vị ở lối
vào ngôi nhà bạn, điểm quan trọng hàng đầu định vị ở phòng khách, điểm quan trọng
kế đó là phòng ăn, và cứ thế cho đến đoạn kết luận nằm ở phía sau phòng ngủ.
Phương pháp này có thể ứng dụng để học thuộc dễ dàng các bằng ngữ vựng:
mỗi từ vựng trong bảng được hình dung định vị ở một trong các vị trí liên tiếp nhau.
Phương pháp này hữu hiệu nhờ dùng các hình ảnh tưởng tượng càng kỳ lạ càng tốt.
Thí dụ, nếu muốn ghi nhớ nhiều ngữ vựng về các mặt hàng tạp phẩm bao gồm chuối,
nước xốt cà chua, và sữa chẳng hạn, bạn có thể hình dung quả chuối giống như các
ngọn lá cây xoắn bện vào nhau ở cây thu hải đường (begonia) trong phòng khách nhà
bạn, nước xét cà chua thì bị đổ tràn ra ở cuối bàn, còn sữa thi dính đầy chụp đèn
trên bàn. Mỗi khi đến siêu thị, trong tâm trí bạn như "dạo bước" trong căn phòng
khách nhà bạn, việc nhớ lại các từ vựng về các mặt hàng ấy sẽ dễ dàng hơn.
* Hiện tượng đặc thù hóa điều kiện lập mã ban đầu . Một số khảo cứu cho
thấy nhớ lại thông tin dễ dàng nhất trong một bối cảnh giống như hoặc tương tự như
bối cảnh mà chúng ta ghi nhớ thông tin hồi đầu - hiện tượng này gọi là đặc thù hóa
điều kiện lập mã bên đầu (encoding specificity). Như vậy, bạn sẽ làm bài thi dễ dàng
chẳng hạn, đôi khi tác động rất mạnh đến mức lấn áp cả những gợi ý tế nhị hơn liên
quan đến việc lập mã ban đầu của nội dung ghi nhớ.
* Sắp xếp nội dung bài học. Điều quan trọng cho hầu hết cuộc sống chúng ta
là cần phải nhớ lại không phải từng câu từng chữ mà thường là nội dung bài học hay
đoạn văn mà chúng ta đã đọc qua. Bạn làm cách nào để dễ dàng ghi nhớ nội dung
ấy? Một phương pháp đã kinh qua thử thách để giúp bạn dễ dàng nhớ lại các đoạn
văn ấy là sắp xếp nội dung của nó ngay khi bạn đọc lần đầu. Muốn vậy, trước tiên bạn
nên tìm hiểu bất kỳ thông tin nào báo trước về cơ cấu và nội dung bài học - lược qua
mục lục, đề cương bài học, nhan đề các phân đoạn, và cả đến đoạn tóm tắt nêu ở
cuối bài học - trước khi đọc vào bài học. Tìm hiểu cách dàn ý sẽ giúp bạn dễ dàng
nhớ lại bài học hơn.
Một kỹ thuật khác là tự đặt cho mình các câu hỏi liên quan đến nội dung mà
bạn đã đọc qua, rồi trả lời các câu hỏi đó. Đặt ra được các câu hỏi sẽ giúp bạn lập
được các mối liên kết cũng như thấy được các tương quan giữa nhiều sự kiện đặc
biệt khác nhau, nhờ đó xúc tiến việc xử lý thông tin ở tầng sâu hơn trong tâm trí. Như
khảo hướng các mức xử lý thông tin ghi nhớ đề nghị, việc làm này sẽ giúp chúng ta
dễ dàng nhớ lại sau này. Thí dụ, ngay lúc này bạn có thể đặt ra câu hỏi cho chính
mình: "Các phương pháp chủ yếu để ghi nhớ nội dung bài học trong các sách giáo
khoa là các phương pháp nào?", và sau đó cố gắng trả lời câu hỏi này.
* Sắp xếp các đoạn ghi chép bài bảng ở lớp. "Ghi chép ít sẽ tốt hơn" có lẽ là
lời khuyên có giá trị nhất cho việc ghi chép bài giảng ở lớp đế giúp bạn dễ nhớ lại bài
học. Thay vì gò lưng ghi chép mọi chi tiết bài giảng, tốt hơn bạn nên dành thời giờ để
chăm chú nghe và tìm hiểu nội dung, chỉ ghi lại các điểm chính sau khi bạn đã cân
nhắc các điểm ấy trọng một bối cảnh kiến thức bao quát hơn. Muốn cho việc ghi chép
bài giảng có hiệu quả, động não tìm hiểu nội dung bài học còn quan trọng hơn việc
ghi chép ra giấy. Chính vì lý do này mà việc mượn lại tập vở ghi chép của người khác
là hành vi kém khôn ngoan, bởi vì bạn không hề có một cơ cấu ghi nhớ nào để sử
dụng nhằm tìm hiểu các lời ghi chép ấy cả.
* Rèn luyện và diễn tập. Mặc dù việc rèn luyện (pratice) không nhất thiết là
hoàn hảo, nhưng nó cũng có ích lợi. Nhờ tìm hiểu và diễn tập (rehearsing) nội dung
bài học vượt quá mức sơ bộ hiểu bài - tiến trình này gọi là học thuộc làu làu
(overlearning) - người ta có thể nhớ được dài hơn so với trường hợp thì mới học
thuộc sơ qua bài học.
Dĩ nhiên, dù sao việc rèn luyện cũng không có hoặc có tác dụng rất ít trong một
số trường hợp. Có lẽ bạn đã nằm lòng địa chỉ của mình đến mức không ổn phải rèn
luyện thêm chút nào để có thể ghi nhớ nhiều hơn nữa. Nhưng cũng hợp lý khi nói
rằng bởi vì nội dung các bài học trong hầu hết các môn học hiếm khi được ghi nhớ
đã được bàn trước đây trong chương này, cũng cho thấy rằng việc rèn luyện qua
động tác nêu ra câu hỏi và diễn tập cách trả lời các câu hỏi ấy được thể hiện một
cách càng chủ động càng tốt là điều quan trọng. Bằng cách này, các mối liên kết giữa
các chi tiết nội dung bài học sẽ dễ trở thành hiển nhiên, nhằm cho bạn nhiều gợi ý để
dễ dàng nhớ lại bài học sau này.
Cuối cùng, những người học gạo để chuẩn bị thi nên lưu ý rằng cách ghi nhớ
thuận lợi nhất trong trường hợp phân phối việc học qua nhiều giai đoạn, chứ không
nên để dồn vào một học kỳ kéo dài lê thê. Các công cuộc khảo cứu đều minh chứng
rõ rệt rằng tình trạng mệt nhọc và các yếu tố khác khiến cho kỳ học tập kéo dài không
đạt được kết quả bằng kế hoạch chia đều việc học tập ra nhiều kỳ học tập ngắn hạn.
4. Tóm tắt và học ôn III
A. TÓM TẮT
- Hiện tượng phai nhạt (decay) và hiện tượng can thiệp (interference) là những
cách lý giải chủ yếu cho hiện tượng quen (forgetting).
- Có hai dạng can thiệp, can thiệp về sau (proactive interference - xảy ra khi
các thông tin học hỏi được trước đây gây trở ngại cho việc nhớ lại các thông tin mới
tiếp thu được) và can thiệp về trước (retroactive interference – xảy ra khi các thông tin
mới tiếp thu được gây trở ngại cho việc nhớ lại các thông tin đã học hỏi được trước
đây).
- Các rối loạn ký ức chủ yếu là bệnh Alzheimer (Alzheimer’s disease), chứng
quên về trước (retrograde amnesia), chứng quên về sau (anterograde amnesia), và
hội chứng Korsakoff (Korsakoff’s syndrome).
- Những phương pháp đặc biệt để tăng cường khả năng ghi nhớ là kỹ thuật
dùng tự then chốt (keyword technique), phương pháp định vị (method of loci), đặc thù
hóa điều kiện lập mã ban đầu (encoding specificity), sắp xếp nội dung bài học trong
sách giáo khoa; ghi chép bài giảng có hiệu quả, rèn luyện và diễn tập.
B. HỌC ÔN
1/ Sau khi học qua giai đoạn Thế thiến thứ hai thuộc môn sử học trong niên
khóa cách đây 2 năm, giờ đây bạn tự cảm thấy không còn nhớ lại được những điều
đã học. Một người bạn bảo rằng và tình trạng không sử dụng đến các thông tin ấy đã
khiến cho bạn quên đi. Tên gọi chính thức của tiến trình này là gì?
2/...... là một biến chuyển thể chất thực sự phát sinh trong não bộ do việc học
tập.
3/ Tình trạng khó nhớ lại do sự hiện diện của các thông tin khác minh chứng
cho hiện tượng nào?
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Tâm lý học căn bản (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tai_lieu_tam_ly_hoc_can_ban_phan_2.pdf