Pháp luật một số quốc gia trên thế giới về quản lý giao dịch moblie money và một số gợi mở cho Việt Nam
PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VỀ QUẢN LÝ
GIAO DỊCH MOBLIE MONEY VÀ MỘT SỐ GỢI MỞ CHO VIỆT NAM
Lê Thị Thùy Nhi
Tóm tắt:
Dưới sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hoạt động thanh
toán điện tử là Money money diễn ra rất sôi động, dẫn đến mỗi quốc gia trên thế giới
có cách quản lý khác nhau đối với các giao dịch này. Có quốc gia giai đoạn đầu quy
định về việc quản lý Mobile money thắt chặt nhưng sau đó khi dịch vụ đã sử dụng ổn
định thì nới lỏng hơn, có quốc gia thì vừa thử nghiệm vừa học hỏi để từ đó xây dựng
khung pháp lý hoàn chính. Xuất phát từ thực trạng trên, trong phạm vi bài viết, tác
giả sẽ phân tích các khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc thanh toán điện tử là Mobile
money của các quốc gia trên thế giới. Từ kết quả phân tích này sẽ đưa ra các hàm ý
chính sách cho Việt Nam trong việc xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý đối với hoạt
động thanh toán điện tử là Mobile money.
Từ khoá: Mobile money, pháp luật thế giới, Việt Nam
1. Tổng quan về Mobile money và quan điểm pháp lý về quản lý giao dịch
Mobile money trên thế giới
Theo Hiệp hội thông tin di động thế giới (Global System Mobile Associations -
GSMA), Mobile Money được định nghĩa là một dịch vụ, trong đó, các giao dịch tài
chính được thực hiện thông qua điện thoại di động54.
Theo Liên minh Viễn thông Quốc tế (International Telecommunication Union
- ITU), Mobile Money đề cập đến các giao dịch tài chính và dịch vụ có thể được thực
hiện bằng thiết bị di động như điện thoại di động hoặc máy tính bảng55.
Thạc sĩ, giảng viên Khoa Luật Kinh tế,Trường Đại học Luật, Đại học Huế, Email: Nhiltt@hul.edu.vn
54GSMA (2010), ‘Mobile Money Definitions’,
55 ITU (2013), “Mobile money”, https://www.itu.int/en/ITU-T/techwatch/Pages/mobile-money-standards.aspx
truy cập ngày 20/8/2021.
86
Từ đó, có thể thấy rằng, Mobile money là một hình thức thanh toán trên điện
thoại di động cho phép khách hàng mua bán, sử dụng hàng hoá, dịch vụ mà không
cần sử dụng đến tiền mặt.
Hiện nay, trên thế giới có hai mô hình cung cấp dịch vụ mobile money chính,
đó là, mô hình ngân hàng cung cấp dịch vụ (Bank Led Model - BLM) và mô hình nhà
mạng cung cấp dịch vụ (Mobile network operators - MNO)56: (i) Mô hình ngân hàng
cung cấp dịch vụ (BLM) dựa trên việc mở rộng các dịch vụ thanh toán hiện có. Mô
hình này bao gồm nhà phát hành - cung cấp ứng dụng thanh toán cho người tiêu dùng
và ngân hàng thu nhận - thiết lập hệ thống mobile money cho người bán. (ii) Trong
mô hình nhà mạng cung cấp dịch vụ (MNO), các nhà mạng cung cấp dịch vụ Mobile
money cho các khách hàng của mình bằng cách phát triển và cung cấp một ứng dụng
thanh toán cài đặt trên thiết bị cầm tay, thực hiện các giao dịch và lập hóa đơn cho
khách hàng.
Có thể thấy rằng, khung pháp lý của các quốc gia đang phát triển hiện nay là
cần tạo môi trường cho thị trường Mobile money phát triển nhưng bên cạnh đó cũng
cần có các biện pháp kiểm soát cần thiết. Bởi vì, các chính sách không cần thiết ở giai
đoạn đầu có thể gây bất lợi cho thị trường, mặt khác, việc thiếu các quy định cần thiết
vào đúng thời điểm, có thể gây hại cho tương lai của ngành57. Nhìn chung, việc triển
khai Mobile money trên thực tế có thể trải qua các giai đoạn sau:
- Giai đoạn đầu: đây là giai đoạn thử nghiệm các sản phẩm của các nhà cung
cấp dịch vụ viễn thông đưa ra. Ở giai đoạn này, Nhà nước sẽ phải đảm bảo sự hài hoà
trong các quy định pháp luật để không quá nghiêm ngặt với nhà cung cấp, nhưng
đồng thời, cũng phải bảo vệ người tiêu dùng.
- Giai đoạn bùng nổ: lúc này, Mobile money đã thu hút được một lượng người
dùng nhất định và các nhà cung cấp dịch vụ tiến hành mở rộng thị trường. Trong
trường hợp này, các cơ quan quản lý nên theo dõi chặt chẽ sự phát triển của thị trường.
56
Đỗ Linh (2020), “Thí điểm Mobile money: Chuẩn hóa thông tin mới bảo mật an toàn”,
toan-81012.html truy cập ngày 21/8/2021.
57 David Porteous (2006) The Enabling Environment for Mobile Banking in Africa (Report Commissioned
by Department for International Development [DFID], Boston), http://bankablefrontier.com/wp-
87
- Giai đoạn củng cố: do sự gia tăng cạnh tranh và các yếu tố bên ngoài, nhà
cung cấp dịch vụ đã phát triển ở một quy mô lớn hơn và cơ sở khách hàng tiếp tục
tăng nhưng với tốc độ chậm hơn. Ở giai đoạn này, các quy định sẽ cần phải điều chỉnh
để đảm bảo sự phát triển của dịch vụ trên thị trường.
- Giai đoạn trưởng thành: Số lượng các công ty trong ngành và các quy định
đối với các hoạt động của họ đã được thiết lập, thị trường tăng trưởng với tốc độ ổn
định. Cơ quan quản lý sẽ cần đảm bảo sự an toàn trên thị trường.
2. Pháp luật một số quốc gia trên thế giới về quản lý giao dịch Mobile money
Mobile money là một hình thức thanh toán không sử dụng tiền mặt rất phổ biến
ở các quốc gia đang phát triển. Kenya, Philippines và Indonesia là ba quốc gia có dịch
vụ Mobile Money phát triển khá sớm trên thế giới và cũng có nhiều điểm tương đồng
với Việt Nam. Vì vậy, tác giả chọn ba quốc gia này để nghiên cứu từ đó đưa ra một
số kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc triển khai dịch vụ Mobile Money vào thực
tế.
2.1. Pháp luật Kenya
Kenya là quốc gia có thu nhập thấp và tỷ lệ người sử dụng internet cũng còn rất
thấp (17,8%)58, vì vậy, việc tiếp cận đối với các dịch vụ tài chính như ngân hàng điện
tử, ví điện tử là một điều rất “xa xỉ” ở quốc gia này. Có một thực tế xảy ra ở Kenya
đó là, người dân mong muốn có một dịch vụ viễn thông tiện lợi mà có thể chuyển/
nhận tiền từ thành thị về quê của họ. Xuất phát từ nhu cầu đó, dịch vụ Mobile money
mà đại diện là M- Pesa ra đời và đã đáp ứng được nhu cầu của người dân ở Kenya,
đồng thời giúp họ tiết kiệm được thời gian, giảm chi phí giao dịch đáng kể so với các
dịch vụ truyền thống của ngân hàng. Đây là một ứng dụng được cài đặt trong thẻ SIM
của khách hàng và hoạt động trên tất cả các hãng điện thoại.
Pháp luật Kenya về việc quản lý các giao dịch Mobile money được quy định rất
chi tiết qua Đạo luật thanh toán quốc gia năm 2014, Đạo luật về Tội phạm và phòng
chống rửa tiền của Kenya năm 2012 và một số văn bản pháp luật có liên quan. Thứ
nhất, nhằm mục đích giải quyết vấn đề định danh khách hàng, đồng thời, ngăn chặn
58
88
tội phạm liên quan đến mạng di động, Bộ Truyền thông Kenya (CAK) đã yêu cầu các
nhà mạng di động phải đăng ký cho tất cả các khách hàng sử dụng dịch vụ của M-
Pesa. Khách hàng chỉ cần cung cấp giấy tờ tùy thân như thẻ công dân hoặc hộ chiếu
cá nhân được Chính phủ Kenya cấp. Thứ hai, liên quan đến việc định mức giao dịch,
khách hàng của dịch vụ Mobile Money không được thực hiện vượt quá 70.000
KSh/giao dịch và tổng giao dịch trong một tháng không được vượt quá 1.000.000
KSh59. Điển hình như M-Pesa đã giới hạn định mức giao dịch đối với dịch vụ Mobile
Money như sau: số tiền tối đa mà khách hàng có thể thực hiện trên một giao dịch là
70.000 KSh và không được giao dịch quá 140.000 KSh mỗi ngày. Thứ ba, quy định
về giao dịch đáng ngờ và kiểm soát giao dịch đáng ngờ. Giao dịch đáng ngờ được
hiểu là các giao dịch không hợp pháp, giao dịch không có mục đích kinh tế rõ ràng60.
Các nhà khai thác dịch vụ phải liên tục theo dõi các giao dịch phức tạp, bất thường
và đáng ngờ này, nếu nhận thấy bất kỳ giao dịch nào đang theo dõi có dấu hiệu liên
quan đến tội phạm rửa tiền thì báo cáo ngay đến Trung tâm báo cáo tài chính
(Financial Reporting Centre) trong vòng 07 ngày kể từ khi sự việc xảy ra61.
Tóm lại, có thể nói dịch vụ Mobile money ở Kenya ra đời là để đáp ứng nhu cầu
của những người không có và không đủ điều kiện để mở tài khoản ngân hàng. Có thể
thấy rằng, qua nhiều lần bổ sung, khung pháp lý của dịch vụ này cũng dần bị thắt chặt
thay vì nới lỏng như lúc đầu. Tuy nhiên, dịch vụ Mobile money vẫn đóng vai trò quan
trọng nhất định đối với người dân Kenya, bằng chứng là số lượng tài khoản đăng ký
sử dụng dịch vụ tăng đều qua các năm.
2.2. Pháp luật Philippines
Philippines là quốc gia có tỷ lệ người không sở hữu tài khoản ngân hàng cao
cùng với tỷ lệ sử dụng điện thoại di động cao là hai điều kiện cần thiết để dịch vụ
Mobile money có cơ hội phát triển tại quốc gia này. Năm 2001, Philippines bị liệt kê
vào danh sách quốc gia có rủi ro cao về tài trợ khủng bố cần theo dõi, vì thế, khung
pháp lý cho dịch vụ Mobile money tại Philippines chặt chẽ hơn các quốc gia khác.
59 Xem thêm mục 43.(1) của Quy định về Hệ thống thanh toán quốc gia Kenya năm 2014.
60 Xem thêm mục 44.(1) của Đạo luật về Tội phạm và Phòng chống rửa tiền của Kenya năm 2012.
61 Xem thêm mục 44 (2) của Đạo luật về Tội phạm và Phòng chống rửa tiền của Kenya 2012.
89
Việc quản lý các giao dịch Mobile money được pháp luật Philippines quy định
rất chi tiết qua Luật sửa đổi, bổ sung Đạo luật về Phòng chống rửa tiền Philippines
2001; Đạo luật về Phòng chống và ngăn chặn tài trợ khủng bố Philippines năm 2012,
Đạo luật thanh toán quốc gia năm 2018 và các Thông tư của Ngân hàng Trung ương
Philippines (The Bangko Sentral ng Pilipinas - BSP). Thứ nhất, về định danh tài
khoản, khách hàng có nhu cầu sử dụng mobile money phải trực tiếp đến đăng ký, phải
xuất trình được bản gốc và nộp bản sao của ít nhất một loại giấy tờ tùy thân có dán
ảnh hợp lệ do cơ quan nhà nước cấp. Đồng thời, giấy tờ tùy thân này phải thuộc danh
sách 20 loại giấy tờ tùy thân được Ngân hàng Trung ương Philippines chấp thuận62.
Thứ hai, quy định về lưu trữ thông tin khách hàng. Bởi vì Philippines là một trong
những quốc gia có nguy cơ cao về tài trợ khủng bố cho nên các quy định về việc sử
dụng dịch vụ Mobile money cũng cần quy định chặt chẽ hơn nhiều. Thật vậy, tất cả
dữ liệu giao dịch của khách hàng phải được các nhà khai thác dịch vụ lưu trữ trong
vòng 05 năm kể từ ngày phát sinh giao dịch. Đối với tài khoản không còn sử dụng,
các thông tin về định danh khách hàng phải được lưu trữ ít nhất 05 năm kể từ ngày
chấm dứt giao dịch63. Thứ ba, các nhà khai thác dịch vụ Mobile Money sẽ phân chia
khách hàng thuộc nhiều cấp độ rủi ro khác nhau tùy thuộc vào dữ liệu mà họ đã cung
cấp trong quá trình định danh khách hàng64. Điển hình như GCASH - mô hình tiên
phong trong hoạt động cung cấp dịch vụ Mobile Money của Philippines xếp hạng
khách hàng của mình theo 03 cấp độ: Chưa xác minh (Non-verified), Xác minh một
phần (Semi Verified) và Xác minh đầy đủ (Fully Verified), khách hàng có mức độ
rủi ro thấp sẽ nhận được định mức giao dịch tốt hơn cũng như sử dụng được nhiều
tiện ích hơn trong quá trình giao dịch. Về cơ bản, khách hàng không được giao dịch
vượt quá 50.000 peso/ngày và 100.000 peso/tháng65.
62
Theo Thông tư số 608 của Ngân hàng Trung ương Philippines (BSP Circular 608) năm 2008,
63 Mục 9.(b) của Đạo luật về Phòng chống và ngăn chặn tài trợ khủng bố Philippines 2012.
64 Theo Thông tư số 950 của Ngân hàng Trung ương Philippines (BSP Circular 950) năm 2017.
65 Help center GCASH (2019), “What are my Wallet and Transaction Limits?”,
truy
cập ngày 22/8/2021.
90
Từ đó, có thể nhận thấy rằng, khung pháp lý quản lý giao dịch Mobile money
tại Philippines rất chặt chẽ. Tuy nhiên, việc kết hợp mô hình thử nghiệm và học hỏi
của Philippines là kinh nghiệm quý báu để các quốc gia chưa sử dụng dịch vụ Mobile
money có thể cân nhắc để từ đó xây dựng khung pháp lý quản lý giao dịch Mobile
money phù hợp với quốc gia mình, đồng thời cũng nhằm ổn định và mang đến cho
khách hàng Philippines cũng như các bên liên quan lợi ích cũng như vẫn đảm bảo hạn
chế rủi ro.
2.3. Pháp luật Indonesia
Ở Indonesia, ngân hàng đóng vai trò quan trọng khi nắm giữ 80% tài sản tài
chính của người Indonesia và được xem là nhân tố chủ chốt tạo điều kiện cho người
dân Indonesia tiếp cận tài chính toàn diện. Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ những người
sống tại các thành phố lớn mới có cơ hội này, còn tại các vùng hẻo lánh thì tỷ lệ này
chỉ chiếm từ 20% đến 34%66.
Việc quản lý các giao dịch Mobile money được pháp luật Indonesia quy định
rất chặt chẽ qua Luật phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố cho các nhà cung cấp
dịch vụ tài chính phi ngân hàng 2017, quy định về tiền điện tử của Ngân hàng Trung
ương Indonesia năm 2018 và các văn bản pháp luật liên quan. Thứ nhất, liên quan
đến việc định danh khách hàng. Theo quy định về phòng chống rửa tiền và tài trợ
khủng bố, việc định danh khách hàng cần có những thông tin sau: số chứng minh
nhân dân, địa chỉ liên lạc, ngày sinh, quốc tịch, số điện thoại, nghề nghiệp, giới tính
và nhận dạng sinh trắc học hoặc chữ ký. Sau đó, nhà cung cấp dịch vụ sẽ yêu cầu
khách hàng xuất trình một số loại giấy tờ tùy thân như: chứng minh nhân dân, bằng
lái xe, hộ chiếu hoặc giấy tờ hợp lệ khác cho Chính phủ cấp để xác minh lại những
thông tin mà khách hàng đã cung cấp trước đó67. Thứ hai, quy định về lưu trữ thông
tin khách hàng. Các nhà cung cấp dịch vụ phải lưu trữ dữ liệu giao dịch ít nhất 05
năm kể từ ngày phát sinh giao dịch hoặc dài hơn theo yêu cầu của Ngân hàng Trung
ương Indonesia/cơ quan nhà nước khác theo quy định của pháp luật. Dữ liệu cần được
66 Hidayati, S. (2011), “Cash-in and cash-out agents for mobile money in Indonesia. Innovations: Technology,
Governance, Globalization”, GMSA, p.117-123.
67 Xem thêm Điều 16.(1).a và Điều 16.(2).a của Quy định về phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố cho các
nhà cung cấp dịch vụ tài chính phi ngân hàng 2017.
91
lưu trữ bao gồm: thông tin và giấy tờ xác minh danh tính của khách hàng; kết quả
giám sát, phân tích khách hàng; các giấy tờ giao dịch với khách hàng và dữ liệu liên
quan đến giao dịch tài chính đáng ngờ (nếu có)68. Thứ ba, quy định về giao dịch đáng
ngờ và kiểm soát giao dịch đáng ngờ. Các nhà khai thác dịch vụ Mobile Money phải
báo cáo cho Trung tâm phân tích và báo cáo giao dịch tài chính Indonesia các giao
dịch tài chính đáng ngờ theo quy định69. Giao dịch đáng ngờ ở đây được hiểu là giao
dịch trái ngược với những dữ liệu mà khách hàng đã khai báo; giao dịch mà khách
hàng từ chối khai báo thông tin theo yêu cầu;… hoặc các giao dịch tài chính vượt quá
100.000.000 Rupiah/số tiền ngoại tệ có giá trị tương đương khi nhà cung cấp dịch vụ
nghi ngờ rằng giao dịch này có liên quan đến rửa tiền và tài trợ khủng bố70.
Nhìn chung, Indonesia siết chặt khung pháp lý đối với dịch vụ mobile money
trong nhiều năm đầu và phải đến các năm gần đây, những quy định được điều chỉnh
theo hướng cởi mở hơn nhằm thu hút người sử dụng. Có thể thấy rằng, Indonesia có
khuynh hướng giám sát đưa ra các quy định siết chặt nhằm ổn định thị trường thanh
toán cho đến khi các hoạt động đi vào khuôn khổ thì quốc gia này bắt đầu điều tiết
nhằm thu hút khách hàng để phát triển thị trường. Chính vì vậy, Indonesia là quốc
gia không phát triển theo kiểu bùng nổ ở giai đoạn đầu nhưng lại tăng tốc ở giai đoạn
sau.
3. Một số gợi mở cho Việt Nam xây dựng khung pháp lý quản lý giao dịch
Mobile money
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc thanh toán điện tử
không còn gì xa lạ đối với người dân. Có rất nhiều cách thức để thanh toán điện tử,
trong đó việc xem Mobile money là công cụ trung gian cho thanh toán điện tử đang
được Nhà nước ta quan tâm hiện nay, bởi vì, chính phủ Việt Nam đang thúc đẩy thanh
toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế số. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam vẫn
chưa xây dựng được khung pháp lý cho hoạt động thanh toán điện tử này mà chỉ mới
68 Xem thêm Điều 51 của Quy định về phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố cho các nhà cung cấp dịch vụ
tài chính phi ngân hàng năm 2017.
69 Xem thêm Điều 55 của Quy định về phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố cho các nhà cung cấp dịch vụ
tài chính phi ngân hàng năm 2017.
70 Xem thêm Điều 15.(b) và Điều 39 của Quy định về phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố cho các nhà
cung cấp dịch vụ tài chính phi ngân hàng năm 2017.
92
có Dự thảo Nghị định quy định thanh toán không dùng tiền mặt năm 2020 được Ngân
hàng Nhà nước soạn thảo và lấy ý kiến từ tháng 9 năm 2019 và Quyết định số
316/QĐ-TTg ngày 9 tháng 3 năm 2021 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt
triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hoá, dịch vụ
có giá trị nhỏ.
Việt Nam là một quốc gia có khả năng phát triển thị trường giao dịch Mobile
money. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, hiện Việt Nam có 89 triệu tài khoản
thanh toán cá nhân, tương đương gần 70% người trưởng thành có tài khoản ngân
hàng. Tuy nhiên, hơn 30% khách hàng chưa có tài khoản còn lại là những khách hàng
khó mở rộng, tiếp cận nhất, đây cũng là đối tượng rất cần tới tài chính toàn diện. Chưa
kể ở những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, việc tiếp cận dịch vụ tài chính số
cùng còn nhiều trở ngại71.
Việt Nam nhanh chóng triển khai thí điểm việc sử dụng Mobile money trên thực
tế bởi vì vào năm 2018, chúng ta đã nhận được một bài học sâu sắc về việc sử dụng
thẻ điện thoại trong môi trường không gian ảo bị “biến tướng” qua đường dây đánh
bạc nghìn tỷ xuyên quốc gia RikVip.vn do hai cựu tướng Phan Sào Nam, Nguyễn
Văn Dương cùng các đối tượng phạm tội liên quan đến công nghệ cao cầm đầu. Có
đến 97% tổng lượng tiền chơi bạc qua các cổng trung gian thanh toán, trong đó nạp
tiền từ thẻ viễn thông và thẻ game chiếm 97% và các doanh nghiệp viễn thông
(Viettel, Vinaphone, Mobifone) được hưởng 15,5 - 16,3% trong số đó, tương đương
khoảng 1.402 tỉ đồng72.
Từ vụ việc điển hình trên, có thể thấy rằng, các con bạc thường dùng thẻ điện
thoại làm công cụ nạp vào web cá độ bởi sự thiếu minh bạch trong cách thức quản lý
việc mua bán, sử dụng thẻ điện thoại. Thực tế, các đại lý phân phối thẻ điện thoại
không bắt buộc người mua thẻ phải khai báo bất kỳ thông tin cá nhân nào, không
71An Ngọc (2021), “Sức hút của Mobile money ở nhiều nước đang phát triển”, https://bnews.vn/suc-hut-cua-
72
Vân Anh (2018), “Đánh bạc, rửa tiền qua thẻ cào viễn thông: do quản lý quá lỏng?”
https://thainguyentv.vn/danh-bac-rua-tien-qua-the-cao-vien-thong-do-quan-ly-qua-long-50798.html truy cập
ngày 22/8/2021.
93
quan tâm thẻ đó sử dụng vào dịch vụ gì73. Bên cạnh đó, pháp luật nước ta chưa có
quy định chính thức nào về thanh toán điện tử bằng thẻ điện thoại, tiềm ẩn nguy cơ
khiến cho nguồn tiền trên mạng đến từ thẻ này không được kiểm soát, cũng như tạo
nên "hệ sinh thái tài chính phi pháp" cho các hoạt động trái pháp luật như rửa tiền,
trốn thuế, đánh bạc trực tuyến…
Xuất phát từ thực trạng trên, việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về quản
lý hoạt động thanh toán điện tử là Mobile money ở Việt Nam là rất cần thiết và cấp
bách. Qua việc nghiên cứu pháp luật về quản lý giao dịch Mobile money của Kenya,
Philippines và Indonesia, có thể đưa ra một số gợi mở cho Việt Nam như sau:
Thứ nhất, pháp luật cần xây dựng hành lang pháp lý chặt chẽ về quy trình định
danh khách hàng. Để quy trình này đạt được hiệu quả khi ứng dụng vào thực tế, trước
tiên các công ty viễn thông cần phải xử lý vấn đề sim rác và những sim không xác
minh được thông tin khách hàng. Ngoài ra, cần phải xây dựng một hệ thống định danh
khách hàng chặt chẽ, bao gồm nhiều yếu tố cần phải xác thực như: chứng minh nhân
dân/căn cước công dân/hộ chiếu, địa chỉ liên lạc, chữ ký, ảnh hoặc sinh trắc vân tay
khách hàng.
Thứ hai, trong quá trình xây dựng khung pháp lý cần có quy định rõ ràng cho
việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro. Cụ thể, đối với những khách hàng mà
trong quá trình thẩm định được đánh giá thuộc nhóm rủi ro thấp thì nên nới lỏng các
quy định về đăng ký tài khoản. Ngược lại, với những khách hàng thuộc nhóm rủi ro
cao thì cần siết chặt bằng các quy định định danh cùng định mức và lệ phí chuyển
tiền chặt chẽ. Như vậy, những đối tượng thực sự có nhu cầu sử dụng sẽ nhanh chóng
tiếp cận dịch vụ còn những cá nhân, tổ chức sử dụng Mobile money với mục đích
phạm pháp sẽ bị hạn chế.
Thứ ba, hạ tầng công nghệ thông tin phải được nâng cao để tiếp nhận thêm các
giao dịch không sử dụng tiền mặt đến từ tài khoản viễn thông. Điều này cần sự đóng
góp Bộ Thông tin và Truyền thông, các nhà mạng và Ngân hàng cùng rà soát các dấu
73
Xuân Mai, Nguyễn Hưng (2018), “Cần khắc phục lỗ hổng quản lý thẻ cào viễn thông”
https://antg.cand.com.vn/Khoa-hoc-Ky-thuat-hinh-su/Can-khac-phuc-lo-hong-quan-ly-the-cao-vien-thong-
94
hiệu gian lận hay rửa tiền trong hệ thống, xây dựng các yếu tố bảo mật nhất là với
trường hợp điện thoại chứa tài khoản bị đánh cắp.
Thứ tư, pháp luật cũng nên kiểm soát các giao dịch đáng ngờ trong quá trình sử
dụng dịch vụ Mobile money. Thật vậy, việc kiểm soát các giao dịch đáng ngờ vô
cùng quan trọng trong công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam, bao gồm việc
theo dõi dòng tiền di chuyển qua các thuê bao di động để nhận ra sự bất thường trong
các giao dịch, từ đó có những biện pháp xử lý, đối phó. Để kiểm soát một cách hiệu
quả thì cần thành lập một tổ chức độc lập với các công ty viễn thông tiếp nhận những
thông tin giao dịch do các công ty viễn thông gửi về, từ đó đánh giá các giao dịch để
xác định giao dịch đáng ngờ, và gửi thông báo về cho các công ty hoặc phối hợp với
cơ quan chức năng điều tra những giao dịch đáng ngờ này.
Kết luận
Trong phạm vi bài viết, tác giả dựa trên việc phân tích khung pháp lý của một
số quốc gia trên thế giới về quản lý các giao dịch Mobile money để đưa ra một số gợi
mở cho Việt Nam. Từ đó, các cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam có thể tiến hành
khảo sát, thảo luận và thử nghiệm với các bên liên quan như: ngân hàng, nhà cung
cấp dịch vụ Mobile money, khách hàng… nhằm đưa ra mô hình quản lý và xây dựng
khung pháp lý phù hợp với điều kiện phát triển và hiện trạng cơ sở hạ tầng của quốc
gia. Điều này sẽ góp phần giúp dịch vụ Mobile money có nền tảng ổn định để phát
triển bền vững.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quyết định số 316/QĐ-TTg ngày 9 tháng 3 năm 2021 của Thủ tướng chính
phủ về việc phê duyệt triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho
các hàng hoá, dịch vụ có giá trị nhỏ.
2. An Ngọc (2021), Sức hút của Mobile money ở nhiều nước đang phát triển,
3. Vân Anh (2018), Đánh bạc, rửa tiền qua thẻ cào viễn thông: do quản lý quá
95
4. Xuân Mai, Nguyễn Hưng (2018), Cần khắc phục lỗ hổng quản lý thẻ cào viễn
thông
5. Đỗ Linh (2020), Thí điểm Mobile money: Chuẩn hóa thông tin mới bảo mật
6. Hệ thống thanh toán quốc gia Kenya năm 2014.
7. Đạo luật về Tội phạm và Phòng chống rửa tiền của Kenya năm 2012.
8. Đạo luật về Tội phạm và Phòng chống rửa tiền của Kenya 2012.
9. Thông tư số 608 của Ngân hàng Trung ương Philippines (BSP Circular 608)
năm 2008.
10. Đạo luật về Phòng chống và ngăn chặn tài trợ khủng bố Philippines 2012.
11. Thông tư số 950 của Ngân hàng Trung ương Philippines (BSP Circular 950)
năm 2017.
12. Đạo luật về phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố cho các nhà cung cấp
dịch vụ tài chính phi ngân hàng 2017.
13. Đạo luật về phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố cho các nhà cung cấp
dịch vụ tài chính phi ngân hàng năm 2017.
14. Hidayati, S. (2011), “Cash-in and cash-out agents for mobile money in
Indonesia. Innovations: Technology, Governance, Globalization”, GMSA, p.117-123.
15. Help center GCASH (2019), “What are my Wallet and Transaction
Limits?”,
16. GSMA (2010), ‘Mobile Money Definitions’,
96
18. David Porteous (2006) The Enabling Environment for Mobile Banking in
Africa (Report Commissioned by Department for International Development
[DFID], Boston), http://bankablefrontier.com/wp-
19.
World
bank
(2018)
97
Bạn đang xem tài liệu "Pháp luật một số quốc gia trên thế giới về quản lý giao dịch moblie money và một số gợi mở cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- phap_luat_mot_so_quoc_gia_tren_the_gioi_ve_quan_ly_giao_dich.pdf