Khuyến nghị về quy định chế độ sử dụng đất đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài

KHUYẾN NGHỊ VỀ QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ SỬ DỤNG ĐẤT  
ĐỐI VỚI TỔ CHỨC, CÁ NHÂN NƯỚC NGOÀI,  
NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI  
ThS. Vương Thanh Tùng  
TS. Nguyễn Hồng Phú  
Cục Quản Lý Nhà và Thị trường bất động sản, Bộ Xây dựng  
1. Một số số liệu thống kê và nhận định về đầu tư nước ngoài vào bất động sản, sở  
hữu bất động sản nhà ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư  
tại nước ngoài ở Việt Nam  
a) Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực bất động sản  
- Trong 8 tháng đầu năm 2019, nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 19/21 ngành  
trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân, trong đó lĩnh vực hoạt động kinh doanh bất  
động sản đứng thứ hai về thu hút vốn đầu tư với tổng vốn đầu tư 2,31 tỷ USD,  
chiếm 10,2% tổng vốn đầu tư đăng ký.  
- Trong những năm gần đây, tình hình chính trị - kinh tế của Việt Nam luôn ổn định.  
Tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục chuyển biến tích cực, toàn diện; Kinh tế vĩ mô ổn định,  
các cân đối lớn được bảo đảm; chỉ số lạm phát (CPI) được kiểm soát ở mức hợp lý; Tăng  
trưởng GDP luôn ở mức cao xấp xỉ 7%, quy mô nền kinh tế tăng nhanh, đời sống vật chất  
– tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện; Trật tự an toàn xã hội được bảo đảm;  
Đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh ngày càng sâu rộng với các nước; Vị thế  
và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Những kết quả trên là các yếu  
tố quan trọng và hấp dẫn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời  
gian qua, trong đó có lĩnh vực bất động sản.  
- Tính đến nay, hệ thống pháp luật của Việt Nam liên quan đến thị trường bất động  
sản về cơ bản đã đầy đủ, đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hội nhập kinh tế quốc  
tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, theo đó đã có nhiều quy định mới tạo điều kiện thuận  
lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài khi tham gia đầu tư vào lĩnh vực bất động sản tại  
Việt Nam như: mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh bất động sản cho tổ chức, cá nhân  
người nước ngoài; cho phép người nước ngoài khi nhập cảnh vào Việt Nam, nếu có nhu  
cầu thì được mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam...  
- Việc các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương, đa phương liên tục được  
ký kết nên Việt Nam đã trở thành môi trường thu hút đầu tư thuận lợi đối với các nhà đầu  
tư nước ngoài trong nhiều lĩnh vực trong đó có bất động sản. Đặc biệt, đối với Hiệp định  
Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (gọi tắt là Hiệp định CPTPP). Mặc  
dù CPTPP không tác động trực tiếp đến thị trường bất động sản Việt Nam như các ngành  
dệt may, thủy sản, nông nghiệp, nhưng vẫn có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của các  
557  
phân khúc bất động sản như: bất động sản khu công nghiệp; bất động sản văn phòng và  
bất động sản nhà ở.  
- Bên cạnh đó, cuộc chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc hiện nay cũng  
có tác động không nhỏ tới Việt Nam do: Việt Nam có quan hệ chặt chẽ về thương mại và  
đầu tư với Mỹ và Trung Quốc. Theo đánh giá của một số chuyên gia, trong thời gian tới,  
nguồn vốn FDI trong lĩnh vực bất động sản sẽ tăng cao do tranh chấp thương mại Mỹ -  
Trung tiếp tục căng thẳng, Việt Nam sẽ là một trong những nền kinh tế hưởng lợi do nhiều  
doanh nghiệp nước ngoài dự báo sẽ chuyển dịch dây chuyền nhà máy từ Trung Quốc sang  
Việt Nam (Việt Nam có nhiều lợi thế như chi phí sản xuất thấp hơn, giá lao động rẻ, môi  
trường kinh doanh hấp dẫn đối với FDI). Dự báo, trong những năm tới, thị trường bất  
động sản công nghiệp tiếp tục tăng trưởng và tập trung vào các tỉnh vùng ven Hà Nội và  
Tp. Hồ Chí Minh, hình thành các khu đô thị công nghiệp vệ tinh. Giá trị đất công nghiệp,  
kho, bến bãi sẽ tăng, tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp sẽ ngày càng cao.  
b) Sở hữu nhà ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước  
ngoài tại Việt Nam  
- Theo số liệu tổng hợp từ Sở Xây dựng các địa phương, tính đến cuối năm 2018,  
tổng số tổ chức, cá nhân nước ngoài và việt kiều có sở hữu nhà ở tại Việt Nam là trên 4.600  
trường hợp. Việc sở hữu nhà ở của nhóm đối tượng này đều được thực hiện theo quy định  
của pháp luật về nhà ở và kinh doanh bất động sản.  
- Ngoài ra, bên cạnh những tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư tại  
nước ngoài sở hữu nhà ở hợp pháp tại Việt Nam, trong thời gian qua còn có xuất hiện hiện  
tượng cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia đầu tư vào lĩnh vực bất động sản tại Việt Nam  
nhằm sở hữu đất đai, nhà ở tại Việt Nam thông qua các hình thức đầu tư gián tiếp gây khó  
khăn trong công tác quản lý và thống kê, cụ thể như:  
+ Đầu tư thông qua cá nhân người Việt Nam để thành lập doanh nghiệp đầu tư kinh  
doanh bất động sản dưới (Tổ chức, cá nhân nước ngoài góp 49% vốn điều lệ trở xuống,  
cá nhân Việt Nam góp 51% vốn điều lệ trở lên). Tại một số địa phương, trong thời gian  
vừa qua, có xuất hiện xu hướng một bộ phận nhà đầu tư nước ngoài nhập cảnh vào Việt  
Nam với hộ chiếu du lịch, không có nhu cầu đầu tư, kinh doanh nhưng tham gia các hoạt  
động thành lập doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và các  
quy định có liên quan để được cư trú dài hạn, hợp pháp tại Việt Nam;  
+ Một số tổ chức, cá nhân nước ngoài thông qua các tổ chức, cá nhân Việt Nam để  
đầu tư tại các lô đất thuộc khu vực, vị trí liên quan tới an ninh quốc phòng, có thời hạn sử  
dụng đất lâu dài sau đó mua lại phần vốn góp của bên Việt Nam (để lách Luật Đầu tư,  
Luật Đất đai). (một số tổ chức trong nước sau khi nhận chuyển nhượng tài sản gắn liền  
với đất để tiếp tục thực hiện dự án đầu tư đã tiến hành đổi tên doanh nghiệp, tăng vốn  
đầu tư bổ sung cổ đông (trong đó có đối tượng là người nước ngoài))  
+ Hình thức nhà đầu tư nước ngoài đầu tư thông qua hình thức cho các cá nhân  
người Việt Nam vay tiền để thành lập doanh nghiệp và thế chấp bằng toàn bộ cổ phần,  
558  
phần vốn góp tại doanh nghiệp; mọi quyết định hoạt động của doanh nghiệp đều phải  
thông qua và chịu sự chỉ đạo của bên cho vay.  
+ Đầu tư thông qua việc kết hôn với người Việt Nam, thành lập doanh nghiệp do  
người Việt Nam đứng tên. Tuy nhiên mọi hoạt động của doanh nghiệp đều do phía nước  
ngoài điều hành. Các doanh nghiệp này chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh nhà  
hàng ăn uống, khách sạn quy mô nhỏ, các dịch vụ giải trí...  
2. Thực trạng quy định pháp luật về sở hữu nhà ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài,  
người Việt Nam định cư ở nước ngoài  
- Pháp luật về nhà ở hiện hành (Luật nhà ở 2014; Nghị định số 99/2015/NĐ-CP  
ngày 20/10/2015 của Chính phủ; Thông tư số 19/2016/TT-BXD ngày 30/6/2016 Của Bộ  
Xây dựng) đã có các quy định cụ thể về sở hữu nhà ở tại Việt Nam của tổ chức, cá nhân  
nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước ngoài. Theo đó, nhóm đối tượng này được  
quyền sở hữu nhà ở hợp pháp tại Việt Nam (pháp luật về nhà ở quy định về đối tượng  
được phép sở hữu; hình thức sở hữu; điều kiện sở hữu và khu vực được sở hữu nhà ở tại  
Việt Nam, ...) trong các dự án nhà ở thương mại, trừ khu vực đảm bảo quốc phòng, an  
ninh theo quy định của pháp luật Việt Nam.  
- Pháp luật về kinh doanh bất động sản (Luật Kinh doanh bất động sản 2014; Nghị  
định số 76/2015/NĐ-CP ngày 10/9/2015 của Chính phủ) cũng có những quy định cụ thể  
về điều kiện, đối tượng, ... Được kinh doanh nhà ở nói riêng và bất động sản nói chung.  
Với việc kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây phát triển mạnh, các hiệp định  
thương mại tự do song phương và đa phương được ký kết thành công nhiều thì Việt Nam  
dự báo sẽ là môi trường thu hút đầu tư của nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Cùng với việc thu  
hút lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thì cũng sẽ có một lượng lớn chuyên  
gia, người nước ngoài tới định cư, làm việc và có nhu cầu sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Tuy  
nhiên đối chiếu quy định pháp luật về đất đai hiện hành lại chưa có quy định về chế độ  
sử dụng đất của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước ngoài.  
3. Khuyến nghị về việc nghiên cứu, bổ sung quy định về chế độ sử dụng đất đối với  
tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước ngoài  
Do quy định pháp luật về nhà ở và thị trường bất động sản đối với việc sở hữu nhà  
ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước ngoài đã được quy  
định nên số lượng người nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam trong những năm vừa qua  
ngày một tăng lên. Tuy nhiên, do quy định về chế độ sử dụng đất đối với nhóm đối tượng  
này còn thiếu do đó việc kiểm soát, quản lý sở hữu nhà ở, đất ở của đối tượng này còn  
khó khăn. Nhiều tổ chức, cá nhân nước ngoài có nhu cầu sở hữu nhà ở, bất động sản tại  
Việt Nam tuy nhiên chưa có đủ cơ sở pháp lý dẫn tới hạn chế thúc đẩy thị trường bất động  
sản phát triển, thu hút vốn đầu tư. Bên cạnh đó, việc này dẫn tới xuất hiện hiện tượng một  
số tổ chức, cá nhân nước ngoài lách luật, vận dụng sự chưa đồng bộ của pháp luật để đầu  
559  
tư gián tiếp nhằm sở hữu đất đai tại những khu vực bị hạn chế, không được giao cho tổ  
chức, cá nhân nước ngoài sử dụng.  
Để hoàn thiện các quy định pháp luật về đất đai đồng bộ với quy định pháp luật về  
nhà ở, kinh doanh bất động sản và điều kiện thực tế của thị trường, giải quyết vấn đề về  
sở hữu bất động sản của nhóm đối tượng là tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam  
định cư ở nước ngoài, đặc biệt là quy định về sở hữu đất ở, nhà ở thì cần thiết nghiên cứu,  
sửa đổi bổ sung luật đất đai và các văn bản hướng dẫn về quy định sử dụng đất đối với tổ  
chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài../.  
560  
pdf 4 trang Thùy Anh 18/05/2022 540
Bạn đang xem tài liệu "Khuyến nghị về quy định chế độ sử dụng đất đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfkhuyen_nghi_ve_quy_dinh_che_do_su_dung_dat_doi_voi_to_chuc_c.pdf