Giải pháp nâng cao hiệu quả mô hình hợp tác công tư trong đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông vận tải Việt Nam

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ MÔ HÌNH HỢP TÁC  
CÔNG TƯ TRONG ĐẦU TƯ CƠ SỞ HẠ TẦNG GIAO THÔNG  
VẬN TẢI VIỆT NAM  
ThS.Nguyễn Quang Đức  
Đảng Ủy Khối Doanh nghiệp Trung Ương  
Tóm tắt  
Trong những năm gần đây, nhiều luật, chính sách được ban hành để điều chỉnh  
việc thực thi các dự án đầu tư có sử dụng vốn ngoài ngân sách như Luật đất đai 2013,  
Luật đầu tư công 2014… Với nhiều sự thay đổi trong cơ chế chính sách như vậy, chúng  
ta mong đợi các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng sẽ được quản trị tốt hơn để tăng mức lợi ích  
mà xã hội và cộng đồng nhận được, giảm các chi phí phải trả để có công trình hạ tầng.  
Các công trình hạ tầng giao thông vận tải ngày càng gia tăng về số lượng, quy mô  
và phát huy hiệu quả kinh tế xã hội cho đất nước, đặc biệt là các công trình hình thành  
và hoạt động theo mô hình hợp tác công tư (PPP). Tuy nhiên, việc phát triển hạ tầng giao  
thông theo mô hình này đã và đang đặt ra những yêu cầu cũng như đề xuất các giải pháp  
để hoàn thiện và áp dụng rộng rãi không chỉ đối với lĩnh vực hạ tầng giao thông mà đối  
với tất cả các lĩnh vực hạ tầng kinh tế xã hội khác trên phạm vi toàn bộ đất nước.  
Giao thông vận tải là một bộ phận quan trọng trong cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội,  
cần ưu tiên đầu tư phát triển đi trước một bước với tốc độ nhanh, bền vững nhằm tạo tiền  
đề cho phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, phục vụ sự nghiệp công  
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên trong thời gian vừa qua, có hiện tượng khi  
nhà nước giao đất cho các nhà đầu tư để xây dựng hạ tầng, thực hiện đầu tư theo mô  
hình hợp tác công tư đã để xảy ra việc thất thoát tiền của nhà nước, dự án không hiệu  
quả, mặt khác, mức độ hài lòng của người dân – đặc biệt là những người bị thu hồi đất  
để thực hiện dự án cũng ở mức thấp.  
I. Yêu cầu đối với các công trình hạ tầng giao thông vận tải theo mô hình PPP  
Qua các nghiên cứu và phương pháp quản lý, khai tác tài nguyên đất đai, có thể  
nhận thấy một số các yêu cầu cần đạt được trong việc quản lý, triển khai các dự án đầu tư  
cơ sở hạ tầng giao thông vận tải với mô hình hợp tác công tư như sau:  
- Phát huy tối đa lợi thế về vị trí địa lý và nguồn lực về đất đai để phát triển hệ thống  
giao thông vận tải hợp lý, giảm thiểu chi phí vận tải, tiết kiệm chi phí xã hội. Phát triển  
kết cấu hạ tầng giao thông một cách đồng bộ, hợp lý, từng bước đi vào hiện đại, tạo nên  
mạng lưới hoàn chỉnh, liên hoàn, liên kết giữa các phương thức vận tải, giữa các vùng  
lãnh thổ, giữa đô thị và nông thôn trên phạm vi toàn quốc.  
- Cần quan tâm đến lợi ích của những người dân bị ảnh hưởng của công trình và  
những người dân bị thu hồi đất. Các công trình hạ tầng giao thông vận tải khi ra đời sẽ  
mang lại lợi ích lớn cho xã hội nhưng cũng sẽ có ảnh hưởng, cả tích cực và tiêu cực, đến  
561  
những hộ dân sống ở lân cận và những người dân bị thu hồi đất để thực hiện dự án. Đây  
là trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách quản lý đất đai, điều tiết giá  
trị tăng thêm từ đất cho các đối tượng bị thiệt hại.  
- Cần có sự tham gia của người dân vào quy trình thực hiện dự án, tăng cường sự  
giám sát của người dân/cộng đồng đối với tất cả các khâu của dự án để tranh việc thiếu  
sự giám sát dẫn đến tư lợi của một số nhóm người lợi dụng chính sách, vị trí quản lý để  
thu lợi cá nhân, đặc biệt trong khâu bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu hồi  
đất để thực hiện dự án.  
- Coi trọng công tác bảo trì, đảm bảo khai thác hiệu quả, bền vững kết cấu hạ tầng  
giao thông hiện có. Đồng thời đẩy mạnh việc nâng cấp và xây dựng mới các công trình  
kết cấu hạ tầng giao thông mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội, trước hết là trục Bắc - Nam,  
các khu kinh tế trọng điểm, các trục giao thông đối ngoại, các đô thị lớn và các vùng có  
ý nghĩa quan trọng trong chiến lược xóa đói, giảm nghèo và phục vụ an ninh, quốc phòng.  
- Huy động tối đa mọi nguồn lực, đặc biệt chú trọng nguồn lực từ đất đai để tạo điều  
kiện cho mọi hình thức và từ mọi thành phần kinh tế để đầu tư phát triển giao thông vận  
tải. Xã hội hóa việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, trước hết là kết cấu hạ  
tầng giao thông đường bộ: người sử dụng kết cấu hạ tầng giao thông có trách nhiệm đóng  
góp để bảo trì và tái đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông.  
- Dành quỹ đất hợp lý để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông và đảm bảo hành  
lang an toàn giao thông. Quy hoạch sử dụng đất cho kết cấu hạ tầng giao thông cần có sự  
thống nhất và phối hợp thực hiện đồng bộ, chặt chẽ giữa các Bộ, ngành và địa phương.  
II. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả mô hình hợp tác công - tư trong đầu tư cơ sở  
hạ tầng giao thông tại Việt Nam  
1. Giải pháp về khuôn khổ thể chế  
Xây dựng và hoàn thiện một khuôn khổ thể chế mới cho hình thức PPP ở Việt Nam  
là rất quan trọng, bởi theo các chuyên gia về PPP thì kinh nghiệm thực hiện PPP từ nhiều  
nước trên thế giới, việc các luật thiếu thống nhất, cũng như việc thiếu các văn bản hướng  
dẫn thực hiện thỏa đáng, đều là những yếu tố góp phần làm các dự án PPP thất bại. Khung  
pháp lý này phải đặc biệt quan tâm đến các quy định về trách nhiệm tài chính đối với hỗ  
trợ tài chính của chính phủ, cũng như quy định rõ cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm  
thực hiện các dự án PPP.  
Khuôn khố thể chế về PPP được hiểu là hành lang pháp lý, năng lực triển khai của  
cơ quan nhà nước và các điều kiện để đảm bảo tính khả thi của các quy định và quyết  
định về dự án. Vì vậy, để tiến tới hoàn thiện thể chế về PPP một số nội dung quan trọng  
cần thực hiện như sau:  
Luật về PPP. Trong dài hạn, việc xây dựng một đạo luật về PPP là cần thiết nhằm  
luật hóa các quy định đã được áp dụng ổn định và khả thi về PPP, nhưng quan trọng hơn  
là đạo luật về PPP cho phép quy định những cơ chế đặc thù chỉ áp dụng cho dự án PPP,  
562  
mà chưa được nêu hoặc vượt các quy định thông thường tại Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu,  
Luật Đất đai, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp v.v... Luật về PPP cũng sẽ là cơ sở bảo  
đảm cho quyền và lợi ích của nhà đầu tư được đảm bảo cao nhất, qua đó khuyến khích  
nhiều nhà đầu tư tham gia vào lĩnh vực vốn lớn và rủi ro là hạ tầng giao thông. Kinh  
nghiệm của nước ngoài trong việc xây dựng và thực hiện Luật Thúc đẩy PPP có thể nghiên  
cứu áp dụng cho trường hợp của Việt Nam.  
Về quy hoạch dự án PPP. Lộ trình kêu gọi hợp tác theo phương thức PPP hiện nay  
thường do các Bộ ngành, địa phương đề xuất và thường là các dự án chưa tìm được nguồn  
vốn. Vấn đề ở đây là cần xây dựng bộ tiêu chí xác định dự án đưa vào danh mục kêu gọi  
PPP, trong đó quan tâm đến tính hấp dẫn của dự án, cũng như các điều kiện cần có để thu  
hút sự quan tâm của nhà đầu tư. Bên cạnh sự phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế -  
xã hội của địa phương, quy hoạch ngành, quy hoạch sử dụng đất… các tiêu chí có thể là  
tính kinh tế của dự án (quy mô, tỷ lệ hoàn vốn,...), mức độ tác động đến sự phát triển cộng  
đồng thụ hưởng dự án, tính kết nối của công trình hạ tầng với các mục tiêu khác... Bên  
cạnh đó, cần có cơ chế và ngân sách để tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước có thẩm  
quyền tính toán các chi tiêu kinh tế, tài chính về tính khả thi của dự án, làm căn cứ cho  
việc đàm phán sau này.  
Về trình tự thủ tục thực hiện PPP. Cần bổ sung điều khoản quy định rõ về từng  
bước thực hiện, theo đó ghi rõ thời gian, trách nhiệm của từng cơ quan, từng bên và  
phương thức giải quyết vướng mắc trong quá trình đề xuất, đàm phán và triển khai dự án  
PPP. Đồng thời có chế tài xử lý những trường hợp không làm hết trách nhiệm.  
Về quy định nguồn vốn cho dự án PPP. Nghị định 63/NĐ-CP/2018 quy định tỷ lệ  
vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư Cụ thể, Đối với dự án có tổng vốn đầu tư đến 1.500 tỷ  
đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư không được thấp hơn 20% tổng vốn đầu tư;  
Đối với dự án có tổng vốn đầu tư trên 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư  
được xác định theo nguyên tắc: Đối với Phần vốn đến 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu  
không được thấp hơn 20%; đối với Phần vốn từ trên 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu  
không được thấp hơn 10%. Nghị định 63 linh hoạt hơn khi không áp dụng cứng nhắc tỷ  
lệ vốn của nhà đầu tư như Nghị định và Quyết định trước đây. Tuy nhiên do nặng về thu  
hút đầu tư xã hội hóa, tư nhân hóa và đầu tư nước ngoài, việc chỉ khống chế vốn thực có  
của nhà đầu tư ở mức 20% sẽ là một rủi ro lớn và đẩy chi phí đầu tư lên cao vì phải gánh  
lãi suất ngân hàng lớn. Trước đây, quy định vốn thực có của nhà đầu tư trong các dự án  
BOT quá thấp (nhỏ hơn 15%), trong khi vấn đề bảo đảm thực hiện hợp đồng không rõ  
ràng. Chính vì vậy vốn thực chất của nhà đầu tư là đi vay ngân hàng thương mại mà cuối  
cùng Nhà nước vẫn phải trả lãi. Nghị định này chưa thấy có nhiều điểm mới để thu hút  
nhà đầu tư tham gia đầu tư. Một trong những việc mà các nhà đầu tư vẫn lo ngại khi thực  
hiện dự án theo hình thức PPP, đó là việc bố trí vốn của Nhà nước cho giải phóng mặt  
bằng. Đối với các dự án nhỏ thì điều này không đáng lo ngại, tuy nhiên ở các dự án lớn,  
nó có thể sẽ lại kéo dài hàng năm do ngân sách không đủ. Nhà nước phải bảo đảm điều  
kiện về ngân sách cho việc chuẩn bị và triển khai dự án PPP đúng cam kết và đúng tiến  
độ, đặc biệt là phần tham gia của Nhà nước, chi phí đền bù giải phóng mặt bằng v.v...  
563  
Nghiên cứu quy định cụ thể về hạn mức vốn chủ sở hữu phù hợp cho từng dự án, đảm  
bảo thu hút nhà đầu tư và tính hiệu quả của dự án.  
Về phân cấp trong thực hiện dự án PPP. Xây dựng các văn bản hướng dẫn xác định  
rõ về phân cấp thẩm định, phê duyệt dự án PPP theo cấp hành chính hay theo qui mô của  
dự án. Cần xem xét lại định nghĩa doanh nghiệp dự án (về pháp nhân, cơ cấu vốn,…) Cần  
nêu rõ thành phần cụ thể của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, vai trò của cơ quan Nhà  
nước có thẩm quyền và với các cơ quan Nhà nước liên quan khác, với đơn vị PPP và với  
các doanh nghiệp PPP. Khi đã thống nhất lựa chọn Nhà đầu tư, ai sẽ chịu trách nhiệm  
ký, theo dõi và quản lý hợp đồng PPP, vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước trong quá  
trình thực hiện dự án PPP (về kỹ thuật, chất lượng, an toàn, vận hành…).  
Đảm bảo tính dự báo của thể chế. Để thực hiện được PPP, hệ thống chính sách của  
Việt Nam phải đảm bảo được tính dự báo, sự rõ ràng, sự ổn định và tính minh bạch. Phải  
hợp lý hoá quá trình cấp phép, duy trì chính sách ngành đồng bộ và lập cơ quan điều tiết  
đáng tin cậy, cũng như tạo sân chơi công bằng cho các thành phần tham gia cả từ khu vực  
Nhà nước và Tư nhân.  
Cải cách thể chế đồng bộ. Khó có thể lựa chọn biện pháp cải cách chính sách từng  
phần, với Việt Nam, tốt hơn hết là phải thực hiện một chính sách cải cách trọn gói, bao  
gồm cả chính sách tài chính, chính sách ngành và cơ chế hợp tác PPP chung. Đẩy mạnh  
việc nghiên cứu, xây dựng và ban hành một hệ thống đồng bộ các văn bản luật, dưới luật,  
hướng dẫn thi hành luật trong lĩnh vực đầu tư xây dựng công trình giao thông theo mô  
hình PPP. Xây dựng và ban hành các chính sách quản lý thống nhất, kiện toàn khung thể  
chế quản lý về đầu tư xây dựng theo mô hình PPP dưới các hình thức khác nhau. Ban hành  
các tiêu chuẩn đối với các dự án PPP. Ban hành các chế tài xử lý các vi phạm trong lĩnh  
vực đầu tư xây dựng công trình giao thông theo hình thức PPP. Cụ thể hóa các văn bản  
dưới luật, đồng thời phải tiến hành thường xuyên kiểm tra, kiểm soát việc thi hành luật.  
Thể chế chính sách này phải đồng bộ và mô hình PPP cũng phải mang đặc tính Việt  
Nam, trên cơ sở tôn trọng các tiêu chuẩn, khái niệm được cộng đồng quốc tế công nhận,  
không nên chỉ đơn thuần sao chép lại triết lý của phương Tây. Để thực sự thu hút được  
các nhà đầu tư tư nhân, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài thì các văn bản luật về PPP  
phải tính toán cụ thể và chi tiết tất cả các yếu tố có ảnh hưởng đến các nhà đầu tư.  
Lựa chọn loại hình hợp đồng PPP. Bên cạnh việc hoàn thiện khung pháp lý thể chế  
cho việc triển khai các dự án PPP ở Việt Nam thì việc lựa chọn mô hình phù hợp cho từng  
loại dự án xây dựng hạ tầng giao thông cũng là một trong những việc làm cần thiết nhằm  
đạt được hiệu quả tốt nhất mà dự án mang lại. Việc lựa chọn mô hình triển khai cho các  
dự án phải dựa trên các yếu tố:  
- Trước hết vào mục tiêu mà chính phủ đưa ra như là loại mô hình đó phải đạt được  
tính khả thi về tài chính, vận hành của công ty trên cơ sở thương mại bền vững, đảm bảo  
tính liên tục của dịch vụ, phát triển nguồn nhân lực, tăng phạm vi bảo hiểm, cải thiện chi  
phí phục hồi, giảm chi phí điều hành, đáp ứng nhu cầu tương lai, giảm thất thoát...  
564  
- Dựa vào yêu cầu của các phương án để lựa chọn mô hình phù hợp với môi trường  
pháp lý và quy định hiện có.  
- Bên cạnh đó cần dựa vào quy mô, đặc điểm của dự án, môi trường hoạt động và  
nguồn tài chính dự kiến mà lựa chọn loại hợp đồng sao cho phù hợp, đảm bảo thực hiện  
một cách tốt nhất và mang lại được lợi ích cho cả nhà đầu tư và nhà nước.  
Ở Việt Nam các dự án xây dựng hạ tầng giao thông hiện nay mới chỉ dừng lại ở 3  
hình thức BOT, BTO và BT trong khi trên thế giới đã xuất hiện nhiều hình thức khác  
nhau và đạt được những kết quả khả quan. Trong nghị đinh 63/2018/NĐ-CP về đầu tư  
theo hình thức đối tác công - tư có nêu ra 7 mô hình hợp tác công tư sau: BOT, BTO, BT,  
BOO, BTL, BLT, O&M.  
+ Trước hết phải kể đến là mô hình hợp đồng Vận hành và Bảo trì. Từ trước đến  
nay phần việc này hầu như chỉ do Cục Đường bộ VN thực hiện thông qua các công ty  
quản lý sửa chữa đường bộ. Tuy nhiên, hiện nay nhu cầu vận hành, bảo trì đường bộ ngày  
càng lớn và ngân sách nhà nước lại hết sức hạn chế. Nếu phần việc này có sự tham gia  
của các nhà đầu tư tư nhân sẽ giải quyết được rất nhiều những khó khăn do thiếu vốn và  
và kỹ thuật cũng như chất lượng vận hành và bảo trì. Việc làm này cũng đảm bảo cho  
việc bảo trì cầu và đường bộ không tùy thuộc vào những thay đổi trong ưu tiên chính trị  
hoặc nhu cầu xử lý các nhu cầu bảo trì khẩn cấp. Đây là mô hình mà nhà nước nhượng  
quyền cho khu vực tư nhân thực hiện việc vận hành và bảo trì công trình và phía tư nhân  
sẽ được hưởng những ưu đãi nhất định.  
+ Mô hình thứ hai rất có tiềm năng là hợp đồng chìa khóa trao tay, hay còn gọi là  
phương pháp thiết kế - xây dựng cung cấp dự án thường kết hợp hai giai đoạn tách biệt  
thành một hợp đồng duy nhất. Nhà thầu có thể là một công ty duy nhất, cũng có thể là  
một tổ hợp các công ty hoặc liên doanh với thiết kế chuyên môn và kiến thức xây dựng.  
Một hình thức khác của phương pháp chìa khóa trao tay là Thiết kế - Xây dựng - Vận  
hành - Bảo trì, hay còn gọi là hợp đồng DBOM. Trong hình thức này, các trách nhiệm  
vận hành và bảo trì được kết hợp với các trách nhiệm thiết kế và xây dựng thành một hợp  
đồng duy nhất, điều này cho phép khu vực tư nhân đạt được hiệu quả trong nhiều lĩnh  
vực hơn. Khi đó chính phủ sẽ chỉ làm nhiệm vụ giám sát việc thực hiện của khu vực tư  
nhân, còn việc thực hiện dự án sẽ do nhà tư nhân đảm nhiệm toàn bộ. Với hợp đồng này  
trách nhiệm của khu vực tư nhân là rất lớn còn nhà nước chỉ có trách nhiệm một phần  
trong lĩnh vực quản lý. Đây cũng là một trong những hợp đồng được dự tính là mang lại  
hiệu quả cao khi mà năng lực của khu vực tư nhân ngày được nâng cao.  
+ Hợp đồng chuyển nhượng vận hành và bảo trì, hay cho thuê là mô hình tiềm năng  
thứ ba có thể khai thác trong thời gian tới. Ở hình thức này, các nhà đầu tư tư nhân sẽ  
thanh toán phí nhượng quyền trước cho khu vực nhà nước để đổi lấy quyền thu và giữ lại  
phí đường cho một giai đoạn nhất định. Trong thực tế, tư nhân mua nguồn thu từ con  
đường đổi lấy phí cố định và các nghĩa vụ vận hành, bảo quản con đường. Thỏa thuận thu  
mua thường kéo dài từ 5- 15 năm. Ở mô hình này, những rủi ro trong quá trình đầu tư  
thường được chuyển giao cho các nhà đầu tư tư nhân. Ngược lại, các nhà đầu tư tư nhân  
565  
có được lợi nhuận từ việc lựa chọn đầu tư và thu phí đối với các dự án tiềm năng. Với  
hình thức này nhà nước sẽ yên tâm hơn khi mà nguồn vốn thu hồi được đã được xác định  
trước chính là phí nhượng quyền mà nhà tư nhân phải trả. Sau khi hợp đồng được kí kết  
thì chỉ diễn ra mối quan hệ giữa nhà đầu tư tư nhân và người sử dụng.  
+ Hình thức thứ tư là Thiết kế - Xây dựng - Tài trợ - Bảo trì (DBFM), ở hình thức  
này, nhà đầu tư tư nhân sẽ chịu trách nhiệm về thiết kế, xây dựng, tài trợ và bảo trì. Sở  
hữu tài sản là phía nhà nước. Tuy nhiên, Chính phủ thường ban hành các quy định bảo trì  
hoàn thiện cụ thể cần thực hiện trong hợp đồng nhằm bảo đảm các tài sản được sử dụng  
và bảo trì hợp lý trong giai đoạn hợp đồng và ở tình trạng tốt khi hoàn tất. Ở hình thức  
này, nhà nước sẽ chịu trách nhiệm thu phí, tuy nhiên, việc này cũng có thể thực hiện thông  
qua một hợp đồng khác với nhà đầu tư tư nhân. Với hợp đồng này nhà nước thể hiện rõ  
trách nhiệm chia sẻ rủi ro với nhà đầu tư tư nhân.  
+ Một số mô hình nữa có thể kể đến là hình thức công ty liên kết trong thực hiện và  
vận hành. Mô hình PPP này liên quan đến sự thiết lập một công ty thực hiện dự án để  
phát triển, thực hiện và vận hành con đường. Vốn chủ sở hữu của công ty này được đóng  
góp từ cả hai phía Nhà nước và Tư nhân. Hay như mô hình tư nhân hóa hay Xây dựng-  
Sở hữu- Vận hành. Với mô hình này, chủ sở hữu là nhà nước trao thầu nhượng quyền cho  
một đối tác tư nhân để thiết kế, xây dựng, tài trợ, sở hữu, vận hành và bảo trì một dự án  
giao thông trong tương lai. Do vậy, sở hữu tài sản này thuộc vào khu vực tư nhân và  
không có sự chuyển giao sở hữu về cho nhà nước. Điều này được coi là tư nhân hóa hoặc  
chuyển giao tài sản công.  
Mặc dù có rất nhiều mô hình tiềm năng như vậy, tuy nhiên việc lựa chọn không  
phải lúc nào cũng dễ dàng, do đó ở mỗi dự án cụ thể thì cả nhà nước và nhà đầu tư tư  
nhân đều cần phải tính toán và xem xét ở rất nhiều yếu tố để có được mô hình thích hợp,  
có thể phát huy hiệu quả. Có rất nhiều bước để lựa chọn và đánh giá từng mô hình cho  
từng dự án như: mức độ khả thi của việc thu phí; đánh giá quy mô dự án; phân bổ rủi ro  
ban đầu; đánh giá khả năng thanh toán và mức độ khả thi về tài trợ; khả năng tăng cường  
tính khả thi cho dự án,…  
+ Khi xây dựng khung pháp lý về PPP ở Việt Nam, trước hết xây dựng cơ chế cấp  
phép, hỗ trợ tài chính, quản lý, tư vấn, giám sát... và các chính sách hỗ trợ khác về đất  
đai, công trình phụ trợ, đào tạo, chuyển giao công nghệ.  
+ Các điều kiện về quyền can thiệp của bên cho vay/chính phủ cần được xác định  
rõ hơn, liên quan tới các trường hợp chậm trả nợ.  
Cơ chế hỗ trợ cho từng dự án. Cung cấp hỗ trợ về thể chế trong quá trình phát triển  
và thực hiện dự án.  
Về phí kinh doanh dịch vụ. Cơ sở để ấn định biểu phí phải được nêu rõ trước khi  
đấu thầu hoặc phải được mang ra đấu thầu cạnh tranh thay vì để đến giai đoạn thương  
thảo hợp đồng.  
566  
Đảm bảo rủi ro cho dự án PPP. Khi khung pháp lý PPP hoàn chỉnh được ban hành,  
thì cơ chế phân bổ rủi ro tiêu chuẩn là rất cần thiết. Tuy nhiên, để có được cơ chế mang  
tính pháp lý đó nhằm đưa ra được mô hình bảo đảm xử lý rủi ro và mang tính pháp lý  
cao, trước hết chúng ta phải đi từ việc thực hiện các dự án cụ thể, từ đó đúc rút kinh  
nghiệm và từng bước hoàn thiện các quy định.  
Về căn cứ khoa học để quyết định phương án đầu tư, phương án chia sẻ lợi ích/rủi  
ro, cần có quy định bắt buộc nghiên cứu chuyên sâu, phân tích, dự báo, lượng hóa các tác  
động khi thực hiện dự án PPP, trên cơ sở đó quyết định cơ chế chia sẻ lợi ích/rủi ro, cơ  
chế xác định giá/phí dịch vụ, phương án quản lý, cơ chế giám sát và cơ chế ưu đãi phù  
hợp cho từng trường hợp để vừa bảo đảm yêu cầu của Nhà nước vừa bảo đảm lợi ích hợp  
pháp của nhà đầu tư, có như vậy mới thúc đẩy và hiện thực hóa được các dự án PPP.  
2. Giải pháp điều tiết giá trị gia tăng từ đất  
Đây là trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách quản lý đất đai,  
điều tiết giá trị tăng thêm từ đất.  
Thực tế, để làm tăng giá trị cao nhất của đất, Nhà nước cần phải điều tiết việc quản  
lý, sử dụng đất thông qua nhiều hình thức, trong đó có thu hồi đất, đây là một trong những  
nội dung quan trọng của chức năng quản lý nhà nước về đất đai, nhưng phải bảo đảm lợi  
ích quốc gia và nhu cầu công trình hạ tầng giao thông vận tải của toàn xã hội. Xuất phát  
từ yêu cầu này, các vấn đề liên quan đến thu hồi đất để phát triển công trình giao thông  
vận tải vì lợi ích quốc gia, công cộng phải được luật hóa nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc  
thu hồi đất. Bởi vì, đây không chỉ là một phương thức thực hiện quyền đại diện chủ sở  
hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước, mà còn là trách nhiệm của Nhà nước trong việc  
làm cho đất đai trở thành tư liệu sản xuất hiệu quả vào quá trình công nghiệp hóa, hiện  
đại hóa đất nước.  
Việc thu hồi đất để thực hiện các dự án giao thông vận tải… sẽ làm tăng thêm giá  
trị của đất không chỉ những nơi có đất bị thu hồi, mà còn những khu vực lân cận của dự  
án. Giải pháp đối với vấn đề đất đai của các dự án PPP cụ thể như sau:  
Đối với Nhà nước, chế định thu hồi đất để phát triển công trình hạ tầng giao thông  
vận tải mang đến nhiều lợi ích cho công tác quản lý nhà nước như giúp Nhà nước thực  
hiện quy hoạch sử dụng đất nhằm làm tăng tối đa hiểu quả sử dụng đất của toàn bộ khu  
vực; tạo điều kiện cho nhà đầu tư tham gia thực hiện các dự án PPP nói riêng, các dự án  
phát triển kinh tế xã hội cần sử dụng cơ sở hạ tầng giao thông này nói chung, từ đó kích  
thích nền kinh tế phát triển; Nhà nước không phải bỏ ra một khoản kinh phí rất lớn để xây  
dựng cơ sở hạ tầng gia thông vận tải phục vụ cho nền kinh tế hoặc nhu cầu của xã hội,  
nhà đầu tư sẽ thay Nhà nước làm việc này, thậm chí việc này còn tạo ra nguồn thu cho  
Nhà nước từ tiền giao đất, cho thuê đất, thuế…  
Đối với nhà đầu tư, Nhà nước thu hồi đất để giao hoặc cho nhà đầu tư thực hiện các  
dự án. Đây là dự án liên quan trực tiếp đến “túi tiền” của nhà đầu tư nên họ sẽ có động  
567  
lực tốt hơn trong việc khai thác dự án đẩu tư để thu lại hiệu quả cao nhất cho minh. Do  
đó, hiệu quả của dự án đầu tư cũng được nâng lên.  
Đối với người có đất bị thu hồi thực hiện dự án PPP, trong quá trình phát triển đất  
nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tất yếu phải thu hồi đất để phục vụ cho  
lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, bản thân việc này cũng tác động rất lớn đến người bị  
thu hồi đất. Để bù đắp cho họ về những thiệt hại mà họ phải gánh chịu, trước khi ban  
hành Luật Đất đai năm 2003, Nhà nước ta đã có những quy định về bồi thường, hỗ trợ và  
tái định cư dành cho người bị thu hồi đất. Trên thực tế, những chính sách này ngày càng  
hoàn thiện và bảo đảm tốt hơn cho người có đất bị thu hồi ổn định đời sống và sản xuất,  
họ được bồi thường quyền sử dụng đất trên cơ sở có sự thỏa thuận theo khung giá quy  
định và thị trường.  
Đặc biệt đối với dự án PPP, ở đây cả nhà đầu tư và cộng đồng đều thu được lợi ích.  
Ngoài mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, việc thu hồi đất còn cần phải bảo đảm sự ổn  
định về chính trị, an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Muốn vậy, Nhà nước cần phải điều tiết,  
giải quyết hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người bị thu hồi đất, đây là động  
lực của sự phát triển, nếu giải quyết tốt lợi ích kinh tế giữa ba chủ thể này thì sẽ tạo động  
lực cho sự phát triển của xã hội; ngược lại, chế định thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã  
hội sẽ là nguyên nhân của những đối kháng và mâu thuẫn xã hội. Một thực tế hiện nay là  
các quy định về thu hồi đất để thực hiện các dự án PPP theo dạng BT, BOT đều đang  
thiếu. Điều 8 và Điều 155 Luật Đất đai năm 2013 đã quy định về trách nhiệm của người  
được giao đất và thẩm quyền giao đất thực hiện dự án đầu tư BT và BOT nhưng Điều 62  
Luật Đất đai lại không thể hiện đượcĐiều 62 Luật Đất đai năm 2013 chưa thể chế quan  
điểm này của Đảng nên Nhà nước thiếu cơ sở pháp lý tạo quỹ “đất sạch” thông qua thu  
hồi đất theo kế hoạch sử dụng đất hằng năm, chính điều này làm nhiều địa phương vuột  
mất cơ hội thu hút đầu tư vào các dự án ph. ục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.  
Đây là lỗ hổng lớn của Luật Đất đai năm 2013 dẫn tới tình trạng chỉ làm lợi cho nhà đầu  
tư và một số người có chức vụ, quyền, không bảo đảm lợi ích của Nhà nước, xã hội, gây  
thất thoát lãng phí đất đai.  
3. Các giải pháp tăng cường năng lực cơ quan nhà nước về PPP  
Ban chỉ đạo của nhà nước về PPP được thành lập, tuy nhiên lại không được quy  
định về trách nhiệm trong nghị định 63/2018/NĐ-CP. Điều này dẫn đến Ban chỉ đạo  
không có một vị trí pháp lý vững chắc, rất khó thực hiện vai trò điều phối, tham mưu về  
cơ chế chính sách cũng như kiến nghị các giải pháp đột phá. Cơ quan này cần phải có một  
văn bản quy định cụ thể về phân công nhiệm vụ, trách nhiệm phân định với các Bộ chuyên  
ngành. Tại các Bộ ngành và địa phương có nhiều dự án PPP có thể thành lập các Tổ công  
tác PPP trực thuộc Ban chỉ đạo, tuy nhiên vai trò của các tổ này và mối quan hệ như thế  
nào với các Bộ, cơ quan trung ương cũng cần được quy định rõ ràng.  
Về cơ chế điều phối, quản lý hoạt động PPP, nhất là mô hình cơ quan quản lý PPP,  
568  
cũng rất cần được nghiên cứu, đề xuất phương án tối ưu. Cơ chế phối hợp mặc dù đã được  
quy định tại các văn bản nhưng trên thực tế rất khó đánh giá hiệu quả phối hợp. Tăng cường  
năng lực cả về lý luận lẫn thực tiễn của Ban chỉ đạo của nhà nước về PPP để rà soát hệ thống  
pháp luật hiện hành, khảo sát nghiên cứu trong nước và nước ngoài và thực hiện thí điểm một  
số dự án, để từ đó tổng hợp và xây dựng khung chính sách pháp luật PPP cho Việt Nam.  
Khung pháp lý này phải phù hợp tiêu chuẩn quốc tế và điều kiện Việt Nam.  
Về tăng cường năng lực của các cơ quan và cá nhân tham gia vào quy trình PPP:  
hạn chế về năng lực tham mưu và thực thi chính sách là cản trở rất lớn đối với hoạt động của  
các dự án PPP, phần nào thể hiện ở việc “thí điểm PPP” cho đến nay hầu như chưa đạt được  
như mong muốn. Cần có đề án bồi dưỡng nhận thức, kiến thức về PPP cũng như hiểu biết về  
pháp luật và năng lực triển khai dự án, góp phần đưa chủ trương kêu gọi PPP vào hiện thực.  
Cơ quan Nhà nước cần chủ động và công khai đưa ra thông tin cần thiết nhất là những dự án  
đòi hỏi nguồn vốn lớn mà nhà nước muốn có sự tham gia từ phía khu vực tư nhân. Khi  
đó nhà đầu tư sẽ xem xét và lựa chọn được những dự án thích hợp với năng lực và nguồn vốn  
của mình. Nhà nước cần chủ động trong việc đề xuất hỗ trợ, và kêu gọi nhà đầu tư thay vì  
trông chờ nhà đầu tư tìm đến mình trong một số dự án kém hấp dẫn.  
Trong bước nghiên cứu khả thi của dự án khi tính tổng mức đầu tư phải xem xét tới  
các yếu tố về sự biến động của giá cả nguyên vật liệu, lãi suất, lạm phát và tỷ giá hối đoái  
và các yếu tố khác nhằm đảm bảo mức đầu tư được giữ ở mức ổn định,với chi phí tăng  
thêm là không đáng kể. Nhà nước cần đưa ra các tiêu chí cụ thể và hợp lý cho việc lựa  
chọn nhà đầu tư tham gia vào các hợp đồng PPP. Công việc này rất quan trong bởi nó tác  
động lớn tới công tác thực hiện dự án. Thông thường nhà đầu tư phải đủ năng lực về quản  
lý và tài chính.  
Các dự án nhà nước đưa vào thực hiện phải gắn với quy hoạch lâu dài sao cho dự  
án khi đưa vào hoạt động không bị ảnh hưởng bởi những điều chỉnh về quy hoạch. Lựa  
chọn địa điểm xây dựng công trình phù hợp chứ không chạy theo số lượng. Nhà nước cần  
có biện pháp kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào các dự án vì có những dự  
án nhà đầu tư trong nước không thể đáp ứng. Các thủ tục cấp phép đối với nhà đầu tư cần  
phải thực hiện nhanh chóng và hiệu quả bởi trên thực tế đã có dự án thủ tục cấp phép kéo  
dài làm chậm tiến độ dự án Nhà nước cần phải thực hiện đấu thầu cạnh tranh lựa chọn  
nhà đầu tư một cách minh bạch và hiệu quả thay vì các chủ đầu tư được chỉ định thầu một  
cách trực tiếp. Cần lựa chọn các nhà đầu tư có năng lực tài chính thực sự, thay vì các mục  
đích cá nhân hay vì một lý do nào đó. Nhà nước cần tìm các kênh vốn khác từ hỗ trợ, vay  
thay vì ngân sách nhà nước hay nguồn vốn từ khu vực tư nhân như ODA.  
Nhà nước cần có một sự phân tích rủi ro toàn diện để tìm ra những rủi ro có thể  
gặp phải và phân chia nó một cách cân bằng sao. Đây là nhân tố đảm bảo cân bằng rủi  
ro, lợi ích trách nhiệm giữa 2 bên – đảm bảo nguyên tắc hợp tác, công bằng hai bên  
cùng có lợi. Đây là vấn đề mà chúng ta đang gặp phải, không chủ động nghiên cứu,  
phân tích rủi ro và phân bổ rủi ro ngay từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Dẫn đến tình  
569  
trạng cơ quan nhà nước bị động trong xử lý tình huống gặp phải, nhà đầu tư cũng bị  
động, phụ thuộc vào nhà nước.  
Cần hoàn thiện các thủ tục trong hợp đồng PPP sao cho nó đảm bảo được sự ràng  
buộc được hai bên Nhà nước và Tư nhân cả lợi ích và trách nhiệm. Doanh nghiệp và nhà  
nước sẽ thực hiện đúng như cam kết đã đặt ra. Cơ quan nhà nước có thẩm trách nhiệm  
cần nhanh chóng triển khai nghị định về PPP sâu rộng trong khắp địa bàn trong ngoài  
nước thu nhận đóng góp của các nhà đầu tư. Giảm bớt thủ tục hành chính nhất là thủ tục  
liên quan đến đất đai đảm bảo dự án triển khai đúng tiến độ. Xây dựng một kế hoạch tổ  
chức tổng thể, chiến lược lâu dài về quản lý việc thực hiện các dự án đầu tư theo mô hình  
PPP. Xây dựng hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về PPP. Cần có kế hoạch nguồn nhân  
lực đối với cơ quan quản lý nhà nước cũng như đối với khu vực tư nhân để tiếp cận và  
thực thi cơ chế một cách tốt nhất nhằm triển khai dự án đạt hiệu quả như mong muốn.  
4. Các giải pháp về chính sách ưu đãi đầu tư  
Vướng mắc hiện nay là các dự án dường như chưa đủ độ hấp dẫn nhà đầu tư và việc  
tham gia của nhà nước vào dự án có thể chưa đủ sức thuyết phục đối tác tư nhân. Bên  
cạnh đó, các quy định về biện pháp khuyến khích đầu tư, cam kết, đảm bảo của nhà nước  
về triển khai dự án cũng cần mở rộng, tạo linh hoạt cho quá trình đám phán và thực hiện  
dự án.  
Muốn thu hút tư nhân tham gia đầu tư vào HTGT cần phải đưa ra ưu đãi khuyến  
khích nhất định cho các nhà đầu tư:  
Chuẩn bị danh mục dự án có tính khả thi cao. Đặc biệt, nên chọn những dự án ít đòi  
hỏi về kỹ thuật và tài chính để làm thí điểm PPP. Muốn thành công, PPP phải hội đủ 4  
yếu tố: hành lang pháp lý chuẩn, thể chế tương đối toàn diện, có thị trường tài chính phát  
triển và các cơ quan chuyên trách thực sự minh bạch. Tính toán cụ thể vạch ra lợi nhuận  
nhà đầu tư nhận được khi kết thúc dự án.  
Đưa ra loại bảo hiểm cho hình thức đầu tư này, bảo hiểm thương mại đối với  
những lĩnh vực mà dự án yêu cầu như hư hỏng vật liệu xây dựng, trì hoãn khởi công,  
bảo hiểm rủi ro chính trị. Vì dự án PPP càng kéo dài thì rủi ro càng cao. Đảm bảo đấu  
thầu đúng quy định chống tham nhũng nhằm đảm bảo sự minh bạch trong quá trình  
triển khai dự án PPP. Các nhà đầu tư tư nhân luôn muốn mọi con số phải được hạch  
toán. Chính phủ phải cam kết rằng mọi khoản đầu tư thực sự phải đến các dự án, thay  
vì chảy vào túi các cá nhân.  
Cần có những quy hoạch tổng thể trong việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận  
tải theo khu vực lãnh thổ, trong đó xác định những dự án ưu tiên cho PPP. Nên thí điểm  
dự án vừa để đúc rút kinh nghiệm tránh lãng phí. Nhà nước cần có một cơ chế hỗ trợ cần  
thiết đối với toàn bộ quá trình thực hiện dự án. Nhà nước đứng ra giải phóng mặt bằng,  
bàn giao mặt bằng là công việc khó khăn nhiều khi phải tiến hành cưỡng chế.  
570  
Đảm bảo tư nhân thu được lợi nhuận sau khi hoàn thành dự án, dung hòa lợi ích  
người dân qua giá phí, thời gian thu phí, quy định phí cho từng đối tượng, hỗ trợ phần  
nào chi phí vận hành ban đầu. Nhà nước nên quy định rõ trong đánh giá phần vốn góp  
của mình trong quy chế, nên tăng thêm giá trị phần vốn góp hữu hình, giảm giá trị phần  
vô hình trong tỷ lệ cơ cấu vốn góp.  
Hoàn chỉnh cơ chế tài chính, đặc biệt là các thủ tục cấp vốn, thanh quyết toán với  
điều kiện nhằm hài hòa các nguồn vốn, trong đó có cơ chế hợp tác PPP. Chính phủ nên  
xem xét lại trong quy chế thí điểm bảo lãnh một tỷ lệ nào đó trong vốn vay của doanh  
nghiệp, thay vì ko như hiện tại, hỗ trợ lãi suất vay cho họ. Kiểm toán công khai, minh  
bạch, gắn trách nhiệm rõ rang cán bộ nhà nước tham gia trong từng giai đoạn, đảm bảo  
lòng tin của nhà đầu tư.  
Khung pháp lý cho thực hiện PPP cần bao quát những quan hệ kinh tế - xã hội - kỹ  
thuật - công nghệ và pháp lý liên quan tới toàn bộ quá trình từ chuẩn bị, thiết kế, xây  
dựng, vận hành, khai thác và chuyển giao các công trình được xây dựng bởi các dự án  
PPP. Ngoài những vấn đề chung trong kinh doanh và xây dựng thông thường, cần có các  
quy định liên quan: vị trí, giá trị pháp lý của các cam kết trong các hợp đồng PPP; Cơ  
chế quản lý, thực hiện các cam kết của các bên liên quan trong quá trình thực hiện dự  
án; Cơ chế giám sát, theo dõi, chia sẻ thông tin liên quan tới việc thực hiện dự án; Cơ  
quan xử lý tranh chấp và chế tài đủ mạnh và có hiệu lực để buộc các bên liên quan  
thực hiện nghĩa vụ của mình; Cơ chế chia sẻ rủi ro trong quá trình hợp tác công- tư;  
Điều kiện, trách nhiệm và quyền hạn, quyền lợi của các bên khi chuyển giao công trình  
do dự án PPP tạo ra.  
Để phát triển giao thông đường bộ trong giai đoạn tới, đáp ứng các yêu cầu phát  
triển của đất nước, thông qua việc phân tích thực trạng và nhu cầu phát triển và vốn cho  
phát triển giao thông đường bộ, chúng ta nên chú ý:  
Công bố rộng rãi về chiến lược phát triển giao thông đường bộ đã được hoạch định  
trong những năm tới để toàn dân, các nhà đầu tư và xã hội biết, từ đó sẽ có những định  
hướng và chuẩn bị hợp lý cho việc đầu tư, có thể thu hút được nguồn vốn lớn và đa dạng  
nhất, góp phần phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải Việt Nam.  
Xây dựng cơ sở pháp lý đồng bộ, rõ ràng, minh bạch và công bố rộng rãi làm cơ sở  
cho việc thu hút, sử dụng vốn hiệu quả của các thành phần kinh tế tham gia góp vốn. Chỉ  
khi chúng ta có những chính sách rõ ràng, hợp lý mới có cơ sở khoa học cho việc huy  
động vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải.  
Cần khẳng định phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải là một công cuộc xây  
dựng đất nước nên cần có sự góp sức của toàn dân. Phát triển sức mạnh toàn dân vừa đảm  
bảo sức mạnh của nội lực, vừa đảm bảo sự thống nhất, đoàn kết của dân tộc trong việc  
phát triển đất nước.  
Việc vận dụng mô hình PPP trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông trên  
571  
thế giới và tại Việt Nam không còn mới mẻ, xong trong bối cảnh hiện nay thực hiện tái  
đầu tư công thì mô hình này được xem là một trong các giải pháp cho đầu tư cơ sở hạ  
tầng giao thông. Đặc biệt, việc đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông liên quan chặt chẽ đến  
hiệu quả quản lý, khai thác tài nguyên đất một cách công khai, minh bạch và theo chiến  
lược tổng thể của quốc gia.  
PPP là phương thức tốt kết hợp sự tham gia của tư nhân với nhà nước để tận dụng  
lợi thế, năng lực của từng bên. Với đặc thù của hình thức hợp tác này, khuôn khổ thể chế  
cần được xây dựng theo hướng các quy định khung, bao quát các loại hình PPP, nhưng  
không tham vọng quy định được quá chi tiết cho từng trường hợp. Mỗi dự án PPP bản  
thân nó có những đặc điểm riêng, nhất là yêu cầu cụ thể về quản lý, về cơ chế hợp tác đầu  
tư, vận hành, chia sẻ lợi ích/rủi ro. Do vậy, việc nâng cao vai trò quản lý nhà nước về kinh  
tế đất và những chính sách kinh tế đất của nước ta hiện nay là những điều kiện tiên quyết  
bảo đảm thành công của dự án hợp tác công tư trong lĩnh vực giao thông trong tương lai.  
Bên cạnh đó, cơ chế hợp tác chia sẻ lợi ích - rủi ro giữa các bên là yếu tố quan trọng, phải  
được quyết định dựa trên những tính toán, dự báo khoa học, bảo đảm hài hòa lợi ích của  
cả hai bên.  
Trong bối cảnh nhu cầu thu hút đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng của Việt Nam lớn  
hơn nhiều so với khả năng đáp ứng của nguồn lực hiện tại, áp dụng phương thức PPP  
được coi là một trong những giải pháp cần được chú trọng. Để khắc phục tình trạng chậm  
chạp trong việc đưa chủ trương kêu gọi PPP vào thực tế, khuôn khổ thể chế về PPP của  
Việt Nam cần được sớm hoàn thiện, bao gồm cả khung pháp lý chung và những quy định  
đặc thù cho phép và tạo điều kiện về pháp lý, về kỹ thuật và năng lực để cấp có thẩm  
quyền đưa ra những cam kết, chính sách mang tính đột phá, khai tác hiệu quả các nguồn  
lực đất đai, thúc đẩy quá trình hình thành, ký kết và triển khai dự án PPP.  
572  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Lê Tuấn Anh (2014), “PPP trong lĩnh vực hạ tầng giao thông - những thách thức đặt  
ra trong bối cảnh hiện nay”, Tham luận, Bộ Tài chính;  
2. Bộ Giao thông Vận tải (2012), “Chiến lược phát triển giao thông vận tải đến năm  
2020, tầm nhìn đến năm 2030”;  
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Thế giới (WB) (2011), “Hợp tác Nhà nước-  
Tư nhân trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng”;  
4. Chính phủ (2015), Nghị định số 63/2018/NĐ-CP ngày 05/5/2018 về đầu tư theo hình  
thức đối tác công tư;  
5. Chính phủ (2015), Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 17/03/2015 về việc Quy định  
chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư;  
6. Học viện Hành chính Quốc gia (2003), “Giáo trình Hành chính công: dùng cho  
nghiên cứu, học tập và giảng dạy sau đại học”, NXB Thống kê, Hà Nội;  
7. Đoàn Duy Khương (2012), “Hợp tác công - tư trong phát triển hạ tầng giao thông  
vận tải”, Báo điện tử Tạp chí Cộng sản đăng ngày 12/06/2012;  
8. Hồ Thị Hương Mai (2015), “Quản lý Nhà nước về vốn đầu tư trong phát triển kết  
cấu hạ tầng giao thông đô thị Hà Nội”, Luận án Tiến sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị  
quốc gia Hồ Chí Minh;  
9. Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) (2007), “Mối quan hệ đối tác Nhà nước – Tư  
nhân”; Bản dịch tiếng Việt;  
10. Quốc hội (2013), Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày 26/11/2013;  
11. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13 ngày 18/06/2014;  
12. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26/11/2014;  
13. Quốc hội (2014), Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 ngày 18/06/2014;  
14. Phạm Dương Phương Thảo (2013), “Kinh nghiệm triển khai mô hình đầu tư công –  
tư (PPP) trên thế giới để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đô thị”, Tạp chí Phát  
triển và Hội nhập. Số 12(22) – Tháng 9-10/2013;  
15. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 355/QĐ-TTg ngày 25/02/2013 về việc  
điều chỉnh Chiến lược phát triển giao thông vận tải Việt Nam đến năm 2020, tầm  
nhìn đến năm 2030;  
16. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 356/QĐ-TTg ngày 25/02/2013 về việc  
điều chỉnh Chiến lược phát triển giao thông vận tải đường bộ Việt Nam đến năm  
2020, tầm nhìn đến năm 2030;  
17. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010 Về  
việc ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công – tư;  
573  
18. Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP tại Việt Nam (2013), “Phương thức đối tác  
công – tư (PPP): Kinh nghiệm quốc tế và khuôn khổ thể chế tại Việt Nam”, Nhà xuất  
bản Tri thức;  
19. TS. Lương Minh Việt (2010), “Quản lý Nhà nước về kinh tế”, Học viện Hành chính  
Quốc gia;  
20. TS. Lương Minh Việt (2014), Bài giảng Kinh tế học trong quản lý công;  
21. Alfredo Pascual Tokyo(12/2007), “FDI and PPP: Experience in the Philippines”;  
22. Ngân hàng phát triển Châu Á ( ADB) (2009), “Public – Private partnership(PPP),  
Handbook”;  
23. Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) và Viện Ngân hàng phát triển châu Á (ADBI)  
(2010), “Infrastructure for a Seamless Asia”;  
24. E.R.Yescombe (2007), ”Partnerships - Public Private Partnerships - Principles of  
Policy and Finance” ;  
574  
pdf 14 trang Thùy Anh 18/05/2022 740
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp nâng cao hiệu quả mô hình hợp tác công tư trong đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông vận tải Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_nang_cao_hieu_qua_mo_hinh_hop_tac_cong_tu_trong_da.pdf