Nghiên cứu cấu trúc kĩ năng tự chủ cảm xúc
Phạm Thꢀ Phương Nguyên
Nghiên cứu cấu trúc kĩ năng tự chủ cảm xúc
Phạm Thị Phương Nguyên
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
Số 36 Xuân La, Tây Hồ, Hà Nội, Việt Nam
Email: Hoaphiyen79@gmail.com
TÓM TẮT: Kĩ năng tự chủ cảm xúc là một trong những kĩ năng sống cốt lõi, với
các tên gọi khác như “kiểm soát cảm xúc”, “quản lí cảm xúc”, “đương đầu với
cảm xúc”, “xử lí cảm xúc”, “kiềm chế cảm xúc”... “Kĩ năng tự chủ cảm xúc là
khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc của mình trong một tình huống nào
đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản thân và người khác như
thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một cách phù
hợp”. Vì vậy, hình thành và phát triển kĩ năng tự chủ cảm xúc thành công giúp
hình thành tốt các mối quan hệ trong xã hội, khiến con người không bị lệch
chuẩn do xã hội đặt ra, đồng thời kĩ năng tự chủ cảm xúc được phát triển sẽ
kéo theo sự phát triển các kĩ năng sống khác.
TỪ KHÓA: Kĩ năng sống; kĩ năng tự chủ cảm xúc; kĩ năng thành phần.
Nhận bài 9/4/2019 Nhận kết quả phản biện và chỉnh sửa 27/5/2019 Duyệt đăng 25/6/2019.
xúc, lúc phân định rõ nét gọi là cảm động, lúc biểu hiện với
cường độ cao gọi là cảm kích” [1].
1. Đặt vấn đề
Thế kỉ XXI là thế kỉ của sự phát triển kinh tế - xã hội,
của khoa học, kĩ thuật ở trình độ cao. Sự phát triển đó ngày
càng đặt ra những yêu cầu cao đối với mọi công dân sống
trong xã hội đương đại. Chính vì vậy, giáo dục (GD) trở
thành nhân tố được quan tâm hàng đầu và có vai trò quan
trọng trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng
cao cho xã hội. GD được xem là yếu tố tích cực thúc đẩy
sự phát triển xã hội.Tuy nhiên, con người trong xã hội hiện
Theo Từ điển Tâm lí học (Vũ Dũng, 2000), cảm xúc: “Là
sự phản ánh tâm lí về mặt ý nghĩa sống động của các hiện
tượng và hoàn cảnh, tức mối quan hệ giữa các thuộc tính
khách quan của chúng với nhu cầu của chủ thể, dưới hình
thức những rung động trực tiếp” [2, tr.29].
Daniel Goleman (2012), dựa trên quan niệm “Về căn bản,
mọi xúc cảm xuất phát từ sự kích thích hành động, đó là
đại không chỉ cần tri thức, sức khỏe, kĩ năng (KN) nghề phản ứng tức thì vì bản năng sinh tồn” đã định nghĩa: “Cảm
nghiệp, mà còn cần có những giá trị đạo đức, thẩm mĩ, nhân xúc vừa là một tình cảm và các ý nghĩ, các trạng thái tâm
văn đúng đắn và KN sống. Bởi xã hội hiện đại với nhịp lí và sinh học đặc biệt, vừa là thang của các xu hướng hành
sống nhanh và nhiều áp lực như hiện nay luôn nảy sinh động do nó gây ra” [3]. Với một số thành phần như: Giận,
những vấn đề phức tạp và những vấn đề bất định đối với buồn, sợ, khoái, yêu, ngạc nhiên, ghê tởm và xấu hổ.
con người. Nếu con người không có năng lực để vượt qua
Carroll E.Izard (1992) không nêu một định nghĩa cụ thể
những thách thức đó và hành động theo cảm tính thì rất dễ của cảm xúc mà cho rằng những cảm xúc tạo nên hệ thống
gặp rủi ro. Cuộc sống và công việc của chúng ta không thể động cơ chính của con người bao gồm ba yếu tố đặc trưng
thiếu các mối quan hệ. Trong đó, chúng ta thường xuyên sau: 1) Cảm giác được thể nghiệm hay là được ý thức về
phải ứng phó với những tình huống xảy ra một cách bất ngờ cảm xúc; 2) Các quá trình diễn ra trong hệ thần kinh, hệ nội
đòi hỏi con người phải luôn làm chủ được cảm xúc của bản tiết, hô hấp, tiêu hóa và các hệ khác của cơ thể; 3) Các phức
thân để tìm ra hướng giải quyết thích hợp nhất. Vì thế, điều hợp biểu cảm cảm xúc được quan sát, đặc biệt là những
quan trọng trong các mối quan hệ không nằm ngoài vấn đề phức hợp phản ánh trên bộ mặt. Đồng thời, ông cho rằng
cá nhân phải làm chủ được cảm xúc của bản thân và điều định nghĩa cảm xúc trọn vẹn “Phải tính đến tính chất thể
khiển, điều chỉnh được cảm xúc của mình. Đó chính là KN nghiệm của nó, phải bao hàm những thành tố thần kinh và
tự chủ cảm xúc (KNTCCX).
biểu cảm”. Ngoài ra, ông đưa ra thuyết các cảm xúc phân
hóa và cho rằng cảm xúc có cấu trúc tầng bậc bao gồm
những cảm xúc nền tảng và những cảm xúc phức hợp. Mỗi
cảm xúc trọn vẹn phải được tạo thành bởi 3 yếu tố cơ bản
nhất là thần kinh chuyên biệt bị chế ước bên trong, những
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1. Cảm xúc
Theo Từ điển Tâm lí học (Vũ Khắc Viện, 1995): “Cảm phức hợp biểu cảm nét mặt đặc trưng và sự thể hiện chủ
xúc là phản ứng rung chuyển của con người trước một kích quan khác biệt. Cấp bậc thứ nhất gồm 10 cảm xúc nền tảng
động vật chất hoặc một sự việc gồm hai mặt: Những phản là: (1) Hứng thú hồi hộp; (2) Vui sướng; (3) Ngạc nhiên; (4)
ứng sinh lí do thần kinh thực vật như tim đập nhanh, toát Đau khổ, đau xót; (5) Căm giận; (6) Ghê tởm; (7) Khinh
mồ hôi, hoặc run rẩy, rối loạn tiêu hóa; Phản ứng tâm lí qua bỉ; (8) Khiếp sợ; (9) Xấu hổ; (10) Tội lỗi. Cấp bậc thứ hai
những thái độ, lời nói, hành vi và cảm giác dễ chịu, khó là các phức hợp xúc cảm được tạo nên từ những tổ hợp có
chịu, vui sướng, buồn khổ có tính bột phát, chủ thể kiềm biến thiên của các xúc cảm nền tảng và các quá trình xúc
chế khó khăn. Lúc phản ứng chưa phân định gọi là cảm động [4].
Số 18 tháng 6/2019
49
NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN
Tác giả Trần Trọng Thủy (1990) quan niệm: “Xúc cảm là cực có thể dễ dàng phá hủy những mối quan hệ xung quanh
và đôi khi lại làm tổn thương chính bản thân bạn” [6].
một quá trình tâm lí, biểu hiện thái độ của con người hay
con vật với sự vật, hiện tượng có liên quan đến nhu cầu của
cá thể đó, gắn liền với phản xạ không điều kiện, với bản
năng”. Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhất trí với quan
điểm cho rằng: Cảm xúc của con người là những rung động
khác nhau của chủ thể đối với những sự vật, hiện tượng của
hiện thực, phản ánh ý nghĩa của chúng trong mối liên hệ với
nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
2.1.3. Kĩ năng tự chủ cảm xúc
Theo UNICEF thì KNTCCX thuộc nhóm các KN ứng
phó và tự kiềm chế được hiểu là sự kiềm chế nỗi tức giận,
xử trí trạng thái bồn chồn, đau khổ; Các KN ứng phó, xử
trí với mệt mỏi, xâm hại và tổn thương, hay nói cách khác
là “việc xác định, nhận biết được những cảm xúc của mình
với những nguyên nhân cụ thể, tiếp đến là có những quyết
định không để cho những xúc cảm này chi phối (mặc dù có
tính đến những cảm xúc đó)” [7].
2.1.2. Tự chủ cảm xúc
Suninder Tung và Rupan Dhillon (2006) cho rằng, trong
thời gian chuyển tiếp từ thời thơ ấu đến tuổi trưởng thành,
phát triển quyền tự chủ là nhiệm vụ rất quan trọng, quan
niệm quyền tự chủ là khả năng kiểm soát trong cuộc đời
để có thể đưa ra quyết định và phải từ bỏ sự phụ thuộc vào
người khác.
WHO quan niệm KNTCCX là KN đương đầu với xúc
cảm bao gồm ý thức trách nhiệm, cam kết, kiềm chế căng
thẳng, kiểm soát được cảm xúc, tự quản lí, tự giám sát và tự
điều chỉnh,… [7].
Nguyễn Thanh Bình (2013), Nguyễn Khánh Hà (2014)...
quan niệm: “KN kiểm soát cảm xúc/quản lí cảm xúc là khả
năng con người nhận thức rõ cảm xúc của mình trong một
tình huống nào đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đến
chính mình và người khác như thế nào, đồng thời biết cách
kiềm chế và thể hiện cảm xúc một cách phù hợp”.
Cùng quan điểm trên, Huỳnh Văn Sơn (2009) trong các
nghiên cứu của mình đã quan niệm KNTCCX là khả năng
con người tự nhận biết và tự điều khiển, điều chỉnh cảm xúc
của bản thân.
Đào Thị Oanh (2009) trong nghiên cứu thực tiễn: “Thực
trạng KN đương đầu với xúc cảm tiêu cực ở thiếu niên học
sinh” đưa ra quan niệm “KN đương đầu với xúc cảm tiêu
cực là khả năng chấp nhận và vận dụng kiến thức để giải
quyết có kết quả những tình huống/ hoàn cảnh gây ra ở cá
nhân những áp lực, căng thẳng tâm lí nhất định”.
Nguyễn Thị Hải (2014) cho rằng, KN quản lí cảm xúc
bản thân là ”Sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm, hiểu biết
vào việc nhận diện, kiểm soát, điều chỉnh và sử dụng những
rung động của cá nhân khi có những kích thích tác động
nhằm thực hiện hiệu quả hoạt động của mình”. Đồng thời,
phân thành những mức độ có sự liên hệ và tùy thuộc vào
những khả năng đã có trước đó, trong đó gồm: KN cảm
nhận, đánh giá, biểu lộ cảm xúc một cách chính xác; KN
truy cập và phát hiện những cảm xúc theo nhu cầu để có thể
dễ hiểu bản thân và người khác; KN hiểu những cảm xúc và
những nguyên nhân của nó và KN điều chỉnh cảm xúc để
thúc đẩy sự phát triển cảm xúc và trí tuệ [8].
Tóm lại, KNTCCX là khả năng con người nhận thức rõ
cảm xúc của mình, hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối
với bản thân và người khác như thế nào, đồng thời biết cách
điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một cách phù hợp với mỗi
hoàn cảnh, tình huống.
Crittenden (1990) đã xác định quyền tự chủ là “năng lực
dành trách nhiệm cho hành vi của mình, làm cho các quyết
định liên quan đến cuộc sống của chính mình và duy trì các
mối quan hệ hỗ trợ”.
Tomkins (1962) trong Giả thuyết mô tả mối quan hệ lẫn
nhau giữa các cảm xúc, ý thức và tri thức đã đưa ra 5 giả
định, trong đó giả định 5: “Hệ thống cảm xúc là phương
tiện cơ bản để đem lại màu sắc cho nhận thức, quyết định và
hành động. Những năng lực thích ứng của con người không
chỉ gắn với khả năng phản ứng đáp lại các kích thích, mà
còn gắn với khả năng phản ứng lại bất cứ hoàn cảnh nào
gây nên các cảm xúc tích cực và các cảm xúc tiêu cực”.
Hà Nhật Thăng (2016) quan niệm: “Tự chủ là làm chủ
bản thân, suy nghĩ, tình cảm và hành vi của mình trong mọi
hoàn cảnh, bình tĩnh, tự tin và biết điều chỉnh hành vi”. Từ
đó, đưa ra các biểu hiện của đức tính tự chủ, đó là: Thái độ
bình tĩnh, tự tin; Biết tự điều chỉnh hành vi của mình, biết
tự kiểm tra, đánh giá bản thân mình. Nghiên cứu cũng đưa
ra được ý nghĩa của tự chủ đó là: Một đức tính quý giá; Có
tính tự chủ con người sống đạo đức, cư xử có đạo đức, có
văn hóa; Tính tự chủ giúp con người vượt qua khó khăn, thử
thách và cám dỗ. Tác giả đưa ra kết luận: “Tính tự chủ rất
cần thiết trong cuộc sống, giúp con người luôn có sự ứng xử
đúng đắn, phù hợp. Tính tự chủ giúp con người tránh được
những sai lầm không đáng có, sáng suốt lựa chọn cách thức
thực hiện mục đích cuộc sống của mình. Trong xã hội, mọi
người đều biết tự chủ, biết xử sự như người có văn hóa thì
xã hội sẽ tốt đẹp hơn” [5].
Nguyễn Khánh Hà (2014), cho rằng: “Kiểm soát cảm xúc
(làm chủ cảm xúc) là khả năng con người nhận thức rõ cảm
xúc của mình trong một tình huống nào đó, hiểu được ảnh
hưởng của cảm xúc đối với bản thân và người khác như thế
nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một
cách phù hợp”. Đồng thời, tác giả cho rằng “Đôi khi con
người không hành động theo lí trí mà hành động theo cảm
xúc. Những cảm xúc tích cực có thể giúp bạn lạc quan và
2.2. Nghiên cứu kĩ năng tự chủ cảm xúc theo hướng tiếp cận
Tâm lí học
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài:
Aristote - Đạo đức học cho Nicomaque viết: “Bất cứ ai
cũng có thể trở nên giận dữ - đó là điều rất dễ xảy ra. Tuy
hạnh phúc trong cuộc sống, nhưng có những cảm xúc tiêu nhiên, để giận đúng người, với mức độ thích hợp, đúng thời
TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
50
Phạm Thꢀ Phương Nguyên
điểm, vì những lí do chính đáng và biểu lộ sự tức giận đúng cảm xúc thậm chí là một cảm xúc không dễ chịu” [3].
cách - lại là điều không dễ”. Aristote đã chỉ ra nguyên nhân
Theo một nghiên cứu của Walsh, Miquela (2013), việc
không chỉ ở bản thân những xúc cảm, mà còn ở tính đúng quản lí thành công của những cảm xúc, được định nghĩa là
đắn và cách biểu hiện của chúng. Đây có thể là quan niệm “quy chế cảm xúc” là một KN cơ bản, KN xã hội có ảnh
mở đầu trong việc xác định khả năng tự chủ cảm xúc của hưởng nhiều đến kết quả sau này trong cuộc sống, trong học
con người.
tập. Sự phát triển của quy chế cảm xúc bị ảnh hưởng bởi
Những năm 1960 - 1970, Walter Mischel - Nhà Tâm một loạt các yếu tố môi trường như sức khỏe bà mẹ, thực
lí học Mĩ chuyên về lí thuyết tính cách và tâm lí xã hội hành chăm sóc và cũng khác biệt cá nhân như khả năng
tiến hành trắc nghiệm để đo năng lực chế ngự cảm xúc tại phục hồi và tính khí. Bằng chứng gần đây cho thấy tình cảm
trường mầm non Bing ở Trường Đại học Stanford. Trắc tự hiệu quả (niềm tin vào khả năng quản lí cảm xúc của một
nghiệm này cho phép thăm dò tâm lí một đứa trẻ xung đột người) đóng vai trò nhất định trong việc phát triển các KN
giữa các xung lực và sự kiềm chế, giữa ham muốn và sự chế điều tiết cảm xúc thành công. Nghiên cứu này nhằm điều
ngự bản thân.
tra các mối quan hệ giữa các KN điều tiết cảm xúc của trẻ
Nhằm tìm hiểu mối quan hệ giữa quyền tự chủ cảm xúc em (như đánh giá chính mình, giáo viên đánh giá và những
và tuổi tác, tại Hội nghị lần thứ VII Biennial của Hiệp hội người khác) và tín ngưỡng tự hiệu quả cảm xúc của họ [10].
Châu Âu về Nghiên cứu tuổi vị thành niên (EARA), Jena
(Đức), năm 2000, Alfredo Oliva (Đại học Seville) đã trình
Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam
KNTCCX là một hướng nghiên cứu khá mới trong lĩnh
bày nghiên cứu về Sự liên quan giữa cá nhân, xã hội và gia vực tâm lí học ở Việt Nam. Cũng như trên thế giới, ở Việt
đình với sự tự chủ cảm xúc ở vị thành niên. Trong nghiên Nam, nhiều nhà nghiên cứu coi khả năng này là một bộ
cứu của mình, tác giả nghiên cứu trên 513 thanh thiếu niên phận cấu thành nên trí tuệ xúc cảm và nghiên cứu nó trên
thuộc 13 trường công lập và tư nhân ở Seville, nội dung bình diện là một bộ phận của trí tuệ xúc cảm. Do đó, nghiên
nghiên cứu về mối quan hệ gia đình, quan hệ nhóm và các cứu KNTCCX theo tiếp cận tâm lí học được thể hiện trong
khía cạnh khác nhau của sự phát triển cá nhân. Trong đó, tập các nghiên cứu về trí tuệ xúc cảm ở Việt Nam trong thời
trung kiểm tra mối quan hệ giữa quyền tự chủ về tình cảm gian vừa qua. Thuật ngữ “Trí tuệ cảm xúc” được chính thức
của tuổi thanh thiếu niên và các loại cảm xúc tồn tại giữa đề cập tại Hội thảo của các nhà nghiên cứu thuộc chương
cha mẹ và con cái; Thứ hai, phân tích các đặc điểm cảm xúc trình Khoa học xã hội cấp Nhà nước KX -07 do Phạm Minh
xã hội liên quan đến mức độ tự trị cao trong cảm xúc nữ và Hạc làm chủ nhiệm.
nam thanh niên; Thứ ba là nghiên cứu vai trò trung gian của
Năm 2000, thuật ngữ “Trí tuệ cảm xúc” đã được tác
chất lượng môi trường gia đình trong quan hệ giữa quyền tự giả Nguyễn Huy Tú Việt hóa từ thuật ngữ “Emotional
chủ cảm xúc và phát triển vị thành niên; Cuối cùng, ngoài Intelligence” trong tiếng Anh và thuật ngữ “Emotionale
việc nghiên cứu hoàn cảnh gia đình và văn hóa là các điều Intelligecz” trong tiếng Đức [11].
kiện chắc chắn của quan hệ giữa quyền tự chủ cảm xúc và
Năm 2002, Nguyễn Công Khanh đã đề cập đến khái
phát triển (hoặc điều chỉnh tâm lí) thì giới tính là một điều niệm, cấu trúc trí tuệ cảm xúc và một số phương pháp luận
kiện quan trọng cần nghiên cứu [9].
trong nghiên cứu trí tuệ cảm xúc [12].
Năm 1995, Daniel Goleman đã tập hợp các kết quả
Nghiên cứu thực tiễn đầu tiên ở Việt Nam là đề tài cấp
nghiên cứu về trí tuệ xúc cảm và cho ra đời cuốn sách đầu Nhà nước KX - 05 - 06 do Trần Kiều chủ nhiệm đã xác định
tiên “Trí tuệ cảm xúc: Tại sao nó có thể quan trọng hơn IQ”, trí tuệ cảm xúc là một trong ba thành tố của trí tuệ gồm trí
cuốn sách đã trở thành một trong những cuốn sách bán chạy thông minh, trí tuệ cảm xúc và trí sáng tạo. Đồng thời, một
nhất nước Mĩ vào những năm cuối thế kỉ XX, đưa Daniel nhóm tác giả của đề tài đã Việt hóa Trắc nghiệm đo trí thông
Goleman trở thành người có công đầu tiên trong việc quảng minh cảm xúc MSCEIT (của John D. Mayer, P. Solovey và
bá khái niệm trí tuệ xúc cảm. Mô hình trí tuệ xúc cảm mà D. Caruso, Version 2.0, 2002, dành cho người lớn từ 16
D. Goleman đề xuất là một mô hình kiểu hỗn hợp, theo đó tuổi trở lên) và Trắc nghiệm đo lường trí thông minh cảm
thì trí tuệ xúc cảm bao gồm các năng lực: Sự tự chủ, lòng xúc của Bar - On (BarOn EQ - i, 1997 dùng cho người lớn
nhiệt thành và kiên nhẫn cũng như khả năng và sự kích từ 16 tuổi trở lên và BarOn EQ - i: YV phiên bản dành cho
thích hành động. Ngoài những khả năng này, còn có đòi trẻ em) và sử dụng bộ công cụ này để đo lường các chỉ số trí
hỏi về mặt đạo đức và theo ông thái độ đạo đức chúng ta tuệ cảm xúc trên 5.747 học sinh phổ thông, sinh viên, người
cần có là sự kiềm chế và lòng trắc ẩn. Năm 1998, Goleman lao động trẻ Việt Nam [13].
tiếp tục cho ra đời cuốn sách với tựa đề “Làm việc với trí
Năm 2008, trong luận án tiến sĩ “Trí tuệ cảm xúc của giáo
tuệ cảm xúc” (Working with Emotional Intelligence) trong viên chủ nhiệm lớp trường trung học cơ sở” của Nguyễn
đó khung EI được bổ sung gồm các thang phụ như sự nhận Thị Dung với mục đích tìm hiểu về EI và mối quan hệ
thức về xúc cảm, sự tự đánh giá một cách chính xác, sự lạc của nó với kết quả hoạt động chủ nhiệm lớp của giáo viên
quan,… Năm 2007, cuốn “Trí tuệ cảm xúc ứng dụng trong THCS. Luận án tiến sĩ “Trí tuệ cảm xúc của giáo viên tiểu
công việc” được dịch ra tiếng Việt trong đó cho rằng “Tự học” của Dương Thị Hoàng Yến (2010) đã nghiên cứu lí
điều chỉnh cảm xúc bao gồm không chỉ làm giảm stress, luận và đánh giá thực trạng trí tuệ cảm xúc của giáo viên
kiềm chế nóng vội mà nó còn có nghĩa là cố ý tạo ra một tiểu học, bổ sung thêm biện pháp tác động hiện thời nhằm
Số 18 tháng 6/2019
51
NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN
nâng cao trí tuệ cảm xúc cho giáo viên tiểu học. Luận án mức độ, cường độ, trường độ như thế nào, phán đoán được
tiến sĩ “Trí tuệ cảm xúc của sinh viên đại học sư phạm” của các trạng thái cơ bản của cảm xúc.
- KN gọi tên cảm xúc và mô tả các dấu hiệu đặc trưng:
Việc gọi tên cảm xúc và mô tả được các dấu hiệu đặc trưng
của cảm xúc giúp bản thân biết, hiểu được cảm xúc hiện tại
của mình và người khác là cảm xúc gì, có những dấu hiệu
đặc trưng như thế nào để định hướng cho bước tiếp theo
được phù hợp, hiệu quả. Theo Carroll. E. Izard [1992] có
10 cảm xúc cơ bản của cá nhân: 1) Hứng thú hồi hộp; 2) Vui
sướng; 3) Ngạc nhiên; 4) Đau khổ, đau xót; 5) Căm giận; 6)
Ghê tởm; 7) Khinh bỉ; 8) Khiếp sợ; 9) Xấu hổ; 10) Tội lỗi.
- KN nhìn nhận vấn đề một cách khái quát: Trong nhận
diện cảm xúc bản thân, nhìn nhận vấn đề một cách khái
quát giúp chủ thể có cái nhìn tổng thể, nhiều chiều. Cảm
xúc trong các hoàn cảnh khác nhau là khác nhau, do đó nhìn
nhận vấn đề một cách khái quát giúp cá nhân trong mỗi
hoàn cảnh tự định ra cảm xúc của bản thân.
Phan Trọng Nam (2012). Luận án tiến sĩ “Trí tuệ cảm xúc
của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong giao tiếp công vụ” của
Nguyễn Thị Thanh Tâm và một số bài báo đăng trên các tạp
chí chuyên ngành về trí tuệ cảm xúc như “Đo lường trí tuệ
cảm xúc” của Tô Thúy Hạnh (2009), “Tìm hiểu về trí tuệ
cảm xúc” của Nguyễn Minh Anh (2006), “Một số kết quả
nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc của học viên học viện chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh” của Nguyễn Thị Thanh Tâm
(2009)... Những nghiên cứu này đều nghiên cứu khả năng
tự chủ cảm xúc như một thành tố cấu thành trí tuệ cảm xúc.
Đặc biệt, luận án tiến sĩ “KN quản lí cảm xúc bản thân
của sinh viên sư phạm” của Nguyễn Thị Hải (2014) đưa ra
được khái niệm KN quản lí cảm xúc bản thân và xác định
được 04 thành phần tâm lí cốt lõi của KN quản lí cảm xúc
bản thân là: 1) KN nhận diện cảm xúc bản thân; 2) KN kiểm
soát cảm xúc của bản thân (kìm nén, kiềm chế những cảm
xúc tích cực hoặc tiêu cực; 3) KN điều khiển cảm xúc của
bản thân; 4) KN sử dụng cảm xúc của bản thân.
2.3.2. Nhóm kĩ năng kiểm soát cảm xúc bản thân
KN kiểm soát cảm xúc bản thân giúp cá nhân luôn bình
tĩnh, kiên định trước những biến động của cảm xúc khi có
những tác động tức thời. “KN kiểm soát cảm xúc thực chất
là sự “dõi theo” của ý thức đối với dòng chảy cảm xúc của
cá nhân; Cố gắng hình dung được hậu quả sức mạnh tác
động của cảm xúc nếu được tự do phát động, từ đó cá nhân
có thể dùng sức mạnh của ý thức hay ý chí để kìm nén cảm
xúc đó, bằng các động tác mang tính phong tỏa hay giải tỏa
như im lặng, thở sâu, tập trung vào công việc khác ...” [8].
Nhóm KN này gồm 6 KN sau:
2.3. Cấu trúc của kĩ năng tự chủ cảm xúc
2.3.1. Nhóm kĩ năng nhận diện cảm xúc bản thân
Nhận diện cảm xúc là nhận ra được các dạng cảm xúc
hiện thời của bản thân. Thông qua các biểu hiện trên khuôn
mặt, điệu bộ và sắc thái biểu cảm của cơ thể, cá nhân có thể
phán đoán được các trạng thái cơ bản của cảm xúc của mình
hay của người khác. Gồm 5 KN sau:
- KN tự nhận thức: Để nhận diện được cảm xúc của bản
thân trước hết phải tự nhận thức, tự phân tích và nhìn nhận
mình, hiểu được mình là ai, nhận thức được những tiềm
năng, tình cảm, những mặt mạnh, mặt yếu của mình. Nhận
thức được cảm xúc của mình hiện tại như thế nào, đặt câu
hỏi: Có nên để cảm xúc điều khiển hành động của chúng
ta không?...
- KN nhận biết cảm xúc của bản thân và người khác:
Trong quá trình nhận diện cảm xúc, trước hết phải nhận
biết được cảm xúc của bản thân nhằm định hướng cho hành
động, đây là thành phần tâm lí đầu tiên của KNTCCX,
ngoài ra, còn nhận biết được cảm xúc của người khác. Việc
nhận biết cảm xúc của người khác không chỉ qua lời nói, mà
cả những biểu hiện qua hành động phi ngôn ngữ, từ phong
cách ăn mặc, điệu bộ như: Cách bắt tay, tư thế đi, đứng,
ngồi, cách sử dụng ánh mắt, nụ cười, nét mặt, cử chỉ… đều
- KN chuẩn bị tâm thế đón nhận một cách bình thản: Khi
gặp tình huống nảy sinh các kích thích cảm xúc, nếu cá
nhân đón nhận với một tâm thế nóng vội hoặc kích động thì
sẽ không giữ được bình tĩnh để tìm phương án giải quyết tốt
nhất, KN này giúp con người có khả năng bình tĩnh trước
mọi tình huống (cả tích cực và tiêu cực).
- KN lắng nghe một cách tích cực: Để kiểm soát tốt cảm
xúc của mình, sau khi đã chuẩn bị một tâm thế vững vàng
trước hoạt cảnh, cá nhân phải biết lắng nghe ý kiến, cảm
nhận của người khác trên tinh thần thiện chí, đồng cảm và
tôn trọng lẫn nhau, không được cắt ngang ý kiến của người
khác; thể hiện sự tập trung chú ý và thể hiện sự quan tâm
lắng nghe ý kiến của người khác, biết phản hồi hợp lí cũng
như biết cách trả lời một cách cầu thị, hài hòa trong quá
trình giao tiếp.
- KN suy nghĩ tích cực: Trong các tình huống gây căng
thể hiện cảm xúc của mỗi người. Mỗi cá nhân đều có những thẳng, nếu cá nhân suy nghĩ theo chiều hướng tiêu cực thì
tố chất khác nhau, nhu cầu và mong muốn khác nhau và không những không giải quyết được vấn đề mà còn đẩy
cách thể hiện cảm xúc cũng khác nhau. Nói cách khác, KN vấn đề theo chiều hướng xấu hơn. Do đó, trong kiểm soát
nhận biết cảm xúc bản thân là khả năng cảm nhận cảm xúc cảm xúc bản thân, KN suy nghĩ tích cực giúp bản thân nhìn
của chính mình, hiểu được những gì người khác nói với nhận vấn đề theo chiều hướng mới để tránh rơi vào trạng
mình và cách mà cảm xúc của mình ảnh hưởng đến những thái căng thẳng không cần thiết. Bằng cách đặt câu hỏi: Nếu
người xung quanh.
cứ để cảm xúc tiêu cực chi phối mọi việc sẽ như thế nào?
- KN bình luận, phán đoán, đánh giá cảm xúc của mình Bằng cách nào để cho những cảm xúc tiêu cực thoát ra và
và người khác: Khi đã nhận biết được cảm xúc của bản thân tan biến?... Khi căng thẳng, chúng ta thường có cảm xúc và
và người khác, cần xem xét cảm xúc được biểu hiện với suy nghĩ tiêu cực dẫn đến những việc làm không đúng. Do
TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
52
Phạm Thꢀ Phương Nguyên
đó, điều quan trọng là phải ý thức được chúng ta đang có được các cảm xúc thực cá nhân mới có khả năng duy trì
cảm xúc đó và suy nghĩ một cách tích cực.
cũng như điểu khiển, điều chuyển được cảm xúc của mình,
- KN kiềm chế (kìm nén) cảm xúc: Đây là KN cơ bản việc kiểm soát cảm xúc thực giúp cá nhân thấu hiểu các
của nhóm KN này, từ quá trình hiểu được cảm xúc, nguyên cảm xúc phức tạp và sự chuyển hóa từ một cảm xúc này đến
nhân gây ra cảm xúc cũng như gọi tên và tìm ra các dấu một cảm xúc khác như thế nào, đồng thời giúp cho việc lựa
hiệu đặc trưng của cảm xúc, cá nhân hiểu được ảnh hưởng chọn, hình thành những cảm xúc phù hợp hoàn cảnh được
của cảm xúc đối với bản thân và người khác như thế nào, dễ dàng, hiệu quả.
từ đó có khả năng kìm nén những cảm xúc và sự bộc phát
- KN kết nối cảm xúc: Điều khiển cảm xúc không có nghĩa
khi có những kích thích tương ứng (tích cực hoặc tiêu cực), là dập tắt tức thời cảm xúc tiêu cực để chuyển sang cảm xúc
tránh được những phản ứng hồ đồ, không cho phép mình tích cực vì khi chúng ta tắt cảm xúc tiêu cực như giận dữ,
trở nên quá giận dữ, đố kị vì khi để cảm xúc tiêu cực kiểm buồn bã hay sợ hãi thì chúng ta cũng bị tắt khả năng trải
soát bản thân, lí trí sẽ bị che mờ, làm giảm khả năng ứng xử nghiệm cảm xúc tích cực như niềm vui, tình yêu và hạnh
khôn ngoan trong giao tiếp, dẫn đến có những lời nói, hành phúc, hay nói cách khác, việc ngắt kết nối với những cảm
động không hợp lí.
xúc mà chúng ta không thích - cảm xúc mà chúng ta thấy
- KN kiên định: KN kiên định là khả năng con người nhận không thoải mái hoặc bị áp đảo, đó là khi chúng ta đã tự
thức được những gì mình muốn và lí do dẫn đến sự mong động tắt, xa lìa những cảm xúc mạnh mẽ, tích cực, những
muốn đó. Kiên định còn là khả năng tiến hành các bước cần cảm xúc giúp chúng ta duy trì trong thời điểm khó khăn và
thiết để đạt được những gì mình muốn trong những hoàn đầy thách thức của cuộc sống.
cảnh cụ thể, dung hòa được giữa quyền, nhu cầu của mình
với quyền, nhu cầu của người khác.
- KN quản lí sự thay đổi: Quản lí sự thay đổi là một quá
trình giúp cá nhân hạn chế được những biến động xấu nói
- KN giám sát: Việc kiểm soát cảm xúc không chỉ là KN chung trong thời gian diễn ra sự thay đổi về cảm xúc bản
kìm nén cảm xúc mà còn là KN giám sát thúc đẩy của cảm thân, đồng thời đảm bảo việc thay đổi đạt được kết quả tốt
xúc đối với một hành động nào đó của cá nhân. Sự giám nhất.
sát này giúp cá nhân làm chủ được cảm xúc của mình trong
- KN quản lí thời gian: Trong điều khiển cảm xúc, quản lí
các tình huống khác nhau, nhất là trong các tình huống đòi thời gian giúp cá nhân thực hiện kiểm soát có ý thức về số
hỏi phải có các phản ứng với sự tỉnh táo, bình tĩnh của cá lượng thời gian dành cho hoạt động cụ thể, đặc biệt để tăng
nhân [8].
hiệu quả hoặc năng suất. Kiểm soát tốt hơn cách chúng ta
sử dụng thời gian trong điều khiển cảm xúc và đưa ra những
quyết định sáng suốt về cách sử dụng nó.
2.3.3. Nhóm kĩ năng điều khiển cảm xúc
Giúp cá nhân giữ được bình tĩnh trong nhận thức, thái
độ và hành vi ứng xử trước những kích thích có thể gây ra
những cảm xúc với cường độ cao và không bị những cảm
2.3.4. Nhóm kĩ năng sử dụng cảm xúc
Nhóm KN này là thành phần quan trọng trong cấu trúc
xúc đó làm biến dạng, đồng thời tìm cách kết nối cảm xúc tâm lí của quá trình tự chủ cảm xúc của cá nhân. Nhóm KN
cũng như điều chỉnh những cảm xúc của mình phù hợp với này được hình thành qua các hoạt động trải nghiệm trong
tình huống.
công việc, học tập và cuộc sống hằng ngày bởi sử dụng cảm
- KN duy trì cảm xúc ở mức cân bằng: Trong khi điều xúc không chỉ như các nhóm KN trên có thể dùng tri thức, ý
khiển cảm xúc, cá nhân phải luôn duy trì được cảm xúc ở thức, ý chí để thực hiện, sử dụng cảm xúc biết cách tạo cảm
mức cân bằng, tránh sự đẩy cảm xúc lên cao hoặc xuống xúc và thể hiện cảm xúc đó đạt mục đích đặt ra.
thấp khi gặp tình huống có kích thích, việc kìm chế được
- KN lựa chọn cách ứng phó: Cùng một tình huống gây
cảm xúc ở một mức nhất định là tiền đề giúp cá nhân duy cảm xúc tiêu cực/gây căng thẳng nhưng ở hoàn cảnh khác
trì cảm xúc cũng như điều khiển, điều chỉnh cảm xúc một nhau, đối tượng khác nhau thì có cách ứng phó khác nhau.
cách phù hợp.
Việc lựa chọn cách ứng phó phù hợp phụ thuộc vào nhận
- KN điều khiển cảm xúc của bản thân: KN này giúp cá thức, kinh nghiệm sống, nhân cách, điều kiện của mỗi
nhân luôn giữ được bình tĩnh trong nhận thức, thái độ và người.
hành vi ứng xử, trước những kích thích có thể gây ra những
- KN sử dụng các phương tiện để biểu lộ cảm xúc và sử
cảm xúc với cường độ cao và không bị những cảm xúc đó dụng các biểu cảm tương ứng với cảm xúc: KN này giúp
làm biến dạng. Để điều khiển được cảm xúc bản thân, cá chủ thể có khả năng sử dụng các phương tiện giao tiếp
nhân một mặt phải nhận dạng được các loại cảm xúc nền (ngôn ngữ, phi ngôn ngữ) và các biểu hiện bằng nét mặt,
tảng, sự tác động của chúng đối với nhận thức, thái độ, hành cử chỉ, hành động... để thể hiện cảm xúc một cách phù hợp.
vi ứng xử của mình, mặt khác phải có KN kiểm soát được
- KN tạo ra những cảm xúc phù hợp hoàn cảnh: Đây là
cảm xúc thực khi xuất hiện, đồng thời phải biết sử dụng một KN quan trọng trong nhóm KN này, việc tạo ra cảm
các phương tiện biểu cảm để bộc lộ cảm xúc đó trong tình xúc phù hợp hoàn cảnh giúp cá nhân chủ động trong kiểm
huống cụ thể [8].
soát cũng như điều khiển cảm xúc, đồng thời giúp cá nhân
- KN kiểm soát được các cảm xúc thực: KN này hỗ trợ biết sử dụng các biểu cảm tương ứng với mỗi loại cảm xúc
KN duy trì cảm xúc ở mức cân bằng vì chỉ khi kiểm soát để thể hiện ra “cảm xúc của mình” để người khác biết.
Số 18 tháng 6/2019
53
NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN
trúc của KNTCCX, từ đó có các tác động về tâm lí, GD
phù hợp nhằm hình thành và phát triển KNTCCX bởi tự
chủ cảm xúc là phẩm chất cần thiết đối với mỗi nhân cách
3. Kết luận
KNTCCX còn có các tên gọi khác như kiểm soát cảm
xúc, quản lí cảm xúc, đương đầu với cảm xúc, xử lí cảm
xúc, kiềm chế cảm xúc... Qua những nghiên cứu trên cho trưởng thành. Ngoài ra, hình thành và phát triển KNTCCX
thấy, cấu trúc của KNTCCX gồm 20 KN trong 4 nhóm KN thành công giúp hình thành tốt các mối quan hệ trong xã
thành phần là: Nhận diện cảm xúc, kiểm soát cảm xúc, điều hội, khiến con người không bị lệch chuẩn do xã hội đặt ra,
khiển cảm xúc và sử dụng cảm xúc. Việc nghiên cứu các đồng thời KNTCCX được phát triển sẽ kéo theo sự phát
nhóm KN thành phần giúp chúng ta hiểu được bản chất cấu triển của các KN sống khác.
Tài liệu tham khảo
[1] Nguyễn Khắc Viện, (1995), Từ điển Tâm lí học, NXB
Thế giới, Hà Nội.
[2] Vũ Dũng, (2000), Từ điển Tâm lí học, NXB Từ điển Bách
khoa, Hà Nội.
[3] Daniel Goleman, (2012), Trí tuệ xúc cảm, NXB Lao động
Xã hội, Hà Nội.
Psychosocial Functioning and Autonomic Recovery to
Stress in Middle School Children, IHeartMath Research
Center, Institute of HeartMath, Boulder Creek, CA
Education Division, HeartMath UC, Boulder Creek,
CA Nova Southeastern University, College of Medical
Sciences, Ft. Lauderdale, FL.
[4] Carroll E.Jzard, (1992), Những cảm xúc của người, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
[5] Hà Nhật Thăng - Lưu Thu Thủy, (2016), Giáo dục công
dân 9, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[6] Nguyễn Khánh Hà, (2014), Rèn kĩ năng sống dành cho
học sinh, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[11] Lưu Thu Thủy (Chủ biên), (2006), Giáo dục kĩ năng sống
cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
[12] Nguyễn Công Khanh, (2002), Cơ sở phương pháp luận
nghiên cứu trí thông minh cảm xúc, Tạp chí Tâm lí học số
11.
[7] Nguyễn Thanh Bình, (2009), Giáo trình chuyên đề giáo
dục kĩ năng sống, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
[8] Nguyễn Thị Hải, (2014), Kĩ năng quản lí cảm xúc bản
thân của sinh viên sư phạm, Luận án Tiến sĩ Tâm lí học,
Viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[9] Alfredo Oliva, (2000), Personal, social and family
correlates of emotional autonomy in adolescence,
Paper presented at the Seventh Biennial Conference of
the European Association for Research on Adolescence
(EARA), Jena (Germany), May-June, 2000.
[13] Trần Kiều, (2002), Đề tài KX - 05-06, Hà Nội.
[14] Nguyễn Thanh Bình, (2013), Giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh phổ thông, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[15] Roger Fisher - Daniel Shapiro, (2009), Sức mạnh của trí
tuệ cảm xúc, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
[16] Suninder Tung and Rupan Dhillon, (2006), Emotional
Autonomy in Relation to Family Environment: A Gender
Perspective, Journal of the Indian Academy of Applied
Psychology, July 2006, Vol. 32, No. 3, p.201-212.
[17] Nguyễn Huy Tú, (1975), Xúc cảm và tình cảm, Đề cương
bài giảng Tâm lí học đại cương, Hội đồng bộ môn Tâm lí
học - Giáo dục học, Tiểu ban Tâm lí học, Hà Nội.
[10] Rollin McCrayty - Mixs Atkinson - Dana Tomasn - Jeff
Gostrrz - anh Harvey N. Mxraovrrz, (1999), The Impact
of an Emotional Self-Management Skills Course on
RESEARCH STRUCTURE OF AUTONOMY SKILLS EMOTION THROUGH
COMPONENTS OF COMPONENTS
Pham Thi Phuong Nguyen
Hanoi University of Home Affairs
ABSTRACT: Emotional self-control is one of the core life skills, with other names
No. 36 Xuan La, Tay Ho, Hanoi, Vietnam
such as “emotion control”, “emotion management”, “emotion confrontation”,
Email: Hoaphiyen79@gmail.com
“emotion processing” , “restraining emotions” ... “Emotional self-reliance is the
ability of human to realize their emotions in a certain situation and understand
the impact of emotions on themselves and others., and at the same time,
know how to adjust and express emotions appropriately”. Therefore, forming
and developing successful emotional self-control skills helps to form good
relationships in society, making people not deviate from social standards, and
emotional self-control skills. development will lead to the development of other
life skills.
KEYWORDS: Life skills; emotional self-control; component skills.
TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
54
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu cấu trúc kĩ năng tự chủ cảm xúc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- nghien_cuu_cau_truc_ki_nang_tu_chu_cam_xuc.pdf