Vận động hành lang: Nhìn từ chính sách pháp luật

VẬN ĐỘNG HÀNH LANG: NHÌN TỪ CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT  
VÕ KHÁNH VINH*  
Vận động hành lang là một chủ đề được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu, trong đó  
có luật học. Luật học quan tâm đến vận động hành lang cũng ở các phương diện hay cấp độ khác  
nhau: Phương diện chính sách pháp luật, phương diện pháp luật thực chứng, phương diện so sánh  
pháp luật, phương diện xã hội học pháp luật; cấp độ lý luận, cấp độ thực tiễn và các phương diện,  
cấp độ khác. Bài viết này bước đầu tìm hiểu vận động hành lang từ phương diện chính sách pháp  
luật cả ở cấp độ lý luận lẫn cấp độ thực tiễn, cụ thể là bước đầu tìm hiểu những vấn đề cơ bản,  
quan trọng về mối quan hệ giữa các nhóm lợi ích có tổ chức, vận động hành lang và cơ chế tác  
động của chúng đến sự hình thành chính sách pháp luật của Nhà nước, những vấn đề cơ bản của  
chính sách pháp luật về vận động hành lang, tức là luận giải vận động hành lang là một vấn đề  
của chính sách pháp luật, mục tiêu, quan điểm, nội dung của chính sách pháp luật về vận động  
hành lang, các phương tiện, hình thức thực hiện chính sách pháp luật về vận động hành lang.  
Từ khoá: Nhóm lợi ích có tổ chức; vận động hành lang; cơ chế tác động của vận động hành lang  
đến chính sách, pháp luật; chính sách pháp luật về vận động hành lang.  
Ngày nhận bài: 24/8/2021; Biên tập xong: 25/8/2021; Duyệt đăng: 25/8/2021  
Lobbyinghasbeenaheatedtopicstudiedbymanyscienticsectors,includingjurisprudence.  
It has been interested in lobbying in different aspects or levels: Legal policy, legal positivism,  
legal comparison, legal sociology aspects; theoretical and practical levels as well as the others.  
The article initially explores lobbying from legal policy aspect both in theoretical and practical  
level like the foundamental and vital issues of the relationship between organized interest  
groups; lobbying and impacts of their mechanism on the formation of the State’s legal policies;  
the basic issues of legal policy on lobbying which means the interpretation of lobbying is a  
maꢀer of legal policy, objectives, viewpoints, and content of legal policy on lobbying, methods  
and forms of implementing legal policies on lobbying.  
Keywords: Organized interest groups, lobbying, impact mechanisms of lobbying on  
policies and laws, legal polices on lobbying.  
1. Sự tác động lẫn nhau của các nhóm của các nhóm lợi ích có tổ chức và của các  
nhóm gây áp lực trong quá trình hình thành  
các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Từ  
đó đến nay, sự quan tâm đến vấn đề này  
ngày càng được gia tăng một cách đáng kể.  
Thực chất của vấn đề là ở chỗ nhờ các nhóm  
đó mà xã hội có được khả năng đại diện một  
cách đầy đủ nhất các lợi ích của mình trong  
hoạt động của Nhà nước đương đại.  
Các nhóm lợi ích có tổ chức là gì? Kinh  
nghiệm thế giới chỉ rõ rằng, một Nhà nước,  
ngay cả Nhà nước đó anh minh đến mấy  
thì tự mình cũng không thể cân nhắc được  
một cách đầy đủ nhất các nhu cầu, lợi ích đa  
dạng của các giai cấp, các tầng lớp, các giai  
tầng, các nhóm xã hội khác nhau cấu thành  
nên xã hội cụ thể đó. “Các nhóm lợi ích có tổ  
chức” thường hỗ trợ cho Nhà nước cân nhắc  
lợi ích có tổ chức và sự hình thành chính  
sách của Nhà nước  
Thực hiện quyền lực nhà nước là một  
quá trình rất phức tạp. Quá trình đó không  
chỉ bao gồm hoạt động của các cơ quan nhà  
nước, mà còn bao gồm hoạt động của các  
cơ cấu khác nhau ở bên cạnh Nhà nước –  
các yếu tố của kinh tế thị trường, các yếu tố  
của xã hội công dân, theo cách gọi của Các  
Mác (Karl Marx). Trong số các yếu tố đó,  
“các nhóm lợi ích có tổ chức” và “các nhóm  
gây áp lực” do họ thành lập ra có vai trò, ý  
nghĩa lớn nhất; do vậy, sự hình thành, sự  
vận động của chúng là cơ sở làm xuất hiện  
hiện tượng cần phải được quản lý có tên gọi  
là sự vận động hành lang (chủ nghĩa vận  
động hành lang).  
Từ giữa thế kỷ XIX, các nhà chính trị và  
xã hội học đã bắt đầu quan tâm đến vai trò  
* Giáo sư, Tiến sĩ, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội  
Việt Nam  
Số 04 - 2021  
Khoa học Kiểm sát  
3
VN ĐỘNG HÀNH LANG: NHÌN TỪ CHÍNH SÁCH PHÁP LUT  
đầy đủ và đúng đắn các nhu cầu, lợi ích đó. ra bằng cách sử dụng các cơ chế của các cơ  
Trong một đất nước cụ thể, các nhóm đó có quan nhà nước.  
số lượng từ vài chục cho đến vài nghìn.  
Trong số các nhóm lợi ích có tổ chức, các  
Sự đa dạng các nhu cầu, lợi ích là bộ phận Đảng chính trị nổi lên nhờ có hoạt động tích  
cấu thành không thể thiếu được của dân cực của mình. Mục tiêu cơ bản của các Đảng  
chủ. Trong xã hội có một số nhóm lợi ích tự chính trị là đấu tranh giành lấy quyền lực ở  
tất cả mọi cấp độ của cơ cấu nhà nước, trong  
khi các nhóm lợi ích có tổ chức khác phần  
lớn không đặt ra nhiệm vụ như vậy. Thông  
thường, các nhóm lợi ích có tổ chức hoạt  
động vì các lợi ích tập thể của mình, mà trước  
hết vì các lợi ích kinh tế. Cho dù đôi khi các  
nhóm lợi ích có tổ chức cũng khẳng định ủng  
hộ dưới nhiều hình thức khác nhau những  
người ứng cử này hay những người ứng cử  
khác trong các cuộc bầu cử, nhưng các nhóm  
như vậy làm việc đó một cách không công  
khai mà dưới hình thức được che đậy nào  
đó. Các nhóm lợi ích như vậy tiến hành hoạt  
động của mình cùng với và song hành với  
các đảng chính trị, tập trung vào những lĩnh  
vực xã hội mà các đảng chính trị hoặc ít hoặc  
không quan tâm. Trong sách báo, các nhóm  
lợi ích có tổ chức nhiều khi còn được gọi là  
“các nhóm quan tâm”.  
Các nhóm lợi ích có tổ chức có những chức  
năng cơ bản như thế nào? Một số tác giả cho  
rằng, các nhóm lợi ích có tổ chức có ảnh  
hưởng tiêu cực đến chính sách, pháp luật  
của Nhà nước. Ngược lại, các tác giả khác  
quan niệm rằng, các nhóm đó là một bộ phận  
có lợi và tất yếu của hệ thống dân chủ. Trong  
hiện thực, chúng tôi cho rằng, các nhóm lợi  
ích có tổ chức thực hiện ít nhất bốn chức  
năng tích cực sau:  
mình không thể hoặc là rất khó được tổ chức,  
thiết lập (ví dụ, nhóm lợi ích của trẻ em, của  
những người mắc bệnh hiểm nghèo). Một  
số nhóm lợi ích khác thì chỉ mới được hình  
thành hoặc bắt đầu giải thể. Chỉ có các nhóm  
lợi ích đã có tổ chức mới có tác động hiệu quả  
đến sự hình thành chính sách, pháp luật của  
Nhà nước. Việc làm sáng tỏ và cân nhắc các  
đặc điểm hoạt động của các nhóm lợi ích có  
tổ chức tạo thành một yếu tố rất quan trọng  
của quản lý dân sự, cũng như của quản lý  
nhà nước, trong đó có công vụ.  
Các nhóm lợi ích có tổ chức là các cộng  
đồng xã hội (các liên minh xã hội) được thiết  
lập nên để làm thoả mãn một cách tích cực  
các lợi ích riêng của mình với sự hỗ trợ của  
sự tác động có định hướng mục đích đến các  
cơ quan nhà nước hoặc đến những người  
có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan  
đó. Theo cấu thành của mình, các nhóm lợi  
ích có tổ chức thường có số lượng rất đông,  
nhưng đôi khi cũng có số lượng không lớn.  
Mục tiêu cơ bản của các nhóm như vậy là  
bảo vệ một cách có tổ chức các lợi ích tập thể  
(lợi ích nhóm) của mình trong quan hệ lẫn  
nhau với Nhà nước hoặc với các nhóm xã  
hội khác. Ví dụ, ở nhiều nước hiện nay các  
nhóm lợi ích có tổ chức có ảnh hưởng lớn  
nhất là liên minh các nhà chính trị, các nhà  
doanh nghiệp, các nhà băng (ngân hàng), các  
nhà quản lý, các giáo viên, các bác sỹ, các nhà  
nông nghiệp, các nhà công nghệ, cũng như  
các công đoàn.  
i. Là cầu nối giữa dân cư và Nhà nước,  
giữa cá nhân và các cơ quan nhà nước; hoạt  
động của các nhóm đó hỗ trợ cho những  
người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ  
quan nhà nước làm sáng tỏ được những tâm  
trạng và quan điểm xã hội cần được quan  
tâm khi ra quyết định;  
Thông thường, các nhóm lợi ích có tổ  
chức có ba dấu hiệu. Thứ nhất, phần lớn các  
nhóm đó là các yếu tố của xã hội công dân,  
và do vậy, về cơ bản, chúng có bản chất xã  
ii. Thúc đẩy tính tích cực của dân cư  
hội (tự hoạt động). Thứ hai, các liên minh đó trong đời sống chính trị; truyền đạt cho các  
thể hiện tính chất quản lý rất rõ ràng, được thành viên của mình về các quyết định của  
thiết lập ra để liên kết và phối hợp các nỗ lực Nhà nước đã được thông qua hoặc đang  
dựa trên cơ sở các nhu cầu, lợi ích xã hội cụ được soạn thảo, giải thích cho các thành viên  
thể. Thứ ba, thông thường, các nhóm lợi ích của mình và những người khác biết rằng  
đó bảo vệ các lợi ích xã hội cụ thể được đặt làm như thế nào để có thể tác động đến việc  
4
Khoa học Kiểm sát  
Số 04 - 2021  
VÕ KHÁNH VINH  
thông qua các quyết định đó và thúc đẩy sự  
tác động đó;  
Các nhóm lợi ích có tổ chức, thông  
thường, được phân thành hai phạm trù: Các  
nhóm lợi ích xã hội và các nhóm lợi ích đặc  
thù. Các nhóm lợi ích xã hội có tổ chức đó  
là các liên minh công khai đối với tất cả mọi  
người. Các nhóm đó đại diện cho những  
lợi ích rộng lớn, nhiều phương diện, không  
mang tính chất kinh doanh của mọi người từ  
các giai cấp và tầng lớp rất khác nhau trong  
xã hội. Chẳng hạn, đó là các tổ chức bảo vệ  
môi trường, các hiệp hội bảo vệ người tiêu  
dùng… Thông thường, các nhóm như vậy ở  
trong tình trạng không được thuận lợi. Việc  
cung cấp tài chính cho các nhóm đó hoạt  
động là rất hạn chế bởi dựa vào cơ sở xã hội  
đó khó làm cho mọi người quan tâm để có  
đóng góp tài chính đáng kể. Do đó, những  
người làm việc trong các nhóm như vậy  
được trả lương rất thấp và điều đó làm cho  
cán bộ hay bị lưu động nhất. Thông thường,  
các nhóm này có sự tác động không đáng kể  
đến các cơ quan nhà nước, cho dù trong một  
số trường hợp các nhóm đó cũng đạt được  
những kết quả trông thấy.  
Các nhóm lợi ích đặc thù có tổ chức là  
các liên minh của những người thuộc các  
nhóm xã hội nhất định (những người sản  
xuất, kinh doanh, những công chức, các bác  
sỹ, các nhà giáo, các cựu chiến binh…). Các  
nhóm này bao gồm các tổ chức công sở, công  
nhân, nghề nghiệp, dân tộc và các tổ chức có  
mục đích khác. Liên minh các nhà chính trị  
và các nhà kinh doanh là các liên minh có số  
lượng thành viên đông và có sự ảnh hưởng  
lớn nhất. Các nhóm lợi ích đặc thù có tổ chức  
ở trong tình trạng thuận lợi hơn so với các  
nhóm lợi ích xã hội có tổ chức do họ được  
cung cấp đầy đủ tài chính và nhiều khi có cơ  
sở, phương tiện làm việc rất sang trọng. Các  
nhóm đó có bộ máy ổn định và có trình độ  
nghề nghiệp cao, có khả năng giải quyết một  
cách nhanh chóng và có thẩm quyền tất cả  
những vấn đề nảy sinh. Ngoài ra, trong điều  
kiện hiện nay, hầu như tất cả các nhóm thuộc  
phạm trù đó đều có các trung tâm nghiên  
cứu có chuyên môn với chức năng bảo đảm  
về mặt khoa học cho các chương trình, kế  
iii. Bổ sung cho đại diện chính thức;  
iv. Là phương tiện quan trọng để giải  
quyết các xung đột trong xã hội bởi các nhóm  
đó hỗ trợ cho việc soạn thảo các thương  
thuyết và thoả hiệp cần thiết.  
Trước đây, ở các nước xã hội chủ nghĩa,  
người ta hoàn toàn coi thường và thậm chí  
phủ nhận sự tồn tại của các nhóm lợi ích có  
tổ chức, và do vậy, chính khái niệm đó bị gạt  
bỏ như là khái niệm không khoa học, mâu  
thuẫn với lý luận giai cấp. Tuy vậy, trên thực  
tế hai cách tiếp cận đó (tiếp cận giai cấp và  
tiếp cận nhóm có tổ chức) không phải có tính  
chất loại trừ nhau mà là bổ sung cho nhau  
bởi chúng đều xem xét, nghiên cứu các cấp  
độ, lát cắt khác nhau của tổ chức xã hội.  
Với tư cách là một hiện tượng xã hội, các  
nhóm lợi ích có tổ chức đã được biết đến từ  
lâu nhưng chúng phát triển phổ biến nhất  
trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát  
triển và xã hội công dân chín muồi từ giữa  
thế kỷ XX. Hoàn toàn rõ ràng rằng, các nhóm  
đó là sản phẩm của hệ thống kinh tế tự do  
và của hệ thống chính trị - xã hội đa nguyên.  
Sự xuất hiện nhiều nhóm lợi ích có tổ chức  
không tách rời với sự hình thành và phát  
triển các giai cấp cơ bản của xã hội tư bản  
và với sự tiếp tục phân hoá các giai cấp đó  
thành các nhóm nhỏ hơn cùng với các lợi  
ích kinh tế, nghề nghiệp và các lợi ích khác  
của mình. Chính các nhóm lợi ích có tổ chức  
được thiết lập ra để bảo đảm về mặt chính trị  
cho các giai cấp đó.  
Vì sao mọi người lại hợp nhất lại thành các  
nhóm lợi ích? Có nhiều lý do khác nhau làm  
cho người ta thiết lập ra hoặc tham gia các  
nhóm đó. Một số người thành lập và tham  
gia các nhóm đó vì có sự quan tâm đến các  
vấn đề chính trị, quản lý này hay các vấn  
đề chính trị, quản lý khác; những người  
khác tham gia những nhóm đó do có sự  
ảnh hưởng, tác động của các lợi ích kinh tế  
của mình; nhóm người thứ ba trở thành các  
thành viên của các liên minh đó vì các lý do  
xã hội để tỏ rõ sự đồng tình, tình đoàn kết.  
Cuối cùng, một số người buộc phải tham gia hoạch nhà nước đang được chuẩn bị và đang  
các nhóm đó để không mất việc làm.  
được thực hiện.  
Số 04 - 2021  
Khoa học Kiểm sát  
5
VN ĐỘNG HÀNH LANG: NHÌN TỪ CHÍNH SÁCH PHÁP LUT  
Các nhóm vận động hành lang (các nhóm gây lợi ích của dân cư) và Nhà nước, bảo vệ lợi  
áp lực) là gì? Các nhóm lợi ích có tổ chức và các ích của các nhóm dân cư được tổ chức trong  
các cơ quan nhà nước.  
nhóm vận động hành lang (các nhóm gây áp lực)  
có cơ chế tác động với nhau như thế nào?  
2. Vai trò của các nhóm vận động hành  
lang (các nhóm gây áp lực) đối với việc thực  
hiện các lợi ích của xã hội  
Các nhóm vận động hành lang (các nhóm  
gây áp lực) có các chức năng cơ bản như  
thế nào? Trong sách báo có các cách trả lời  
khác nhau về vấn đề đó. Nhưng nếu tách ra  
những chức năng cơ bản thì có thể nêu ra 05  
chức năng của các nhóm vận động hành lang  
(các nhóm gây áp lực) như sau:  
i. Chuyển tải các tâm trạng và đòi hỏi  
của dân cư đến với các cơ quan nhà nước,  
những người có chức vụ, quyền hạn trong  
các cơ quan nhà nước;  
ii. Tác động đến quá trình làm luật không  
chỉ bằng việc phê phán hoặc ủng hộ các dự  
án luật mà thường bằng việc tham gia trực  
tiếp vào việc soạn thảo và “thúc đẩy” các  
luật này hay các luật khác;  
iii. Góp phần tuyển chọn các chuyên gia  
thẩm định, phản biện và các chuyên gia khác  
cho các cơ quan nhà nước, lôi kéo các nhà  
chuyên nghiệp có trình độ cao theo định  
Theo cấu thành của mình, các nhóm lợi  
ích có tổ chức thường có số lượng rất đông  
và do đó tự mình cũng không trực tiếp tác  
động, ảnh hưởng đến các cơ quan nhà nước.  
Ở đây chỉ loại trừ các hình thức đấu tranh vì  
các lợi ích của mình như mít tinh, tuần hành,  
biểu tình, đình công được diễn ra trong  
những trường hợp đặc biệt. Những hình  
thức đó sẽ được xem xét một cách cụ thể,  
đầy đủ hơn. Thông thường, các nhóm lợi ích  
có tổ chức thành lập ra các nhóm gây áp lực  
(hoặc thuê mướn để sử dụng các nhóm vận  
động hành lang) với tư cách là cơ chế phổ  
biến nhất để thực hiện sự tác động đến tất  
cả các nhóm và cấp độ quyền lực nhà nước.  
Như vậy, các nhóm gây áp lực là các cơ cấu  
quản lý có số lượng không lớn do các nhóm hướng xã hội đối với mình;  
lợi ích có tổ chức thành lập ra để đại diện và  
bảo vệ lợi ích của họ trong các cơ quan quyền  
lực nhà nước. Trong thời gian gần đây, các  
nhóm đó thường được gọi là “các nhóm vận  
động hành lang”, do vậy, quá trình gây áp  
lực được gọi là “sự vận động hành lang”.  
Thuật ngữ “vận động hành lang” (xuất  
phát từ tiếng Anh là Lobby - khu vực đi  
dạo có mái che, hành lang) vào thời Trung  
cổ được sử dụng để nói về khu vực đi dạo  
trong tu viện. Cuối thế kỷ XVI, thuật ngữ  
đó được dùng để gọi là nơi để đi dạo trong  
Nghị viện Anh. Đến cuối thế kỷ XVIII, thuật  
ngữ “vận động hành lang” được gọi là việc  
mua các lá phiếu bầu cử bằng tiền trong các  
hành lang của Nghị viện Mỹ. Hiện nay, “vận  
động hành lang” - đó là các nhóm gây áp lực  
(các nhóm vận động hành lang) do các nhóm  
lợi ích có tổ chức thành lập ra để đại diện cho  
các nhóm lợi ích, trong đó có các cơ quan nhà  
nước để tác động đến chính sách, pháp luật  
của Nhà nước theo hướng có lợi cho họ. Các  
nhóm vận động hành lang (hoặc các nhóm  
iv. Duy trì sự phối hợp cần thiết với các cơ  
quan nhà nước trong việc soạn thảo và thông  
qua các chương trình, chính sách, pháp luật  
của Nhà nước;  
v. Ủng hộ các cơ quan nhà nước trong  
việc vận động dân cư thực hiện các đạo luật  
và các chương trình, các cuộc vận động của  
Nhà nước.  
Một số nước đã ban hành các đạo luật  
hợp pháp hoá và điều chỉnh việc vận động  
hành lang. Ví dụ, ở Mỹ các đạo luật như vậy  
đã được ban hành ở tất cả các bang. Các đạo  
luật đó quy định việc đăng ký đối với những  
người vận động hành lang và những người  
phục vụ cho những người vận động hành  
lang, trong nhiều trường hợp quy định việc  
báo cáo về kinh phí cho việc vận động hành  
lang. Sự quan tâm của các đạo luật đó không  
phải hướng đến việc quy định các biện pháp  
cấm khác nhau mà là hướng đến để tháo bỏ  
màn che bí mật của chính quá trình vận động  
hành lang. Điều đó được thực hiện dựa vào  
sự tin tưởng rằng, thông tin về hoạt động  
gây áp lực) là những người trung gian giữa của các nhóm vận động hành lang sẽ được  
xã hội công dân (xã hội được tổ chức theo các xã hội phân tích trước khi các nhà làm luật,  
6
Khoa học Kiểm sát  
Số 04 - 2021  
VÕ KHÁNH VINH  
những người có chức vụ, quyền hạn khác của mình dựa trên cơ sở các khả năng, đặc  
thông qua các quyết định chính trị, quản lý điểm và thuộc tính của mình.  
quan trọng. Rất lý thú là chính các đạo luật  
về phụ nữ trong mối quan hệ với sự vận  
động hành lang lại được thông qua ở những  
nơi các nhóm lợi ích có tổ chức rất yếu, còn  
các đạo luật ôn hoà lại được thông qua ở nơi  
có sự lạm dụng một cách nghiêm trọng từ  
phía những người vận động hành lang.  
Như vậy, tương ứng với việc có nhiều  
nhóm lợi ích thì có nhiều nhóm vận động  
hành lang. Các nhóm vận động hành lang  
(các nhóm gây áp lực) có thể được phân  
thành các loại khác nhau. Các nhóm vận  
động hành lang (các nhóm gây áp lực) có thể  
được phân thành hai bộ phận: Các nhóm vận  
Trong thời gian gần đây, trong sách báo động hành lang hợp pháp (các nhóm gây áp  
nước ngoài, người ta quan tâm đặc biệt đến lực hợp pháp) và các nhóm vận động hành  
việc “chuyên nghiệp hoá” những người vận lang không hợp pháp (các nhóm gây áp lực  
động hành lang. Hình dáng trước đây của không hợp pháp). Các nhóm vận động hành  
những người vận động hành lang với tư lang hợp pháp là các nhóm gây áp lực mà  
cách là “những người thông minh nhỏ bé” hoạt động của chúng được ghi nhận trong  
đã đi vào quá khứ do có sự xuất hiện những các văn bản quy phạm pháp luật. Ngược lại,  
người vận động hành lang chuyên nghiệp các nhóm vận động hành lang không hợp  
là các luật gia. Thông thường, những người pháp hoạt động một cách tự phát, không có  
vận động hành lang được phân biệt với nhau cơ sở quy phạm (tất nhiên, trong số đó có các  
theo mô hình hoạt động và các nghĩa vụ nhóm tội phạm). Các nhà nghiên cứu Mỹ là  
phải thực hiện, được những người có chức K. Tomas và R. Khrebinar đã phân các nhóm  
vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước vận động hành lang hợp pháp (các nhóm  
tiếp nhận khác nhau và đại diện cho các loại gây áp lực hợp pháp) thành 03 nhóm người  
nhóm lợi ích xã hội có tổ chức khác nhau. vận động hành lang1. Có thể đưa ra sơ đồ  
Trong thực tiễn, mỗi người vận động hành phân loại về các nhóm người vận động hành  
lang đều xây dựng chiến lược và chiến thuật lang như sau:  
1. Politics in America State, 5th edit, New York, 1990.  
Số 04 - 2021  
Khoa học Kiểm sát  
7
VN ĐỘNG HÀNH LANG: NHÌN TỪ CHÍNH SÁCH PHÁP LUT  
Những người vận động hành lang bên và xác thực. Nhưng ngoài thuộc tính chung  
trong là những công chức, viên chức làm đó, từng loại người vận động hành lang  
việc trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau trong số ba loại cơ bản nói trên đều áp dụng  
của Nhà nước và cơ bản trong các lĩnh vực các chiến lược và phương pháp tác động  
hoạt động không mang tính nhà nước, họ khác nhau. Chẳng hạn, để đạt được kết quả  
đại diện cho lợi ích của các lĩnh vực đó trong  
các cơ cấu khác nhau của Nhà nước. Từ giữa  
thế kỷ XIX đến nay, những người vận động  
hàng lang “bên trong” có số lượng lớn và  
những người có ảnh hưởng, tác động lớn  
nhất là những nhà doanh nghiệp và những  
nhà chính trị. Họ là những người nhận thức  
được nhu cầu trong việc thiết lập sự hợp tác  
thường xuyên với những người có chức vụ,  
quyền hạn, có thẩm quyền trong việc đưa ra  
các quyết định. Với mong muốn làm giảm  
thái độ tiêu cực đối với hoạt động của mình,  
những người vận động hành lang “bên  
trong” (những người gây áp lực bên trong)  
thường gọi mình là “những người có trách  
nhiệm vì các mối liên hệ” với các cơ quan  
hành pháp hoặc lập pháp.  
Những người vận động hành lang - tình  
nguyện là những người từ những công dân  
bình thường. Thông thường, đó là một yếu  
tố không lớn, không có ảnh hưởng lớn của  
hoạt động vận động hành lang. Họ thường  
đại diện cho các nhóm lợi ích không lớn  
và không mạnh (thường là có ý nghĩa địa  
phương) hoặc cho các tổ chức nhỏ không  
mang tính kinh doanh. Những người vận  
động hành lang - tình nguyện làm việc  
theo các nguyên tắc xã hội, còn nếu như họ  
được trả lương thì mức lương rất khiêm  
tốn, họ không có mong muốn là được tặng  
thưởng tiền mà là vì lòng trung thành với  
công việc.  
những người vận động hành lang - những  
người hợp đồng không đặt ra nhiệm vụ cơ  
bản là đưa ra thông tin về những vấn đề cụ  
thể và đưa ra kết luận của các chuyên gia mà  
là đưa ra hiểu biết riêng về hệ thống chính  
trị và các mối liên hệ cá nhân với những  
người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ  
quan nhà nước. Đối với những người vận  
động hành lang “bên trong” thì nhiệm vụ  
cơ bản là nghiên cứu kỹ càng vấn đề mà họ  
cần tiến hành vận động hành lang. Những  
người vận động hành lang - tình nguyện  
thường dựa vào sự lập luận mang tính đạo  
đức và sự phát triển tự phát của các sự kiện.  
Do đó, trong điều kiện hiện nay, chủ  
nghĩa vận động hành lang nói chung đã trở  
nên đa dạng và chuyên nghiệp hơn. Những  
xu hướng, chỉ số sau đây nói về tính chuyên  
nghiệp của nó: 1) Số lượng những người  
có công việc chính là vận động hành lang  
ngày càng phát triển; 2) Xuất hiện các công  
ty vận động hành lang cung cấp đầy đủ các  
dịch vụ và đại diện cho các khách hàng rất  
đa dạng; 3) Tăng cường sự chuyên môn  
hoá của những người vận động hành lang -  
hợp đồng phù hợp với sự phức tạp hoá quá  
trình quản lý. Người vận động hành lang  
kiểu mới là người được đào tạo có kiến thức  
rộng lớn, được chuẩn bị mang tính chuyên  
nghiệp. Các nghiên cứu ở nước ngoài cho  
thấy, trong số những người vận động hành  
lang thường gặp là phụ nữ.  
Những người vận động hành lang - hợp  
đồng là những người làm việc theo hợp  
đồng. Đôi khi người ta gọi họ là “những  
người làm thuê”. Chính họ là những người  
có trình độ nghề nghiệp cao, có mối liên hệ  
đáng kể đến việc thông qua các quyết định  
cần thiết.  
Về chiến thuật của chủ nghĩa vận động  
hành lang hiện nay, tất cả các nhà nghiên  
cứu nước ngoài chỉ rõ rằng các nhóm lợi  
ích có tổ chức và các nhóm vận động hành  
lang (các nhóm gây áp lực) của họ, ngoài  
công việc mang tính truyền thống với các  
cơ quan lập pháp và với các bộ máy của các  
Ba loại người vận động hành lang đó cơ quan đó, ngày càng quan tâm nhiều hơn  
đều mong muốn bảo vệ danh tiếng của đến các cơ quan hành pháp, tư pháp và các  
mình là những người trung thực, đáng tin bộ máy của các cơ quan đó ở tất cả các cấp  
cậy và đúng đắn khi đưa ra thông tin có lợi quản lý nhà nước.  
8
Khoa học Kiểm sát  
Số 04 - 2021  
VÕ KHÁNH VINH  
Các nhóm vận động hành lang (các nhóm những giải thích các đạo luật đó do các cơ  
gây áp lực) có các hướng ảnh hưởng cơ bản như quan nhà nước đưa ra, chuyển vụ việc cho  
Toà án xem xét trong trường hợp cần thiết.  
Ở các hệ thống chính trị phát triển, sự tác  
động lẫn nhau giữa các nhóm lợi ích có tổ  
chức, các đảng chính trị, các nhóm vận động  
hành lang (các nhóm gây áp lực) và các cơ  
quan nhà nước mang tính chất phức tạp,  
nhưng hoàn toàn được giám sát. Các nhóm  
lợi ích có tổ chức thành lập ra các nhóm vận  
động hành lang (các nhóm gây áp lực), đưa  
các lợi ích “cương lĩnh” và “đặc thù” của  
mình đến với các đảng chính trị và các nhóm  
vận động hành lang (các nhóm gây áp lực).  
thế nào đến các cơ quan nhà nước, trong đó có  
công vụ? Thông thường, các nhóm vận động  
hành lang (các nhóm gây áp lực) tác động  
đến chính sách của Nhà nước theo 05 hướng  
sau: Thứ nhất, các nhóm đó tác động đến dư  
luận xã hội, sử dụng hệ thống phương tiện  
thông tin đại chúng để tuyên truyền, phổ  
biến các mục tiêu và chương trình của mình  
đối với dân cư. Thứ hai, những người vận  
động hành lang mong muốn tác động đến  
kết quả của cuộc bầu cử bằng cách cung  
cấp tài chính cho các đảng chính trị, các  
khối, các liên minh, những người ứng cử Các đảng chính trị và các vận động hành  
độc lập hoặc cho các hình thức cạnh tranh lang (các nhóm gây áp lực) tổng kết, tập  
khác trước bầu cử. Thứ ba, các nhóm đó ảnh hợp các đòi hỏi đó, đưa chúng vào trong các  
hưởng đến nội dung cương lĩnh, chương chương trình chung và vận động sự ủng hộ  
đối với các đòi hỏi đó. Các cơ quan nhà nước  
chuyển tải các đòi hỏi đó vào trong chính  
sách của Nhà nước và các đạo luật, sau đó tổ  
chức thực hiện chính sách và các đạo luật đó  
(xem sơ đồ dưới đây). Nhờ có cơ chế tác động  
lẫn nhau như vậy mà bảo đảm được sự tham  
gia rộng rãi của toàn bộ xã hội vào việc hình  
thành chính sách, pháp luật của Nhà nước.  
Trong một số trường hợp, các nhóm lợi  
ích có tổ chức và các nhóm vận động hành  
lang (các nhóm gây áp lực) trùng hợp với  
nhau. Ví dụ, trong các xã hội cực quyền, nơi  
trình hành động của các đảng chính trị,  
phát biểu ở những diễn đàn khác nhau của  
các đảng đó hoặc tiếp xúc với những người  
ứng cử của họ. Thứ tư, họ thường xuyên và  
liên tục tập trung sự nỗ lực của mình đến  
các cơ quan lập pháp, tham dự để nghe báo  
cáo về các dự án luật ở các ủy ban chuyên  
trách của Nghị viện, thiết lập các mối quan  
hệ với các đại biểu và những cán bộ, công  
chức, viên chức nhà nước. Thứ năm, những  
người vận động hành lang cố gắng giám sát  
các đạo luật đã được thông qua, hợp tác với  
các cán bộ của các cơ quan nhà nước khác các nhóm gây áp lực (các nhóm lợi ích có tổ  
nhau hoặc tranh luận về tính đúng đắn của chức) được tập trung hầu như chỉ bên trong  
Số 04 - 2021  
Khoa học Kiểm sát  
9
VN ĐỘNG HÀNH LANG: NHÌN TỪ CHÍNH SÁCH PHÁP LUT  
hệ thống quản lý nhà nước và đại diện cho động hành lang đòi hỏi các nhà chính trị và  
các cơ quan nhà nước được tách ra một cách các doanh nghiệp thành lập các tổ chức phân  
tương đối - các cơ quan cạnh tranh với nhau tích khoa học, thông tin và thẩm định riêng,  
độc lập với Nhà nước. Mạng lưới thông tin do  
các tổ chức đó thành lập để thu thập và tổng  
hợp các thông tin có lợi, bao gồm cơ sở dữ liệu  
máy tính và ngân hàng số liệu, việc tác động  
lẫn nhau thường xuyên với các phương tiện  
thông tin đại chúng, cũng như một đội ngũ  
cán bộ rộng lớn làm công tác thông tin của  
các bộ, ngành khác nhau đã và đang đưa ra  
những thông tin dự báo có giá trị.  
Hiện nay, ở nước ta đang từng bước hình  
thành hai nhóm vận động hành lang (nhóm  
gây áp lực) bảo đảm lợi ích của các nhà quản  
lý và doanh nghiệp:  
trong các lĩnh vực lợi ích tiếp giáp hoặc các  
tiểu nhóm đồng hương, đẳng cấp, dân tộc  
và các tiểu nhóm khác của các cơ cấu quyền  
lực. Cuộc cạnh tranh tranh giành của họ đối  
với các nguồn lực và các đặc quyền, đặc lợi  
mang tính quy chế thường được diễn ra một  
cách ngấm ngầm và không công khai, các mối  
liên hệ cá nhân với những nhân vật chủ chốt  
thường được sử dụng. Kết quả của cuộc cạnh  
tranh đó là sự phân chia lại sự ảnh hưởng và  
các vị trí chức vụ cán bộ hành pháp của các  
nhóm gây áp lực. Sự tham gia vào các quá  
trình như vậy gắn liền với sự gia tăng rủi ro  
đối với bên chiến thắng, trong đó có khả năng  
đàn áp. Tất cả điều đó dẫn đến tính khép kín,  
sự bí mật tối đa, tính không vững chắc và tính  
định của các nhóm như vậy.  
- Các bộ phận có biên chế nhỏ trong cơ  
cấu các cơ quan nhà nước, các tập đoàn, tổng  
công ty (các trung tâm nghiên cứu, thông tin  
hoặc tư vấn, các nhóm tư vấn, chuyên gia về  
các mối liên hệ xã hội...);  
Các nhóm lợi ích có tổ chức thực hiện sự  
tác động, gây áp lực đến các cơ quan nhà nước  
cả trong một số trường hợp khác: Ở các trạng  
thái chuyển đổi lúc các nhóm đó được thành  
lập hoặc đã bị giải tán, cũng như trong mọi  
tình huống khi các nhóm đó không thể được  
cung cấp tài chính (hoặc trả lương cho những  
người làm công) cho các nhóm gây áp lực.  
3. Vấn đề hình thành các mối quan hệ  
có lợi lẫn nhau giữa Nhà nước và xã hội  
Ở nước ta hiện nay, việc tìm kiếm các  
hình thức quản lý xã hội và quản lý Nhà  
nước có hiệu quả đang được tiến hành một  
cách tích cực. Với mục đích đó các nhóm lợi  
ích có tổ chức khác nhau được thành lập và  
ở một phương diện nào đó từ khi mới được  
thành lập các nhóm đó tự mình hoặc trực  
tiếp thể hiện với tư cách là các nhóm gây áp  
lực trong quan hệ lẫn nhau với Nhà nước.  
Tất cả các giai cấp, giai tầng và tầng lớp ở  
mức độ này hay mức độ khác đều tham gia  
vào hoạt động đó. Tuy nhiên ở đây, các nhà  
doanh nghiệp Việt Nam đã đạt được những  
kết quả lớn nhất. Trong quá trình đổi mới  
vừa qua, có nhiều nhóm lợi ích có tổ chức của  
giới doanh nghiệp đã được thành lập (Hội  
các doanh nghiệp, Hội các doanh nghiệp trẻ,  
Hội giày da, Hội may mặc…).  
- Những người tư vấn và thẩm định ngoài  
biên chế, họ là những cộng tác viên khoa học.  
Cơ chế hoạt động vận động hành lang  
đang được hình thành tạo điều kiện cho các  
nhà quản lý và doanh nghiệp có tổ chức có  
ảnh hưởng, tác động một cách hiệu quả đến  
việc ra quyết định của các cơ quan quyền  
lực nhà nước. Các nhà quản lý và doanh  
nghiệp có tổ chức thường sử dụng các hình  
thức vận động hành lang sau đây: Tiếp xúc  
cá nhân với những người có chức vụ, quyền  
hạn trong các cơ quan nhà nước (với những  
người lãnh đạo và với những công chức nhà  
nước); tham gia phiên họp của các cơ quan  
nhà nước; làm việc trong các nhóm thẩm  
định của các cơ quan nhà nước; nghe báo  
cáo các dự án luật; tác động thông qua dư  
luận xã hội và các phương tiện thông tin đại  
chúng; tham gia xây dựng các bản báo cáo  
của các cơ quan quản lý và kinh doanh đối  
với các cơ quan nhà nước; gặp gỡ với những  
nhà lãnh đạo cấp cao của Nhà nước.  
Trên thực tế, chủ nghĩa vận động hành  
lang bắt đầu được các cơ quan nhà nước sử  
dụng rộng rãi và có hiệu quả hơn.  
Trong số các nhóm vận động hành lang  
hợp pháp (các nhóm gây áp lực hợp pháp)  
Nhu cầu giải quyết các nhiệm vụ vận đặc thù có các Hội đồng, Uỷ ban, Hiệp hội  
10 Khoa học Kiểm sát  
Số 04 - 2021  
VÕ KHÁNH VINH  
khác nhau và các tổ chức tương tự khác. Các cá nhân và gia đình, đe doạ trừng trị cán bộ  
cơ cấu đó được thành lập trong các cơ quan hoặc các thành viên gia đình của cán bộ…  
thuộc tất cả các phạm vi quyền lực và ở các Hoạt động của các nhóm tội phạm gây áp  
cấp quản lý nhà nước. Ví dụ, ở các bộ, các lực là cơ sở làm xuất hiện tham nhũng và các  
ngành, các hội đồng khoa học được thành cơ cấu maphia trong quản lý nhà nước.  
lập. Thông thường, các cơ cấu đó được tổ  
chức và hoạt động dựa vào các văn bản  
quy phạm pháp luật nào đó của Nhà nước,  
nhưng những người hoạt động chính trong  
các hội đồng đó là “những người hoạt động  
xã hội” (các nhà khoa học, các nhà quản lý -  
thực tiễn) làm việc dựa vào các nguyên tắc  
xã hội.  
Nếu như dựa vào việc phân loại đã được  
phân tích ở trên thì những cơ cấu nhà nước  
và quản lý bán nhà nước, kinh doanh nói  
trên là các cơ cấu vận động hành lang khác  
thuộc loại thứ hai, tức là những người vận  
động hành lang “bên trong”. Ở nước ta hiện  
nay những người vận động hành lang kiểu  
này đang được hình thành và có ảnh hưởng  
lớn.  
Ở nước ta có cả những người vận động  
hành lang – tình nguyện. Họ bảo vệ lợi ích  
của những nhóm xã hội khác nhau có tổ  
chức nhỏ. Nhưng sự ảnh hưởng của họ đến  
các cơ quan nhà nước, cũng giống như ở các  
nước khác là không đáng kể.  
Nói về những người vận động hành  
lang - hợp đồng (“những người làm thuê”)  
thì hiện nay ở nước ta nhóm vận động hành  
lang này chưa có bởi chưa có cơ sở pháp luật  
tương ứng cho hoạt động của họ. Nếu như  
có quy định pháp luật cho loại hoạt động đó  
thì các nhóm vận động hành lang (các nhóm  
gây áp lực) được hình thành trên cơ sở hợp  
đồng sẽ trở thành hiện thực ở nước ta.  
Trong số các nhóm gây áp lực bất hợp  
pháp (các nhóm vận động hành lang bất hợp  
pháp) thì các nhóm tội phạm có sử dụng  
sự mua chuộc và đe doạ có số lượng lớn  
và có ảnh hưởng nhất. Các hình thức mua  
chuộc các cán bộ, công chức nhà nước là rất  
Trong số các nhóm vận động hành lang  
bất hợp pháp (các nhóm gây áp lực bất hợp  
pháp), ngoài các nhóm tội phạm còn có cả  
các nhóm không phải là nhóm tội phạm.  
Thông thường, chúng có tổ chức yếu, hoạt  
động theo xung động, phần lớn mang tính  
chất cục bộ và nhằm giải quyết những vấn  
đề riêng nào đó. Ví dụ, “các nhóm sáng kiến”  
khác nhau có thể đấu tranh vì sự cải thiện  
dịch vụ giao thông, cung cấp nước, cung cấp  
điện…  
Như vậy, cho dù còn có nhiều hạn chế  
nhưng cơ chế hoạt động vận động hành lang  
đang được hình thành của các nhà quản lý,  
các nhà kinh doanh, của các cơ quan thuộc  
quyền hành pháp, của các cơ cấu khác nhau  
bên cạnh Nhà nước đã được vận hành. Cho  
dù chưa có luật để trật tự hoá hoạt động của  
tất cả các nhóm lợi ích đó, nhưng đã có thực  
tiễn hoạt động vận động hành lang. Thực  
tiễn đó do nhiều nhóm vận động hành lang  
tạo ra và các nhóm đó thực hiện một cách  
có hiệu quả các nhiệm vụ của mình trong  
các cơ quan quyền lực nhà nước. Chủ nghĩa  
vận động hành lang với tư cách là một hiện  
tượng quản lý đã bắt đầu được hình thành  
ở nước ta. Nhiệm vụ ở chỗ là làm sao để các  
hình thức hợp pháp của nó phải được đặt  
trên cơ sở pháp luật và ngược lại phải tăng  
cường đấu tranh bằng pháp luật với các hình  
thức phạm tội, bất hợp pháp.  
Tất cả những điều nói trên cho phép kết  
luận rằng, các tổ chức xã hội ở Việt Nam hiện  
đang ở trong quá trình hình thành và phát  
triển mạnh mẽ. Theo mức độ hình thành và  
phát triển các tổ chức đó ngày càng thể hiện  
rõ hơn về mình và điều đó được thể hiện,  
một mặt, trong các hoạt động đối trọng khác  
đa dạng: Đưa hối lộ một lần, trả tiền hàng nhau của các nhóm lợi ích có tổ chức phản  
tháng, quà tặng, cho vay tiền, dịch vụ, trả ứng lại các cơ quan quyền lực nhà nước; mặt  
tiền chữa bệnh, du lịch, các chi phí đi lại… khác, trong sự mong muốn hợp tác mang  
Sự đe doạ cũng có thể được thực hiện một tính chất xây dựng của phần lớn các nhóm  
cách khác nhau: Đe doạ làm ảnh hưởng đến đó với tất cả các cơ quan quyền lực nhà nước  
đường công danh, đe doạ sự bình yên của ở các cấp khác nhau.  
Số 04 - 2021  
Khoa học Kiểm sát 11  
VN ĐỘNG HÀNH LANG: NHÌN TỪ CHÍNH SÁCH PHÁP LUT  
4. Chính sách pháp luật về vận động và của công dân, xây dựng và phát triển nhà  
hành lang  
nước pháp quyền, hình thành và xây dựng  
xã hội pháp quyền, xây dựng và phát triển  
văn hoá pháp quyền và đời sống pháp luật  
của xã hội và của cá nhân. Chính sách pháp  
luật luận giải mục tiêu, quan điểm, nội dung,  
các phương tiện, các hình thức thực hiện, các  
Vận động hành lang là vấn đề của chính sách  
pháp luật  
Vấn đề đặt ra: Vận động hành lang có thể, có  
phải, cần phải là một vấn đề của chính sách pháp  
luật hay không?  
Trong các lĩnh vực khác nhau của đời loại và các cấp độ chính sách pháp luật.  
sống xã hội, có các loại chính sách khác nhau:  
Chính sách kinh tế, chính sách xã hội, chính  
sách văn hoá, chính sách môi trường, chính  
sách khoa học và công nghệ, chính sách giáo  
dục và đào tạo, chính sách dân tộc, chính sách  
tôn giáo, chính sách thanh thiếu niên, chính  
sách dân số, chính sách thông tin, chính sách  
quốc phòng, chính sách an ninh, chính sách  
đối ngoại, chính sách pháp luật và các loại  
chính sách khác. Chính sách pháp luật xuyên  
suốt các loại chính sách nói trên, là nền tảng  
pháp luật của các loại chính sách khác và là  
loại chính sách mà với sự trợ giúp của nó, tất  
cả các loại chính sách nói trên được đưa vào  
cuộc sống thông qua các phương tiện của  
chính sách pháp luật (chẳng hạn, thông qua  
các văn bản pháp luật và các phương tiện  
pháp luật khác).  
Chính sách pháp luật là chính sách trong  
lĩnh vực đời sống pháp luật, là hoạt động  
hướng đến nâng cao chất lượng đời sống  
pháp luật, là hoạt động thể hiện thái độ của  
các chủ thể của chính sách pháp luật đối  
với những vấn đề quan trọng nhất của phát  
triển đời sống pháp luật, đối với sự đổi mới  
những bộ phận quan trọng của nó, là hoạt  
động được thực hiện với sự trợ giúp của các  
phương tiện pháp luật, là hoạt động gắn liền  
với việc soạn thảo và thực hiện các tư tưởng,  
các quan điểm pháp luật mang tính chất  
chiến lược và sách lược, là hoạt động chủ  
yếu do các chủ thể trong đời sống chính trị  
và pháp luật của xã hội thực hiện.  
Mọi vấn đề nảy sinh trong quá trình phát  
triển xã hội có tính chất pháp lý, sớm hay  
muộn, đều trở thành vấn đề của chính sách  
pháp luật, tiếp đến, được pháp luật điều  
chỉnh. Chính sách pháp luật nói chung, vấn  
đề của chính sách pháp luật nói riêng hay  
nói cách khác, nhu cầu điều chỉnh pháp luật  
bao giờ cũng có trước pháp luật thực chứng.  
Nhu cầu điều chỉnh pháp luật nảy sinh một  
cách khách quan trong xã hội, trong tiến trình  
phát triển xã hội, được các chủ thể trong xã  
hội nhận thức, luận giải, trước hết, với tư  
cách là một vấn đề của chính sách pháp luật,  
tiếp đến, cụ thể hoá nội dung của nó trong  
chính sách pháp luật, sau đó được thể chế  
hoá thành pháp luật thực chứng.  
Theo logic đó, vận động hành lang với  
nhiều tư cách: Là một hiện tượng, là một quá  
trình, là một hoạt động, là một lĩnh vực, nảy  
sinh một cách khách quan trong đời sống xã  
hội, trong tiến trình phát triển xã hội, vừa  
độc lập, vừa gắn liền với các hiện tượng, quá  
trình, hoạt động, lĩnh vực khác của đời sống  
xã hội. Vận động hành lang, với tư cách như  
vậy, vừa mang tính chất chính trị, vừa mang  
tính chất xã hội, vừa mang tính chất quản  
lý, vừa mang tính chất pháp lý. Do đó, vận  
động hành lang là một vấn đề của chính sách  
pháp luật ở nước ta hiện nay.  
Mục tiêu của chính sách pháp luật về vận  
động hành lang  
Mục tiêu trong chính sách là kết quả lý  
tưởng, kết quả mong muốn mà vì nó hoạt  
động chính sách được thực hiện. Mục tiêu  
của chính sách pháp luật về vận động hành  
lang là định hướng quan trọng nhất đối với  
các nhà chính sách, định hướng bao quát các  
mong muốn, các mong đợi, các ý định đa cấp  
Chính sách pháp luật luận giải và đưa ra  
quan điểm về nhu cầu xây dựng cơ chế điều  
chỉnh pháp luật có hiệu quả nói chung, về  
nhu cầu xây dựng cơ chế điều chỉnh pháp  
luật cụ thể có hiệu quả nói riêng, sử dụng  
văn minh các phương tiện pháp luật để phát  
triển pháp luật nhằm bảo đảm, bảo vệ đầy  
đủ nhất các quyền và tự do của con người độ, phản ánh các nhu cầu và lợi ích đa dạng  
12 Khoa học Kiểm sát  
Số 04 - 2021  
VÕ KHÁNH VINH  
của họ2. Mục tiêu của chính sách pháp luật  
Nội dung của chính sách pháp luật về vận  
về vận động hành lang là xây dựng cơ chế động hành lang  
điều chỉnh pháp luật có hiệu quả, sử dụng  
văn minh các phương tiện pháp luật (thể chế  
hoá những vấn đề quan trọng, cơ bản) về  
vận động hành lang để công khai hoá, minh  
bạch hoá, hợp pháp hoá vận động hành lang,  
làm thoả mãn các lợi ích khác nhau đang tồn  
tại trong xã hội Việt Nam. Điều đó có nghĩa  
là mục tiêu của chính sách pháp luật về vận  
động hành lang là tạo ra cơ sở pháp luật đầy  
đủ cho vận động hành lang.  
Nội dung của chính sách pháp luật là xây  
dựng cơ chế điều chỉnh pháp luật có hiệu quả,  
sử dụng văn minh các phương tiện (công cụ)  
pháp luật để đạt được các mục tiêu đã được  
đề ra. Điều đó có nghĩa rằng, chính sách pháp  
luật bao trùm toàn bộ cơ chế điều chỉnh pháp  
luật và các bộ phận cấu thành cơ chế đó, bao  
quát toàn bộ đời sống pháp luật của xã hội  
và các lĩnh vực cụ thể của đời sống pháp luật  
(lĩnh vực xây dựng pháp luật, lĩnh vực áp  
dụng pháp luật, lĩnh vực giáo dục và đào tạo  
pháp luật, lĩnh vực ý thức pháp luật, lĩnh vực  
học thuật pháp lý, lĩnh vực hợp tác quốc tế và  
hội nhập về pháp luật và các lĩnh vực khác  
của đời sống pháp luật). Chính sách pháp  
luật sử dụng một cách văn minh, có trí tuệ  
các phương tiện pháp luật, tức là phát huy tối  
đa các tiềm năng, khả năng, vai trò, sứ mệnh,  
chức năng của các công cụ pháp luật để hiện  
thực hoá các mục tiêu đã được đề ra4.  
Từ nhận thức trên về nội dung của chính  
sách pháp luật nói chung, có thể khẳng định  
rằng, nội dung của chính sách pháp luật về  
vận động hành lang là xây dựng cơ chế điều  
chỉnh pháp luật về vận động hành lang và  
xây dựng các bộ phận cấu thành cơ chế đó,  
bao quát lĩnh vực pháp luật về vận động  
hành lang. Tiếp đến, nội dung của chính sách  
pháp luật về vận động hành lang thể hiện ở  
việc sử dụng một cách văn minh, có trí tuệ  
các phương tiện pháp luật để hiện thực hoá  
mục tiêu đã được đề ra.  
Quan điểm của chính sách pháp luật về vận  
động hành lang  
Chính sách pháp luật nói chung, chính  
sách pháp luật về vận động hành lang nói  
riêng bao gồm nhiều tầng, trong đó có tầng  
các quan điểm3. Quan điểm của chính sách  
pháp luật về vận động hành lang, về thực  
chất, là các nguyên tắc của chính sách pháp  
luật về vận động hành lang. Chính sách  
pháp luật về vận động hành lang bao gồm  
nhiều tầng, trong đó có tầng các quan điểm.  
Các quan điểm pháp luật về vận động hành  
lang là tầng sâu nhất của chính sách pháp  
luật về vận động hành lang. Chính sách  
pháp luật về vận động hành lang được xây  
dựng và thực hiện dựa trên các nguyên tắc  
nhất định. Chất lượng và hiệu quả của hoạt  
động xây dựng và thực hiện chính sách pháp  
luật về vận động hành lang ở chừng mực rất  
lớn tuỳ thuộc vào khả năng áp dụng một cách  
văn minh, thành thạo các nguyên tắc của các  
chủ thể chính sách pháp luật. Các nguyên  
tắc của chính sách pháp luật về vận động  
hành lang không chỉ là những định hướng  
đối với những người xây dựng và tổ chức  
thực hiện chính sách pháp luật về vận động  
hành lang mà còn là tiêu chuẩn đánh giá hoạt  
động của các chủ thể chính sách. Chính sách  
pháp luật về vận động hành lang cần phải  
dựa vào các nguyên tắc sau đây: i) Tính được  
lập luận khoa học; ii) Tính hệ thống; iii) Tính  
nhất quán; iv) Tính hướng đích; v) Dự báo;  
vi) Tính hiện thực.  
Các phương tiện thực hiện chính sách pháp  
luật về vận động hành lang  
Các phương tiện là một bộ phận cấu  
thành, một nội dung quan trọng của mọi  
chính sách. Phương tiện chính sách gắn liền  
chặt chẽ với mục tiêu và nội dung của chính  
sách. Các phương tiện trong chính sách là các  
công cụ và kỹ thuật học được sử dụng để thực  
hiện các ý tưởng chính sách, biến các mong  
muốn mang tính lý tưởng thành các hành  
động và kết quả hiện thực. Giữa các mục tiêu  
và các phương tiện thực hiện chính sách có sự  
phụ thuộc lẫn nhau, sự tác động đặc thù. Một  
2ꢀ Võ Khánh Vinh, Chính sách pháp luật: Những vấn đề  
lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật,  
Hà Nội, 2020, tr. 219 – 239.  
3ꢀ Võ Khánh Vinh, tlđd, tr. 263 – 276.  
4ꢀ Võ Khánh Vinh, tlđd, tr.129.  
Số 04 - 2021  
Khoa học Kiểm sát 13  
VN ĐỘNG HÀNH LANG: NHÌN TỪ CHÍNH SÁCH PHÁP LUT  
mặt, mục tiêu phần lớn quyết định trước các chế độ pháp luật được sử dụng rất rộng rãi  
phương tiện được sử dụng. Mục tiêu tốt đẹp và tích cực với tư cách là phương tiện tổng  
hợp là những sự cho phép, các nghĩa vụ, các  
điều cấm, các ưu đãi, các khuyến khích, các  
hình phạt, các biện pháp tạm dừng, v.v… để  
đạt được những mục tiêu nhất định đã được  
đặt ra10. Các văn bản pháp luật được sử dụng  
để hiện thực hoá và thực hiện chính sách  
pháp luật bao gồm: Các văn bản quy phạm  
pháp luật, các văn bản giải thích pháp luật,  
các văn bản áp dụng pháp luật, các tài liệu  
pháp luật và các văn bản pháp luật khác.  
Chính sách pháp luật về vận động hành  
làm gia tăng giá trị cho các phương tiện đầy  
đủ và hiện thực được sử dụng để đạt được  
mục tiêu. Mục tiêu chân chính được thể hiện  
trong các phương tiện được sử dụng. Mặt  
khác, các phương tiện khi đã ảnh hưởng đến  
kết quả đạt được quyết định tính hiện thực  
hoặc tính không tưởng của mục tiêu, chỉnh  
sửa các chỉ số cơ bản của mục tiêu, đến việc  
khước từ các lý tưởng mà hiện nay chưa thể  
đạt được. Thông thường, không phải mục  
tiêu mà là phương tiện được sử dụng khi thực  
hiện mục tiêu mới đem đến kết quả khách lang, với tư cách là một loại hay một nội dung  
của chính sách pháp luật, đều sử dụng các  
phương tiện pháp luật nói trên để hiện thực  
hoá chính sách đó. Tuy nhiên, các phương  
tiện nói trên được sử dụng tuỳ thuộc vào  
mục tiêu, nội dung của chính sách pháp luật  
về vận động hành lang.  
quan. Sự không phù hợp của phương tiện với  
mục tiêu thường dẫn đến sự khác nhau cơ  
bản của mục tiêu và kết quả thu nhận được,  
và điều đó, theo nguyên lý về mối liên hệ, tác  
động trở lại, làm huỷ hoại chính mục tiêu.  
Phương tiện giết chết mục tiêu, nếu phương  
tiện không đúng và không hợp pháp. Nghệ  
thuật của chính sách thể hiện ở việc có khả  
năng đo lường mục tiêu và phương tiện của  
nó, ở việc có khả năng sử dụng tối ưu phương  
tiện này hay phương tiện khác để đạt được  
mục tiêu cụ thể. Phương tiện phải có văn hoá,  
hợp pháp, hợp lý, xác đáng5.  
Các phương tiện của chính sách pháp luật  
là các công cụ và các hành vi được sử dụng  
để đạt được các mục tiêu và các nhiệm vụ  
của chính sách pháp luật, để thực hiện trên  
thực tế các tư tưởng pháp luật mang tính  
chiến lược6. Chính sách pháp luật sử dụng  
chế độ pháp luật với tư cách là một phương  
tiện tổng hợp của chính sách pháp luật7, các  
văn bản pháp luật với tư cách là phương tiện  
quan trọng nhất của chính sách pháp luật8.  
Chế độ pháp luật là trật tự điều chỉnh pháp  
luật đặc biệt thể hiện sự kết hợp nhất định  
các phương tiện pháp lý để tạo ra trạng thái  
xã hội mong muốn và mức độ thuận lợi hoặc  
không thuận lợi cụ thể đối với việc làm thoả  
mãn các lợi ích của các chủ thể của pháp luật9.  
Trong phạm vi của chính sách pháp luật, các  
Các hình thức thực hiện chính sách pháp luật  
về vận động hành lang  
Chính sách pháp luật trở thành chính  
sách pháp luật “sống” chỉ khi chính sách đó  
được thể hiện trong hiện thực, được thực  
hiện, được hiện thực hoá trong các hoạt  
động có ý thức, có ý chí của mọi người.  
Thực hiện chính sách pháp luật được nhận  
thức cả với tư cách là một quá trình, lẫn với  
tư cách là kết quả cuối cùng của quá trình đó.  
Với tư cách là một quá trình, thực hiện chính  
sách pháp luật có thể được hiểu là quá trình  
nhất định, được quy định chặt chẽ của việc  
hình thành chính sách, thực thi các quy định  
chính sách, của việc thể hiện các quy định đó  
trong hành vi của mọi người. Quá trình đó  
được bắt đầu, được khởi động từ khi xuất  
hiện nhu cầu điều chỉnh pháp luật, nhu cầu  
cần phải có chính sách pháp luật, tiếp đến  
nhu cầu đó được các chủ thể nhận thức. Với  
tư cách kết quả cuối cùng của một quá trình,  
thực hiện chính sách pháp luật được hiểu là  
việc đạt được sự phù hợp đầy đủ giữa các  
đòi hỏi của chính sách pháp luật về việc thực  
hiện những hành vi của mọi người. Theo đó,  
thực hiện chính sách pháp luật được thể hiện  
với tư cách là hoạt động, hành vi mà ở đó  
các quy định của chính sách pháp luật (hành  
5ꢀ Võ Khánh Vinh, tlđd, tr. 277 – 283.  
6ꢀ Võ Khánh Vinh, tlđd, 2020, tr.283.  
7ꢀ Võ Khánh Vinh, tlđd, tr.289 – 303.  
8ꢀ Võ Khánh Vinh, tlđd, tr.303 – 319.  
9ꢀ Võ Khánh Vinh, tlđd, tr.293.  
10ꢀ Võ Khánh Vinh, tlđd, tr.303.  
14 Khoa học Kiểm sát  
Số 04 - 2021  
VÕ KHÁNH VINH  
vi hợp pháp), hoạt động thực tiễn của mọi  
5.3. Cơ chế tác động của xã hội đến sự lãnh  
người trong việc thực thi các quyền và nghĩa đạo chính trị và đến bộ máy các cơ quan nhà  
vụ pháp lý được thể hiện.  
nước được thể hiện như sau: Các nhóm lợi ích  
có tổ chức thành lập ra các nhóm vận động  
hành lang (các nhóm gây áp lực), đưa các lợi  
ích “cương lĩnh” và “đặc thù” của mình đến  
với các đảng chính trị và các nhóm vận động  
hành lang (các nhóm gây áp lực) tổng kết, tập  
hợp các đòi hỏi đó, đưa chúng vào trong các  
chương trình chung và vận động sự ủng hộ  
đối với các đòi hỏi đó. Các cơ quan nhà nước  
chuyển tải các đòi hỏi đó vào trong chính sách  
của Nhà nước và các đạo luật, sau đó tổ chức  
thực hiện chính sách và các đạo luật đó.  
5.4. Trong quá trình đổi mới ở xã hội Việt  
Nam, các nhóm lợi ích có tổ chức đang được  
hình thành. Theo từng mức độ hình thành,  
các nhóm đó bắt đầu thể hiện ngày càng rõ  
hơn về mình và điều đó được thể hiện, một  
mặt, ở các hoạt động xã hội đối trọng khác  
nhau của các nhóm lợi ích có tổ chức phản  
ứng lại các cơ quan quyền lực nhà nước, và  
mặt khác, ở sự mong muốn hợp tác mang  
tính chất xây dựng của phần lớn các nhóm  
đó với tất cả các cơ quan quyền lực nhà nước  
ở các cấp khác nhau, đóng góp cho sự phát  
triển đất nước.  
Chính sách pháp luật “đi ra” và “đi vào”  
đời sống xã hội, đời sống pháp luật với sự hỗ  
trợ hay thông qua các hình thức khác nhau,  
và do vậy, có thể gọi đó là các hình thức thực  
hiện chính sách pháp luật. Các hình thức thực  
hiện chính sách pháp luật là các phương thức  
hình thành và đưa chính sách pháp luật vào  
đời sống pháp luật. Mỗi hình thức là một loại  
hoạt động có kết quả nhất định trong cấu  
thành của chính sách pháp luật. Chính sách  
pháp luật, theo quan điểm của chúng tôi,  
được thực hiện bằng hoặc thông qua các hình  
thức cơ bản sau đây: Hình thức học thuyết  
pháp luật; hình thức xây dựng pháp luật; hình  
thức giải thích pháp luật; hình thức áp dụng  
pháp luật; hình thức giáo dục và đào tạo pháp  
luật11. Theo logic đó, chính sách pháp luật về  
vận động hành lang cũng được thực hiện  
bằng hoặc thông qua các hình thức như vậy.  
5. Kết luận  
5.1. Các nhóm lợi ích có tổ chức là các  
cộng đồng xã hội làm thoả mãn một cách  
tích cực các lợi ích riêng của mình với sự hỗ  
trợ của sự tác động có tính hướng đích đến  
các cơ quan nhà nước hoặc đến những người  
có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan  
đó. Theo cấu thành của mình, các nhóm lợi  
ích có tổ chức thường có số lượng rất đông,  
nhưng đôi khi cũng có số lượng không lớn.  
Các nhóm lợi ích có tổ chức được phân thành  
hai phạm trù: Các nhóm lợi ích xã hội và các  
nhóm lợi ích đặc thù.  
5.5. Vận động hành lang đã trở thành vấn  
đề của chính sách pháp luật. Đã đến lúc cần  
phải có chính sách pháp luật về vận động  
hành lang. Chính sách pháp luật về vận động  
hành lang xác định nhu cầu, mục tiêu, quan  
điểm, nội dụng, phương tiện, hình thức thực  
hiện chính sách đó về vận động hành lang,  
làm cơ sở chính sách cho việc nghiên cứu,  
5.2. Các nhóm gây áp lực là các cơ cấu xây dựng và ban hành Luật về Vận động  
quản lý có số lượng không lớn do các nhóm hành lang ở nước ta./.  
lợi ích có tổ chức thành lập ra để đại diện  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
và bảo vệ lợi ích của họ trong các cơ quan  
quyền lực nhà nước. Trong thời gian gần  
đây, các nhóm đó thường được gọi là “các  
nhóm vận động hành lang”, do vậy, chính  
quá trình gây áp lực đó được gọi là “việc vận  
động hành lang”. Các nhóm vận động hành  
lang thường được phân thành các nhóm vận  
động hành lang hợp pháp và các nhóm vận  
động hành lang không hợp pháp.  
1. Võ Khánh Vinh, Các nhóm lợi ích có tổ chức, vận  
động hành lang và sự hình thành chính sách của Nhà nước,  
Tài liệu Hội thảo: Vận động hành lang: Thực tiễn và  
Pháp luật.  
2. Võ Khánh Vinh, Lợi ích xã hội và pháp luật, Nxb.  
Công an nhân dân, Hà Nội, 2003.  
3. Võ Khánh Vinh, Chính sách pháp luật: Những vấn đề  
lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2020.  
4. Tài liệu Hội thảo: Vận động Hành lang: Thực  
tiễn và Pháp luật.  
11ꢀ Võ Khánh Vinh, tlđd, tr.335 – 482.  
5. Politics in America State, 5th edit, New York, 1990.  
Số 04 - 2021  
Khoa học Kiểm sát 15  
pdf 13 trang Thùy Anh 5200
Bạn đang xem tài liệu "Vận động hành lang: Nhìn từ chính sách pháp luật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfvan_dong_hanh_lang_nhin_tu_chinh_sach_phap_luat.pdf