Vận động hành lang: Nhìn từ chính sách pháp luật
VẬN ĐỘNG HÀNH LANG: NHÌN TỪ CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT
VÕ KHÁNH VINH*
Vận động hành lang là một chủ đề được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu, trong đó
có luật học. Luật học quan tâm đến vận động hành lang cũng ở các phương diện hay cấp độ khác
nhau: Phương diện chính sách pháp luật, phương diện pháp luật thực chứng, phương diện so sánh
pháp luật, phương diện xã hội học pháp luật; cấp độ lý luận, cấp độ thực tiễn và các phương diện,
cấp độ khác. Bài viết này bước đầu tìm hiểu vận động hành lang từ phương diện chính sách pháp
luật cả ở cấp độ lý luận lẫn cấp độ thực tiễn, cụ thể là bước đầu tìm hiểu những vấn đề cơ bản,
quan trọng về mối quan hệ giữa các nhóm lợi ích có tổ chức, vận động hành lang và cơ chế tác
động của chúng đến sự hình thành chính sách pháp luật của Nhà nước, những vấn đề cơ bản của
chính sách pháp luật về vận động hành lang, tức là luận giải vận động hành lang là một vấn đề
của chính sách pháp luật, mục tiêu, quan điểm, nội dung của chính sách pháp luật về vận động
hành lang, các phương tiện, hình thức thực hiện chính sách pháp luật về vận động hành lang.
Từ khoá: Nhóm lợi ích có tổ chức; vận động hành lang; cơ chế tác động của vận động hành lang
đến chính sách, pháp luật; chính sách pháp luật về vận động hành lang.
Ngày nhận bài: 24/8/2021; Biên tập xong: 25/8/2021; Duyệt đăng: 25/8/2021
Lobbyinghasbeenaheatedtopicstudiedbymanyscientificsectors,includingjurisprudence.
It has been interested in lobbying in different aspects or levels: Legal policy, legal positivism,
legal comparison, legal sociology aspects; theoretical and practical levels as well as the others.
The article initially explores lobbying from legal policy aspect both in theoretical and practical
level like the foundamental and vital issues of the relationship between organized interest
groups; lobbying and impacts of their mechanism on the formation of the State’s legal policies;
the basic issues of legal policy on lobbying which means the interpretation of lobbying is a
maꢀer of legal policy, objectives, viewpoints, and content of legal policy on lobbying, methods
and forms of implementing legal policies on lobbying.
Keywords: Organized interest groups, lobbying, impact mechanisms of lobbying on
policies and laws, legal polices on lobbying.
1. Sự tác động lẫn nhau của các nhóm của các nhóm lợi ích có tổ chức và của các
nhóm gây áp lực trong quá trình hình thành
các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Từ
đó đến nay, sự quan tâm đến vấn đề này
ngày càng được gia tăng một cách đáng kể.
Thực chất của vấn đề là ở chỗ nhờ các nhóm
đó mà xã hội có được khả năng đại diện một
cách đầy đủ nhất các lợi ích của mình trong
hoạt động của Nhà nước đương đại.
Các nhóm lợi ích có tổ chức là gì? Kinh
nghiệm thế giới chỉ rõ rằng, một Nhà nước,
ngay cả Nhà nước đó anh minh đến mấy
thì tự mình cũng không thể cân nhắc được
một cách đầy đủ nhất các nhu cầu, lợi ích đa
dạng của các giai cấp, các tầng lớp, các giai
tầng, các nhóm xã hội khác nhau cấu thành
nên xã hội cụ thể đó. “Các nhóm lợi ích có tổ
chức” thường hỗ trợ cho Nhà nước cân nhắc
lợi ích có tổ chức và sự hình thành chính
sách của Nhà nước
Thực hiện quyền lực nhà nước là một
quá trình rất phức tạp. Quá trình đó không
chỉ bao gồm hoạt động của các cơ quan nhà
nước, mà còn bao gồm hoạt động của các
cơ cấu khác nhau ở bên cạnh Nhà nước –
các yếu tố của kinh tế thị trường, các yếu tố
của xã hội công dân, theo cách gọi của Các
Mác (Karl Marx). Trong số các yếu tố đó,
“các nhóm lợi ích có tổ chức” và “các nhóm
gây áp lực” do họ thành lập ra có vai trò, ý
nghĩa lớn nhất; do vậy, sự hình thành, sự
vận động của chúng là cơ sở làm xuất hiện
hiện tượng cần phải được quản lý có tên gọi
là sự vận động hành lang (chủ nghĩa vận
động hành lang).
Từ giữa thế kỷ XIX, các nhà chính trị và
xã hội học đã bắt đầu quan tâm đến vai trò
* Giáo sư, Tiến sĩ, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội
Việt Nam
Số 04 - 2021
Khoa học Kiểm sát
3
VẬN ĐỘNG HÀNH LANG: NHÌN TỪ CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT
đầy đủ và đúng đắn các nhu cầu, lợi ích đó. ra bằng cách sử dụng các cơ chế của các cơ
Trong một đất nước cụ thể, các nhóm đó có quan nhà nước.
số lượng từ vài chục cho đến vài nghìn.
Trong số các nhóm lợi ích có tổ chức, các
Sự đa dạng các nhu cầu, lợi ích là bộ phận Đảng chính trị nổi lên nhờ có hoạt động tích
cấu thành không thể thiếu được của dân cực của mình. Mục tiêu cơ bản của các Đảng
chủ. Trong xã hội có một số nhóm lợi ích tự chính trị là đấu tranh giành lấy quyền lực ở
tất cả mọi cấp độ của cơ cấu nhà nước, trong
khi các nhóm lợi ích có tổ chức khác phần
lớn không đặt ra nhiệm vụ như vậy. Thông
thường, các nhóm lợi ích có tổ chức hoạt
động vì các lợi ích tập thể của mình, mà trước
hết vì các lợi ích kinh tế. Cho dù đôi khi các
nhóm lợi ích có tổ chức cũng khẳng định ủng
hộ dưới nhiều hình thức khác nhau những
người ứng cử này hay những người ứng cử
khác trong các cuộc bầu cử, nhưng các nhóm
như vậy làm việc đó một cách không công
khai mà dưới hình thức được che đậy nào
đó. Các nhóm lợi ích như vậy tiến hành hoạt
động của mình cùng với và song hành với
các đảng chính trị, tập trung vào những lĩnh
vực xã hội mà các đảng chính trị hoặc ít hoặc
không quan tâm. Trong sách báo, các nhóm
lợi ích có tổ chức nhiều khi còn được gọi là
“các nhóm quan tâm”.
Các nhóm lợi ích có tổ chức có những chức
năng cơ bản như thế nào? Một số tác giả cho
rằng, các nhóm lợi ích có tổ chức có ảnh
hưởng tiêu cực đến chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Ngược lại, các tác giả khác
quan niệm rằng, các nhóm đó là một bộ phận
có lợi và tất yếu của hệ thống dân chủ. Trong
hiện thực, chúng tôi cho rằng, các nhóm lợi
ích có tổ chức thực hiện ít nhất bốn chức
năng tích cực sau:
mình không thể hoặc là rất khó được tổ chức,
thiết lập (ví dụ, nhóm lợi ích của trẻ em, của
những người mắc bệnh hiểm nghèo). Một
số nhóm lợi ích khác thì chỉ mới được hình
thành hoặc bắt đầu giải thể. Chỉ có các nhóm
lợi ích đã có tổ chức mới có tác động hiệu quả
đến sự hình thành chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Việc làm sáng tỏ và cân nhắc các
đặc điểm hoạt động của các nhóm lợi ích có
tổ chức tạo thành một yếu tố rất quan trọng
của quản lý dân sự, cũng như của quản lý
nhà nước, trong đó có công vụ.
Các nhóm lợi ích có tổ chức là các cộng
đồng xã hội (các liên minh xã hội) được thiết
lập nên để làm thoả mãn một cách tích cực
các lợi ích riêng của mình với sự hỗ trợ của
sự tác động có định hướng mục đích đến các
cơ quan nhà nước hoặc đến những người
có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan
đó. Theo cấu thành của mình, các nhóm lợi
ích có tổ chức thường có số lượng rất đông,
nhưng đôi khi cũng có số lượng không lớn.
Mục tiêu cơ bản của các nhóm như vậy là
bảo vệ một cách có tổ chức các lợi ích tập thể
(lợi ích nhóm) của mình trong quan hệ lẫn
nhau với Nhà nước hoặc với các nhóm xã
hội khác. Ví dụ, ở nhiều nước hiện nay các
nhóm lợi ích có tổ chức có ảnh hưởng lớn
nhất là liên minh các nhà chính trị, các nhà
doanh nghiệp, các nhà băng (ngân hàng), các
nhà quản lý, các giáo viên, các bác sỹ, các nhà
nông nghiệp, các nhà công nghệ, cũng như
các công đoàn.
i. Là cầu nối giữa dân cư và Nhà nước,
giữa cá nhân và các cơ quan nhà nước; hoạt
động của các nhóm đó hỗ trợ cho những
người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ
quan nhà nước làm sáng tỏ được những tâm
trạng và quan điểm xã hội cần được quan
tâm khi ra quyết định;
Thông thường, các nhóm lợi ích có tổ
chức có ba dấu hiệu. Thứ nhất, phần lớn các
nhóm đó là các yếu tố của xã hội công dân,
và do vậy, về cơ bản, chúng có bản chất xã
ii. Thúc đẩy tính tích cực của dân cư
hội (tự hoạt động). Thứ hai, các liên minh đó trong đời sống chính trị; truyền đạt cho các
thể hiện tính chất quản lý rất rõ ràng, được thành viên của mình về các quyết định của
thiết lập ra để liên kết và phối hợp các nỗ lực Nhà nước đã được thông qua hoặc đang
dựa trên cơ sở các nhu cầu, lợi ích xã hội cụ được soạn thảo, giải thích cho các thành viên
thể. Thứ ba, thông thường, các nhóm lợi ích của mình và những người khác biết rằng
đó bảo vệ các lợi ích xã hội cụ thể được đặt làm như thế nào để có thể tác động đến việc
4
Khoa học Kiểm sát
Số 04 - 2021
VÕ KHÁNH VINH
thông qua các quyết định đó và thúc đẩy sự
tác động đó;
Các nhóm lợi ích có tổ chức, thông
thường, được phân thành hai phạm trù: Các
nhóm lợi ích xã hội và các nhóm lợi ích đặc
thù. Các nhóm lợi ích xã hội có tổ chức đó
là các liên minh công khai đối với tất cả mọi
người. Các nhóm đó đại diện cho những
lợi ích rộng lớn, nhiều phương diện, không
mang tính chất kinh doanh của mọi người từ
các giai cấp và tầng lớp rất khác nhau trong
xã hội. Chẳng hạn, đó là các tổ chức bảo vệ
môi trường, các hiệp hội bảo vệ người tiêu
dùng… Thông thường, các nhóm như vậy ở
trong tình trạng không được thuận lợi. Việc
cung cấp tài chính cho các nhóm đó hoạt
động là rất hạn chế bởi dựa vào cơ sở xã hội
đó khó làm cho mọi người quan tâm để có
đóng góp tài chính đáng kể. Do đó, những
người làm việc trong các nhóm như vậy
được trả lương rất thấp và điều đó làm cho
cán bộ hay bị lưu động nhất. Thông thường,
các nhóm này có sự tác động không đáng kể
đến các cơ quan nhà nước, cho dù trong một
số trường hợp các nhóm đó cũng đạt được
những kết quả trông thấy.
Các nhóm lợi ích đặc thù có tổ chức là
các liên minh của những người thuộc các
nhóm xã hội nhất định (những người sản
xuất, kinh doanh, những công chức, các bác
sỹ, các nhà giáo, các cựu chiến binh…). Các
nhóm này bao gồm các tổ chức công sở, công
nhân, nghề nghiệp, dân tộc và các tổ chức có
mục đích khác. Liên minh các nhà chính trị
và các nhà kinh doanh là các liên minh có số
lượng thành viên đông và có sự ảnh hưởng
lớn nhất. Các nhóm lợi ích đặc thù có tổ chức
ở trong tình trạng thuận lợi hơn so với các
nhóm lợi ích xã hội có tổ chức do họ được
cung cấp đầy đủ tài chính và nhiều khi có cơ
sở, phương tiện làm việc rất sang trọng. Các
nhóm đó có bộ máy ổn định và có trình độ
nghề nghiệp cao, có khả năng giải quyết một
cách nhanh chóng và có thẩm quyền tất cả
những vấn đề nảy sinh. Ngoài ra, trong điều
kiện hiện nay, hầu như tất cả các nhóm thuộc
phạm trù đó đều có các trung tâm nghiên
cứu có chuyên môn với chức năng bảo đảm
về mặt khoa học cho các chương trình, kế
iii. Bổ sung cho đại diện chính thức;
iv. Là phương tiện quan trọng để giải
quyết các xung đột trong xã hội bởi các nhóm
đó hỗ trợ cho việc soạn thảo các thương
thuyết và thoả hiệp cần thiết.
Trước đây, ở các nước xã hội chủ nghĩa,
người ta hoàn toàn coi thường và thậm chí
phủ nhận sự tồn tại của các nhóm lợi ích có
tổ chức, và do vậy, chính khái niệm đó bị gạt
bỏ như là khái niệm không khoa học, mâu
thuẫn với lý luận giai cấp. Tuy vậy, trên thực
tế hai cách tiếp cận đó (tiếp cận giai cấp và
tiếp cận nhóm có tổ chức) không phải có tính
chất loại trừ nhau mà là bổ sung cho nhau
bởi chúng đều xem xét, nghiên cứu các cấp
độ, lát cắt khác nhau của tổ chức xã hội.
Với tư cách là một hiện tượng xã hội, các
nhóm lợi ích có tổ chức đã được biết đến từ
lâu nhưng chúng phát triển phổ biến nhất
trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát
triển và xã hội công dân chín muồi từ giữa
thế kỷ XX. Hoàn toàn rõ ràng rằng, các nhóm
đó là sản phẩm của hệ thống kinh tế tự do
và của hệ thống chính trị - xã hội đa nguyên.
Sự xuất hiện nhiều nhóm lợi ích có tổ chức
không tách rời với sự hình thành và phát
triển các giai cấp cơ bản của xã hội tư bản
và với sự tiếp tục phân hoá các giai cấp đó
thành các nhóm nhỏ hơn cùng với các lợi
ích kinh tế, nghề nghiệp và các lợi ích khác
của mình. Chính các nhóm lợi ích có tổ chức
được thiết lập ra để bảo đảm về mặt chính trị
cho các giai cấp đó.
Vì sao mọi người lại hợp nhất lại thành các
nhóm lợi ích? Có nhiều lý do khác nhau làm
cho người ta thiết lập ra hoặc tham gia các
nhóm đó. Một số người thành lập và tham
gia các nhóm đó vì có sự quan tâm đến các
vấn đề chính trị, quản lý này hay các vấn
đề chính trị, quản lý khác; những người
khác tham gia những nhóm đó do có sự
ảnh hưởng, tác động của các lợi ích kinh tế
của mình; nhóm người thứ ba trở thành các
thành viên của các liên minh đó vì các lý do
xã hội để tỏ rõ sự đồng tình, tình đoàn kết.
Cuối cùng, một số người buộc phải tham gia hoạch nhà nước đang được chuẩn bị và đang
các nhóm đó để không mất việc làm.
được thực hiện.
Số 04 - 2021
Khoa học Kiểm sát
5
VẬN ĐỘNG HÀNH LANG: NHÌN TỪ CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT
Các nhóm vận động hành lang (các nhóm gây lợi ích của dân cư) và Nhà nước, bảo vệ lợi
áp lực) là gì? Các nhóm lợi ích có tổ chức và các ích của các nhóm dân cư được tổ chức trong
các cơ quan nhà nước.
nhóm vận động hành lang (các nhóm gây áp lực)
có cơ chế tác động với nhau như thế nào?
2. Vai trò của các nhóm vận động hành
lang (các nhóm gây áp lực) đối với việc thực
hiện các lợi ích của xã hội
Các nhóm vận động hành lang (các nhóm
gây áp lực) có các chức năng cơ bản như
thế nào? Trong sách báo có các cách trả lời
khác nhau về vấn đề đó. Nhưng nếu tách ra
những chức năng cơ bản thì có thể nêu ra 05
chức năng của các nhóm vận động hành lang
(các nhóm gây áp lực) như sau:
i. Chuyển tải các tâm trạng và đòi hỏi
của dân cư đến với các cơ quan nhà nước,
những người có chức vụ, quyền hạn trong
các cơ quan nhà nước;
ii. Tác động đến quá trình làm luật không
chỉ bằng việc phê phán hoặc ủng hộ các dự
án luật mà thường bằng việc tham gia trực
tiếp vào việc soạn thảo và “thúc đẩy” các
luật này hay các luật khác;
iii. Góp phần tuyển chọn các chuyên gia
thẩm định, phản biện và các chuyên gia khác
cho các cơ quan nhà nước, lôi kéo các nhà
chuyên nghiệp có trình độ cao theo định
Theo cấu thành của mình, các nhóm lợi
ích có tổ chức thường có số lượng rất đông
và do đó tự mình cũng không trực tiếp tác
động, ảnh hưởng đến các cơ quan nhà nước.
Ở đây chỉ loại trừ các hình thức đấu tranh vì
các lợi ích của mình như mít tinh, tuần hành,
biểu tình, đình công được diễn ra trong
những trường hợp đặc biệt. Những hình
thức đó sẽ được xem xét một cách cụ thể,
đầy đủ hơn. Thông thường, các nhóm lợi ích
có tổ chức thành lập ra các nhóm gây áp lực
(hoặc thuê mướn để sử dụng các nhóm vận
động hành lang) với tư cách là cơ chế phổ
biến nhất để thực hiện sự tác động đến tất
cả các nhóm và cấp độ quyền lực nhà nước.
Như vậy, các nhóm gây áp lực là các cơ cấu
quản lý có số lượng không lớn do các nhóm hướng xã hội đối với mình;
lợi ích có tổ chức thành lập ra để đại diện và
bảo vệ lợi ích của họ trong các cơ quan quyền
lực nhà nước. Trong thời gian gần đây, các
nhóm đó thường được gọi là “các nhóm vận
động hành lang”, do vậy, quá trình gây áp
lực được gọi là “sự vận động hành lang”.
Thuật ngữ “vận động hành lang” (xuất
phát từ tiếng Anh là Lobby - khu vực đi
dạo có mái che, hành lang) vào thời Trung
cổ được sử dụng để nói về khu vực đi dạo
trong tu viện. Cuối thế kỷ XVI, thuật ngữ
đó được dùng để gọi là nơi để đi dạo trong
Nghị viện Anh. Đến cuối thế kỷ XVIII, thuật
ngữ “vận động hành lang” được gọi là việc
mua các lá phiếu bầu cử bằng tiền trong các
hành lang của Nghị viện Mỹ. Hiện nay, “vận
động hành lang” - đó là các nhóm gây áp lực
(các nhóm vận động hành lang) do các nhóm
lợi ích có tổ chức thành lập ra để đại diện cho
các nhóm lợi ích, trong đó có các cơ quan nhà
nước để tác động đến chính sách, pháp luật
của Nhà nước theo hướng có lợi cho họ. Các
nhóm vận động hành lang (hoặc các nhóm
iv. Duy trì sự phối hợp cần thiết với các cơ
quan nhà nước trong việc soạn thảo và thông
qua các chương trình, chính sách, pháp luật
của Nhà nước;
v. Ủng hộ các cơ quan nhà nước trong
việc vận động dân cư thực hiện các đạo luật
và các chương trình, các cuộc vận động của
Nhà nước.
Một số nước đã ban hành các đạo luật
hợp pháp hoá và điều chỉnh việc vận động
hành lang. Ví dụ, ở Mỹ các đạo luật như vậy
đã được ban hành ở tất cả các bang. Các đạo
luật đó quy định việc đăng ký đối với những
người vận động hành lang và những người
phục vụ cho những người vận động hành
lang, trong nhiều trường hợp quy định việc
báo cáo về kinh phí cho việc vận động hành
lang. Sự quan tâm của các đạo luật đó không
phải hướng đến việc quy định các biện pháp
cấm khác nhau mà là hướng đến để tháo bỏ
màn che bí mật của chính quá trình vận động
hành lang. Điều đó được thực hiện dựa vào
sự tin tưởng rằng, thông tin về hoạt động
gây áp lực) là những người trung gian giữa của các nhóm vận động hành lang sẽ được
xã hội công dân (xã hội được tổ chức theo các xã hội phân tích trước khi các nhà làm luật,
6
Khoa học Kiểm sát
Số 04 - 2021
VÕ KHÁNH VINH
những người có chức vụ, quyền hạn khác của mình dựa trên cơ sở các khả năng, đặc
thông qua các quyết định chính trị, quản lý điểm và thuộc tính của mình.
quan trọng. Rất lý thú là chính các đạo luật
về phụ nữ trong mối quan hệ với sự vận
động hành lang lại được thông qua ở những
nơi các nhóm lợi ích có tổ chức rất yếu, còn
các đạo luật ôn hoà lại được thông qua ở nơi
có sự lạm dụng một cách nghiêm trọng từ
phía những người vận động hành lang.
Như vậy, tương ứng với việc có nhiều
nhóm lợi ích thì có nhiều nhóm vận động
hành lang. Các nhóm vận động hành lang
(các nhóm gây áp lực) có thể được phân
thành các loại khác nhau. Các nhóm vận
động hành lang (các nhóm gây áp lực) có thể
được phân thành hai bộ phận: Các nhóm vận
Trong thời gian gần đây, trong sách báo động hành lang hợp pháp (các nhóm gây áp
nước ngoài, người ta quan tâm đặc biệt đến lực hợp pháp) và các nhóm vận động hành
việc “chuyên nghiệp hoá” những người vận lang không hợp pháp (các nhóm gây áp lực
động hành lang. Hình dáng trước đây của không hợp pháp). Các nhóm vận động hành
những người vận động hành lang với tư lang hợp pháp là các nhóm gây áp lực mà
cách là “những người thông minh nhỏ bé” hoạt động của chúng được ghi nhận trong
đã đi vào quá khứ do có sự xuất hiện những các văn bản quy phạm pháp luật. Ngược lại,
người vận động hành lang chuyên nghiệp các nhóm vận động hành lang không hợp
là các luật gia. Thông thường, những người pháp hoạt động một cách tự phát, không có
vận động hành lang được phân biệt với nhau cơ sở quy phạm (tất nhiên, trong số đó có các
theo mô hình hoạt động và các nghĩa vụ nhóm tội phạm). Các nhà nghiên cứu Mỹ là
phải thực hiện, được những người có chức K. Tomas và R. Khrebinar đã phân các nhóm
vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước vận động hành lang hợp pháp (các nhóm
tiếp nhận khác nhau và đại diện cho các loại gây áp lực hợp pháp) thành 03 nhóm người
nhóm lợi ích xã hội có tổ chức khác nhau. vận động hành lang1. Có thể đưa ra sơ đồ
Trong thực tiễn, mỗi người vận động hành phân loại về các nhóm người vận động hành
lang đều xây dựng chiến lược và chiến thuật lang như sau:
1. Politics in America State, 5th edit, New York, 1990.
Số 04 - 2021
Khoa học Kiểm sát
7
VẬN ĐỘNG HÀNH LANG: NHÌN TỪ CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT
Những người vận động hành lang bên và xác thực. Nhưng ngoài thuộc tính chung
trong là những công chức, viên chức làm đó, từng loại người vận động hành lang
việc trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau trong số ba loại cơ bản nói trên đều áp dụng
của Nhà nước và cơ bản trong các lĩnh vực các chiến lược và phương pháp tác động
hoạt động không mang tính nhà nước, họ khác nhau. Chẳng hạn, để đạt được kết quả
đại diện cho lợi ích của các lĩnh vực đó trong
các cơ cấu khác nhau của Nhà nước. Từ giữa
thế kỷ XIX đến nay, những người vận động
hàng lang “bên trong” có số lượng lớn và
những người có ảnh hưởng, tác động lớn
nhất là những nhà doanh nghiệp và những
nhà chính trị. Họ là những người nhận thức
được nhu cầu trong việc thiết lập sự hợp tác
thường xuyên với những người có chức vụ,
quyền hạn, có thẩm quyền trong việc đưa ra
các quyết định. Với mong muốn làm giảm
thái độ tiêu cực đối với hoạt động của mình,
những người vận động hành lang “bên
trong” (những người gây áp lực bên trong)
thường gọi mình là “những người có trách
nhiệm vì các mối liên hệ” với các cơ quan
hành pháp hoặc lập pháp.
Những người vận động hành lang - tình
nguyện là những người từ những công dân
bình thường. Thông thường, đó là một yếu
tố không lớn, không có ảnh hưởng lớn của
hoạt động vận động hành lang. Họ thường
đại diện cho các nhóm lợi ích không lớn
và không mạnh (thường là có ý nghĩa địa
phương) hoặc cho các tổ chức nhỏ không
mang tính kinh doanh. Những người vận
động hành lang - tình nguyện làm việc
theo các nguyên tắc xã hội, còn nếu như họ
được trả lương thì mức lương rất khiêm
tốn, họ không có mong muốn là được tặng
thưởng tiền mà là vì lòng trung thành với
công việc.
những người vận động hành lang - những
người hợp đồng không đặt ra nhiệm vụ cơ
bản là đưa ra thông tin về những vấn đề cụ
thể và đưa ra kết luận của các chuyên gia mà
là đưa ra hiểu biết riêng về hệ thống chính
trị và các mối liên hệ cá nhân với những
người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ
quan nhà nước. Đối với những người vận
động hành lang “bên trong” thì nhiệm vụ
cơ bản là nghiên cứu kỹ càng vấn đề mà họ
cần tiến hành vận động hành lang. Những
người vận động hành lang - tình nguyện
thường dựa vào sự lập luận mang tính đạo
đức và sự phát triển tự phát của các sự kiện.
Do đó, trong điều kiện hiện nay, chủ
nghĩa vận động hành lang nói chung đã trở
nên đa dạng và chuyên nghiệp hơn. Những
xu hướng, chỉ số sau đây nói về tính chuyên
nghiệp của nó: 1) Số lượng những người
có công việc chính là vận động hành lang
ngày càng phát triển; 2) Xuất hiện các công
ty vận động hành lang cung cấp đầy đủ các
dịch vụ và đại diện cho các khách hàng rất
đa dạng; 3) Tăng cường sự chuyên môn
hoá của những người vận động hành lang -
hợp đồng phù hợp với sự phức tạp hoá quá
trình quản lý. Người vận động hành lang
kiểu mới là người được đào tạo có kiến thức
rộng lớn, được chuẩn bị mang tính chuyên
nghiệp. Các nghiên cứu ở nước ngoài cho
thấy, trong số những người vận động hành
lang thường gặp là phụ nữ.
Những người vận động hành lang - hợp
đồng là những người làm việc theo hợp
đồng. Đôi khi người ta gọi họ là “những
người làm thuê”. Chính họ là những người
có trình độ nghề nghiệp cao, có mối liên hệ
đáng kể đến việc thông qua các quyết định
cần thiết.
Về chiến thuật của chủ nghĩa vận động
hành lang hiện nay, tất cả các nhà nghiên
cứu nước ngoài chỉ rõ rằng các nhóm lợi
ích có tổ chức và các nhóm vận động hành
lang (các nhóm gây áp lực) của họ, ngoài
công việc mang tính truyền thống với các
cơ quan lập pháp và với các bộ máy của các
Ba loại người vận động hành lang đó cơ quan đó, ngày càng quan tâm nhiều hơn
đều mong muốn bảo vệ danh tiếng của đến các cơ quan hành pháp, tư pháp và các
mình là những người trung thực, đáng tin bộ máy của các cơ quan đó ở tất cả các cấp
cậy và đúng đắn khi đưa ra thông tin có lợi quản lý nhà nước.
8
Khoa học Kiểm sát
Số 04 - 2021
VÕ KHÁNH VINH
Các nhóm vận động hành lang (các nhóm những giải thích các đạo luật đó do các cơ
gây áp lực) có các hướng ảnh hưởng cơ bản như quan nhà nước đưa ra, chuyển vụ việc cho
Toà án xem xét trong trường hợp cần thiết.
Ở các hệ thống chính trị phát triển, sự tác
động lẫn nhau giữa các nhóm lợi ích có tổ
chức, các đảng chính trị, các nhóm vận động
hành lang (các nhóm gây áp lực) và các cơ
quan nhà nước mang tính chất phức tạp,
nhưng hoàn toàn được giám sát. Các nhóm
lợi ích có tổ chức thành lập ra các nhóm vận
động hành lang (các nhóm gây áp lực), đưa
các lợi ích “cương lĩnh” và “đặc thù” của
mình đến với các đảng chính trị và các nhóm
vận động hành lang (các nhóm gây áp lực).
thế nào đến các cơ quan nhà nước, trong đó có
công vụ? Thông thường, các nhóm vận động
hành lang (các nhóm gây áp lực) tác động
đến chính sách của Nhà nước theo 05 hướng
sau: Thứ nhất, các nhóm đó tác động đến dư
luận xã hội, sử dụng hệ thống phương tiện
thông tin đại chúng để tuyên truyền, phổ
biến các mục tiêu và chương trình của mình
đối với dân cư. Thứ hai, những người vận
động hành lang mong muốn tác động đến
kết quả của cuộc bầu cử bằng cách cung
cấp tài chính cho các đảng chính trị, các
khối, các liên minh, những người ứng cử Các đảng chính trị và các vận động hành
độc lập hoặc cho các hình thức cạnh tranh lang (các nhóm gây áp lực) tổng kết, tập
khác trước bầu cử. Thứ ba, các nhóm đó ảnh hợp các đòi hỏi đó, đưa chúng vào trong các
hưởng đến nội dung cương lĩnh, chương chương trình chung và vận động sự ủng hộ
đối với các đòi hỏi đó. Các cơ quan nhà nước
chuyển tải các đòi hỏi đó vào trong chính
sách của Nhà nước và các đạo luật, sau đó tổ
chức thực hiện chính sách và các đạo luật đó
(xem sơ đồ dưới đây). Nhờ có cơ chế tác động
lẫn nhau như vậy mà bảo đảm được sự tham
gia rộng rãi của toàn bộ xã hội vào việc hình
thành chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Trong một số trường hợp, các nhóm lợi
ích có tổ chức và các nhóm vận động hành
lang (các nhóm gây áp lực) trùng hợp với
nhau. Ví dụ, trong các xã hội cực quyền, nơi
trình hành động của các đảng chính trị,
phát biểu ở những diễn đàn khác nhau của
các đảng đó hoặc tiếp xúc với những người
ứng cử của họ. Thứ tư, họ thường xuyên và
liên tục tập trung sự nỗ lực của mình đến
các cơ quan lập pháp, tham dự để nghe báo
cáo về các dự án luật ở các ủy ban chuyên
trách của Nghị viện, thiết lập các mối quan
hệ với các đại biểu và những cán bộ, công
chức, viên chức nhà nước. Thứ năm, những
người vận động hành lang cố gắng giám sát
các đạo luật đã được thông qua, hợp tác với
các cán bộ của các cơ quan nhà nước khác các nhóm gây áp lực (các nhóm lợi ích có tổ
nhau hoặc tranh luận về tính đúng đắn của chức) được tập trung hầu như chỉ bên trong
Số 04 - 2021
Khoa học Kiểm sát
9
VẬN ĐỘNG HÀNH LANG: NHÌN TỪ CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT
hệ thống quản lý nhà nước và đại diện cho động hành lang đòi hỏi các nhà chính trị và
các cơ quan nhà nước được tách ra một cách các doanh nghiệp thành lập các tổ chức phân
tương đối - các cơ quan cạnh tranh với nhau tích khoa học, thông tin và thẩm định riêng,
độc lập với Nhà nước. Mạng lưới thông tin do
các tổ chức đó thành lập để thu thập và tổng
hợp các thông tin có lợi, bao gồm cơ sở dữ liệu
máy tính và ngân hàng số liệu, việc tác động
lẫn nhau thường xuyên với các phương tiện
thông tin đại chúng, cũng như một đội ngũ
cán bộ rộng lớn làm công tác thông tin của
các bộ, ngành khác nhau đã và đang đưa ra
những thông tin dự báo có giá trị.
Hiện nay, ở nước ta đang từng bước hình
thành hai nhóm vận động hành lang (nhóm
gây áp lực) bảo đảm lợi ích của các nhà quản
lý và doanh nghiệp:
trong các lĩnh vực lợi ích tiếp giáp hoặc các
tiểu nhóm đồng hương, đẳng cấp, dân tộc
và các tiểu nhóm khác của các cơ cấu quyền
lực. Cuộc cạnh tranh tranh giành của họ đối
với các nguồn lực và các đặc quyền, đặc lợi
mang tính quy chế thường được diễn ra một
cách ngấm ngầm và không công khai, các mối
liên hệ cá nhân với những nhân vật chủ chốt
thường được sử dụng. Kết quả của cuộc cạnh
tranh đó là sự phân chia lại sự ảnh hưởng và
các vị trí chức vụ cán bộ hành pháp của các
nhóm gây áp lực. Sự tham gia vào các quá
trình như vậy gắn liền với sự gia tăng rủi ro
đối với bên chiến thắng, trong đó có khả năng
đàn áp. Tất cả điều đó dẫn đến tính khép kín,
sự bí mật tối đa, tính không vững chắc và tính
vô định của các nhóm như vậy.
- Các bộ phận có biên chế nhỏ trong cơ
cấu các cơ quan nhà nước, các tập đoàn, tổng
công ty (các trung tâm nghiên cứu, thông tin
hoặc tư vấn, các nhóm tư vấn, chuyên gia về
các mối liên hệ xã hội...);
Các nhóm lợi ích có tổ chức thực hiện sự
tác động, gây áp lực đến các cơ quan nhà nước
cả trong một số trường hợp khác: Ở các trạng
thái chuyển đổi lúc các nhóm đó được thành
lập hoặc đã bị giải tán, cũng như trong mọi
tình huống khi các nhóm đó không thể được
cung cấp tài chính (hoặc trả lương cho những
người làm công) cho các nhóm gây áp lực.
3. Vấn đề hình thành các mối quan hệ
có lợi lẫn nhau giữa Nhà nước và xã hội
Ở nước ta hiện nay, việc tìm kiếm các
hình thức quản lý xã hội và quản lý Nhà
nước có hiệu quả đang được tiến hành một
cách tích cực. Với mục đích đó các nhóm lợi
ích có tổ chức khác nhau được thành lập và
ở một phương diện nào đó từ khi mới được
thành lập các nhóm đó tự mình hoặc trực
tiếp thể hiện với tư cách là các nhóm gây áp
lực trong quan hệ lẫn nhau với Nhà nước.
Tất cả các giai cấp, giai tầng và tầng lớp ở
mức độ này hay mức độ khác đều tham gia
vào hoạt động đó. Tuy nhiên ở đây, các nhà
doanh nghiệp Việt Nam đã đạt được những
kết quả lớn nhất. Trong quá trình đổi mới
vừa qua, có nhiều nhóm lợi ích có tổ chức của
giới doanh nghiệp đã được thành lập (Hội
các doanh nghiệp, Hội các doanh nghiệp trẻ,
Hội giày da, Hội may mặc…).
- Những người tư vấn và thẩm định ngoài
biên chế, họ là những cộng tác viên khoa học.
Cơ chế hoạt động vận động hành lang
đang được hình thành tạo điều kiện cho các
nhà quản lý và doanh nghiệp có tổ chức có
ảnh hưởng, tác động một cách hiệu quả đến
việc ra quyết định của các cơ quan quyền
lực nhà nước. Các nhà quản lý và doanh
nghiệp có tổ chức thường sử dụng các hình
thức vận động hành lang sau đây: Tiếp xúc
cá nhân với những người có chức vụ, quyền
hạn trong các cơ quan nhà nước (với những
người lãnh đạo và với những công chức nhà
nước); tham gia phiên họp của các cơ quan
nhà nước; làm việc trong các nhóm thẩm
định của các cơ quan nhà nước; nghe báo
cáo các dự án luật; tác động thông qua dư
luận xã hội và các phương tiện thông tin đại
chúng; tham gia xây dựng các bản báo cáo
của các cơ quan quản lý và kinh doanh đối
với các cơ quan nhà nước; gặp gỡ với những
nhà lãnh đạo cấp cao của Nhà nước.
Trên thực tế, chủ nghĩa vận động hành
lang bắt đầu được các cơ quan nhà nước sử
dụng rộng rãi và có hiệu quả hơn.
Trong số các nhóm vận động hành lang
hợp pháp (các nhóm gây áp lực hợp pháp)
Nhu cầu giải quyết các nhiệm vụ vận đặc thù có các Hội đồng, Uỷ ban, Hiệp hội
10 Khoa học Kiểm sát
Số 04 - 2021
VÕ KHÁNH VINH
khác nhau và các tổ chức tương tự khác. Các cá nhân và gia đình, đe doạ trừng trị cán bộ
cơ cấu đó được thành lập trong các cơ quan hoặc các thành viên gia đình của cán bộ…
thuộc tất cả các phạm vi quyền lực và ở các Hoạt động của các nhóm tội phạm gây áp
cấp quản lý nhà nước. Ví dụ, ở các bộ, các lực là cơ sở làm xuất hiện tham nhũng và các
ngành, các hội đồng khoa học được thành cơ cấu maphia trong quản lý nhà nước.
lập. Thông thường, các cơ cấu đó được tổ
chức và hoạt động dựa vào các văn bản
quy phạm pháp luật nào đó của Nhà nước,
nhưng những người hoạt động chính trong
các hội đồng đó là “những người hoạt động
xã hội” (các nhà khoa học, các nhà quản lý -
thực tiễn) làm việc dựa vào các nguyên tắc
xã hội.
Nếu như dựa vào việc phân loại đã được
phân tích ở trên thì những cơ cấu nhà nước
và quản lý bán nhà nước, kinh doanh nói
trên là các cơ cấu vận động hành lang khác
thuộc loại thứ hai, tức là những người vận
động hành lang “bên trong”. Ở nước ta hiện
nay những người vận động hành lang kiểu
này đang được hình thành và có ảnh hưởng
lớn.
Ở nước ta có cả những người vận động
hành lang – tình nguyện. Họ bảo vệ lợi ích
của những nhóm xã hội khác nhau có tổ
chức nhỏ. Nhưng sự ảnh hưởng của họ đến
các cơ quan nhà nước, cũng giống như ở các
nước khác là không đáng kể.
Nói về những người vận động hành
lang - hợp đồng (“những người làm thuê”)
thì hiện nay ở nước ta nhóm vận động hành
lang này chưa có bởi chưa có cơ sở pháp luật
tương ứng cho hoạt động của họ. Nếu như
có quy định pháp luật cho loại hoạt động đó
thì các nhóm vận động hành lang (các nhóm
gây áp lực) được hình thành trên cơ sở hợp
đồng sẽ trở thành hiện thực ở nước ta.
Trong số các nhóm gây áp lực bất hợp
pháp (các nhóm vận động hành lang bất hợp
pháp) thì các nhóm tội phạm có sử dụng
sự mua chuộc và đe doạ có số lượng lớn
và có ảnh hưởng nhất. Các hình thức mua
chuộc các cán bộ, công chức nhà nước là rất
Trong số các nhóm vận động hành lang
bất hợp pháp (các nhóm gây áp lực bất hợp
pháp), ngoài các nhóm tội phạm còn có cả
các nhóm không phải là nhóm tội phạm.
Thông thường, chúng có tổ chức yếu, hoạt
động theo xung động, phần lớn mang tính
chất cục bộ và nhằm giải quyết những vấn
đề riêng nào đó. Ví dụ, “các nhóm sáng kiến”
khác nhau có thể đấu tranh vì sự cải thiện
dịch vụ giao thông, cung cấp nước, cung cấp
điện…
Như vậy, cho dù còn có nhiều hạn chế
nhưng cơ chế hoạt động vận động hành lang
đang được hình thành của các nhà quản lý,
các nhà kinh doanh, của các cơ quan thuộc
quyền hành pháp, của các cơ cấu khác nhau
bên cạnh Nhà nước đã được vận hành. Cho
dù chưa có luật để trật tự hoá hoạt động của
tất cả các nhóm lợi ích đó, nhưng đã có thực
tiễn hoạt động vận động hành lang. Thực
tiễn đó do nhiều nhóm vận động hành lang
tạo ra và các nhóm đó thực hiện một cách
có hiệu quả các nhiệm vụ của mình trong
các cơ quan quyền lực nhà nước. Chủ nghĩa
vận động hành lang với tư cách là một hiện
tượng quản lý đã bắt đầu được hình thành
ở nước ta. Nhiệm vụ ở chỗ là làm sao để các
hình thức hợp pháp của nó phải được đặt
trên cơ sở pháp luật và ngược lại phải tăng
cường đấu tranh bằng pháp luật với các hình
thức phạm tội, bất hợp pháp.
Tất cả những điều nói trên cho phép kết
luận rằng, các tổ chức xã hội ở Việt Nam hiện
đang ở trong quá trình hình thành và phát
triển mạnh mẽ. Theo mức độ hình thành và
phát triển các tổ chức đó ngày càng thể hiện
rõ hơn về mình và điều đó được thể hiện,
một mặt, trong các hoạt động đối trọng khác
đa dạng: Đưa hối lộ một lần, trả tiền hàng nhau của các nhóm lợi ích có tổ chức phản
tháng, quà tặng, cho vay tiền, dịch vụ, trả ứng lại các cơ quan quyền lực nhà nước; mặt
tiền chữa bệnh, du lịch, các chi phí đi lại… khác, trong sự mong muốn hợp tác mang
Sự đe doạ cũng có thể được thực hiện một tính chất xây dựng của phần lớn các nhóm
cách khác nhau: Đe doạ làm ảnh hưởng đến đó với tất cả các cơ quan quyền lực nhà nước
đường công danh, đe doạ sự bình yên của ở các cấp khác nhau.
Số 04 - 2021
Khoa học Kiểm sát 11
VẬN ĐỘNG HÀNH LANG: NHÌN TỪ CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT
4. Chính sách pháp luật về vận động và của công dân, xây dựng và phát triển nhà
hành lang
nước pháp quyền, hình thành và xây dựng
xã hội pháp quyền, xây dựng và phát triển
văn hoá pháp quyền và đời sống pháp luật
của xã hội và của cá nhân. Chính sách pháp
luật luận giải mục tiêu, quan điểm, nội dung,
các phương tiện, các hình thức thực hiện, các
Vận động hành lang là vấn đề của chính sách
pháp luật
Vấn đề đặt ra: Vận động hành lang có thể, có
phải, cần phải là một vấn đề của chính sách pháp
luật hay không?
Trong các lĩnh vực khác nhau của đời loại và các cấp độ chính sách pháp luật.
sống xã hội, có các loại chính sách khác nhau:
Chính sách kinh tế, chính sách xã hội, chính
sách văn hoá, chính sách môi trường, chính
sách khoa học và công nghệ, chính sách giáo
dục và đào tạo, chính sách dân tộc, chính sách
tôn giáo, chính sách thanh thiếu niên, chính
sách dân số, chính sách thông tin, chính sách
quốc phòng, chính sách an ninh, chính sách
đối ngoại, chính sách pháp luật và các loại
chính sách khác. Chính sách pháp luật xuyên
suốt các loại chính sách nói trên, là nền tảng
pháp luật của các loại chính sách khác và là
loại chính sách mà với sự trợ giúp của nó, tất
cả các loại chính sách nói trên được đưa vào
cuộc sống thông qua các phương tiện của
chính sách pháp luật (chẳng hạn, thông qua
các văn bản pháp luật và các phương tiện
pháp luật khác).
Chính sách pháp luật là chính sách trong
lĩnh vực đời sống pháp luật, là hoạt động
hướng đến nâng cao chất lượng đời sống
pháp luật, là hoạt động thể hiện thái độ của
các chủ thể của chính sách pháp luật đối
với những vấn đề quan trọng nhất của phát
triển đời sống pháp luật, đối với sự đổi mới
những bộ phận quan trọng của nó, là hoạt
động được thực hiện với sự trợ giúp của các
phương tiện pháp luật, là hoạt động gắn liền
với việc soạn thảo và thực hiện các tư tưởng,
các quan điểm pháp luật mang tính chất
chiến lược và sách lược, là hoạt động chủ
yếu do các chủ thể trong đời sống chính trị
và pháp luật của xã hội thực hiện.
Mọi vấn đề nảy sinh trong quá trình phát
triển xã hội có tính chất pháp lý, sớm hay
muộn, đều trở thành vấn đề của chính sách
pháp luật, tiếp đến, được pháp luật điều
chỉnh. Chính sách pháp luật nói chung, vấn
đề của chính sách pháp luật nói riêng hay
nói cách khác, nhu cầu điều chỉnh pháp luật
bao giờ cũng có trước pháp luật thực chứng.
Nhu cầu điều chỉnh pháp luật nảy sinh một
cách khách quan trong xã hội, trong tiến trình
phát triển xã hội, được các chủ thể trong xã
hội nhận thức, luận giải, trước hết, với tư
cách là một vấn đề của chính sách pháp luật,
tiếp đến, cụ thể hoá nội dung của nó trong
chính sách pháp luật, sau đó được thể chế
hoá thành pháp luật thực chứng.
Theo logic đó, vận động hành lang với
nhiều tư cách: Là một hiện tượng, là một quá
trình, là một hoạt động, là một lĩnh vực, nảy
sinh một cách khách quan trong đời sống xã
hội, trong tiến trình phát triển xã hội, vừa
độc lập, vừa gắn liền với các hiện tượng, quá
trình, hoạt động, lĩnh vực khác của đời sống
xã hội. Vận động hành lang, với tư cách như
vậy, vừa mang tính chất chính trị, vừa mang
tính chất xã hội, vừa mang tính chất quản
lý, vừa mang tính chất pháp lý. Do đó, vận
động hành lang là một vấn đề của chính sách
pháp luật ở nước ta hiện nay.
Mục tiêu của chính sách pháp luật về vận
động hành lang
Mục tiêu trong chính sách là kết quả lý
tưởng, kết quả mong muốn mà vì nó hoạt
động chính sách được thực hiện. Mục tiêu
của chính sách pháp luật về vận động hành
lang là định hướng quan trọng nhất đối với
các nhà chính sách, định hướng bao quát các
mong muốn, các mong đợi, các ý định đa cấp
Chính sách pháp luật luận giải và đưa ra
quan điểm về nhu cầu xây dựng cơ chế điều
chỉnh pháp luật có hiệu quả nói chung, về
nhu cầu xây dựng cơ chế điều chỉnh pháp
luật cụ thể có hiệu quả nói riêng, sử dụng
văn minh các phương tiện pháp luật để phát
triển pháp luật nhằm bảo đảm, bảo vệ đầy
đủ nhất các quyền và tự do của con người độ, phản ánh các nhu cầu và lợi ích đa dạng
12 Khoa học Kiểm sát
Số 04 - 2021
VÕ KHÁNH VINH
của họ2. Mục tiêu của chính sách pháp luật
Nội dung của chính sách pháp luật về vận
về vận động hành lang là xây dựng cơ chế động hành lang
điều chỉnh pháp luật có hiệu quả, sử dụng
văn minh các phương tiện pháp luật (thể chế
hoá những vấn đề quan trọng, cơ bản) về
vận động hành lang để công khai hoá, minh
bạch hoá, hợp pháp hoá vận động hành lang,
làm thoả mãn các lợi ích khác nhau đang tồn
tại trong xã hội Việt Nam. Điều đó có nghĩa
là mục tiêu của chính sách pháp luật về vận
động hành lang là tạo ra cơ sở pháp luật đầy
đủ cho vận động hành lang.
Nội dung của chính sách pháp luật là xây
dựng cơ chế điều chỉnh pháp luật có hiệu quả,
sử dụng văn minh các phương tiện (công cụ)
pháp luật để đạt được các mục tiêu đã được
đề ra. Điều đó có nghĩa rằng, chính sách pháp
luật bao trùm toàn bộ cơ chế điều chỉnh pháp
luật và các bộ phận cấu thành cơ chế đó, bao
quát toàn bộ đời sống pháp luật của xã hội
và các lĩnh vực cụ thể của đời sống pháp luật
(lĩnh vực xây dựng pháp luật, lĩnh vực áp
dụng pháp luật, lĩnh vực giáo dục và đào tạo
pháp luật, lĩnh vực ý thức pháp luật, lĩnh vực
học thuật pháp lý, lĩnh vực hợp tác quốc tế và
hội nhập về pháp luật và các lĩnh vực khác
của đời sống pháp luật). Chính sách pháp
luật sử dụng một cách văn minh, có trí tuệ
các phương tiện pháp luật, tức là phát huy tối
đa các tiềm năng, khả năng, vai trò, sứ mệnh,
chức năng của các công cụ pháp luật để hiện
thực hoá các mục tiêu đã được đề ra4.
Từ nhận thức trên về nội dung của chính
sách pháp luật nói chung, có thể khẳng định
rằng, nội dung của chính sách pháp luật về
vận động hành lang là xây dựng cơ chế điều
chỉnh pháp luật về vận động hành lang và
xây dựng các bộ phận cấu thành cơ chế đó,
bao quát lĩnh vực pháp luật về vận động
hành lang. Tiếp đến, nội dung của chính sách
pháp luật về vận động hành lang thể hiện ở
việc sử dụng một cách văn minh, có trí tuệ
các phương tiện pháp luật để hiện thực hoá
mục tiêu đã được đề ra.
Quan điểm của chính sách pháp luật về vận
động hành lang
Chính sách pháp luật nói chung, chính
sách pháp luật về vận động hành lang nói
riêng bao gồm nhiều tầng, trong đó có tầng
các quan điểm3. Quan điểm của chính sách
pháp luật về vận động hành lang, về thực
chất, là các nguyên tắc của chính sách pháp
luật về vận động hành lang. Chính sách
pháp luật về vận động hành lang bao gồm
nhiều tầng, trong đó có tầng các quan điểm.
Các quan điểm pháp luật về vận động hành
lang là tầng sâu nhất của chính sách pháp
luật về vận động hành lang. Chính sách
pháp luật về vận động hành lang được xây
dựng và thực hiện dựa trên các nguyên tắc
nhất định. Chất lượng và hiệu quả của hoạt
động xây dựng và thực hiện chính sách pháp
luật về vận động hành lang ở chừng mực rất
lớn tuỳ thuộc vào khả năng áp dụng một cách
văn minh, thành thạo các nguyên tắc của các
chủ thể chính sách pháp luật. Các nguyên
tắc của chính sách pháp luật về vận động
hành lang không chỉ là những định hướng
đối với những người xây dựng và tổ chức
thực hiện chính sách pháp luật về vận động
hành lang mà còn là tiêu chuẩn đánh giá hoạt
động của các chủ thể chính sách. Chính sách
pháp luật về vận động hành lang cần phải
dựa vào các nguyên tắc sau đây: i) Tính được
lập luận khoa học; ii) Tính hệ thống; iii) Tính
nhất quán; iv) Tính hướng đích; v) Dự báo;
vi) Tính hiện thực.
Các phương tiện thực hiện chính sách pháp
luật về vận động hành lang
Các phương tiện là một bộ phận cấu
thành, một nội dung quan trọng của mọi
chính sách. Phương tiện chính sách gắn liền
chặt chẽ với mục tiêu và nội dung của chính
sách. Các phương tiện trong chính sách là các
công cụ và kỹ thuật học được sử dụng để thực
hiện các ý tưởng chính sách, biến các mong
muốn mang tính lý tưởng thành các hành
động và kết quả hiện thực. Giữa các mục tiêu
và các phương tiện thực hiện chính sách có sự
phụ thuộc lẫn nhau, sự tác động đặc thù. Một
2ꢀ Võ Khánh Vinh, Chính sách pháp luật: Những vấn đề
lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật,
Hà Nội, 2020, tr. 219 – 239.
3ꢀ Võ Khánh Vinh, tlđd, tr. 263 – 276.
4ꢀ Võ Khánh Vinh, tlđd, tr.129.
Số 04 - 2021
Khoa học Kiểm sát 13
VẬN ĐỘNG HÀNH LANG: NHÌN TỪ CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT
mặt, mục tiêu phần lớn quyết định trước các chế độ pháp luật được sử dụng rất rộng rãi
phương tiện được sử dụng. Mục tiêu tốt đẹp và tích cực với tư cách là phương tiện tổng
hợp là những sự cho phép, các nghĩa vụ, các
điều cấm, các ưu đãi, các khuyến khích, các
hình phạt, các biện pháp tạm dừng, v.v… để
đạt được những mục tiêu nhất định đã được
đặt ra10. Các văn bản pháp luật được sử dụng
để hiện thực hoá và thực hiện chính sách
pháp luật bao gồm: Các văn bản quy phạm
pháp luật, các văn bản giải thích pháp luật,
các văn bản áp dụng pháp luật, các tài liệu
pháp luật và các văn bản pháp luật khác.
Chính sách pháp luật về vận động hành
làm gia tăng giá trị cho các phương tiện đầy
đủ và hiện thực được sử dụng để đạt được
mục tiêu. Mục tiêu chân chính được thể hiện
trong các phương tiện được sử dụng. Mặt
khác, các phương tiện khi đã ảnh hưởng đến
kết quả đạt được quyết định tính hiện thực
hoặc tính không tưởng của mục tiêu, chỉnh
sửa các chỉ số cơ bản của mục tiêu, đến việc
khước từ các lý tưởng mà hiện nay chưa thể
đạt được. Thông thường, không phải mục
tiêu mà là phương tiện được sử dụng khi thực
hiện mục tiêu mới đem đến kết quả khách lang, với tư cách là một loại hay một nội dung
của chính sách pháp luật, đều sử dụng các
phương tiện pháp luật nói trên để hiện thực
hoá chính sách đó. Tuy nhiên, các phương
tiện nói trên được sử dụng tuỳ thuộc vào
mục tiêu, nội dung của chính sách pháp luật
về vận động hành lang.
quan. Sự không phù hợp của phương tiện với
mục tiêu thường dẫn đến sự khác nhau cơ
bản của mục tiêu và kết quả thu nhận được,
và điều đó, theo nguyên lý về mối liên hệ, tác
động trở lại, làm huỷ hoại chính mục tiêu.
Phương tiện giết chết mục tiêu, nếu phương
tiện không đúng và không hợp pháp. Nghệ
thuật của chính sách thể hiện ở việc có khả
năng đo lường mục tiêu và phương tiện của
nó, ở việc có khả năng sử dụng tối ưu phương
tiện này hay phương tiện khác để đạt được
mục tiêu cụ thể. Phương tiện phải có văn hoá,
hợp pháp, hợp lý, xác đáng5.
Các phương tiện của chính sách pháp luật
là các công cụ và các hành vi được sử dụng
để đạt được các mục tiêu và các nhiệm vụ
của chính sách pháp luật, để thực hiện trên
thực tế các tư tưởng pháp luật mang tính
chiến lược6. Chính sách pháp luật sử dụng
chế độ pháp luật với tư cách là một phương
tiện tổng hợp của chính sách pháp luật7, các
văn bản pháp luật với tư cách là phương tiện
quan trọng nhất của chính sách pháp luật8.
Chế độ pháp luật là trật tự điều chỉnh pháp
luật đặc biệt thể hiện sự kết hợp nhất định
các phương tiện pháp lý để tạo ra trạng thái
xã hội mong muốn và mức độ thuận lợi hoặc
không thuận lợi cụ thể đối với việc làm thoả
mãn các lợi ích của các chủ thể của pháp luật9.
Trong phạm vi của chính sách pháp luật, các
Các hình thức thực hiện chính sách pháp luật
về vận động hành lang
Chính sách pháp luật trở thành chính
sách pháp luật “sống” chỉ khi chính sách đó
được thể hiện trong hiện thực, được thực
hiện, được hiện thực hoá trong các hoạt
động có ý thức, có ý chí của mọi người.
Thực hiện chính sách pháp luật được nhận
thức cả với tư cách là một quá trình, lẫn với
tư cách là kết quả cuối cùng của quá trình đó.
Với tư cách là một quá trình, thực hiện chính
sách pháp luật có thể được hiểu là quá trình
nhất định, được quy định chặt chẽ của việc
hình thành chính sách, thực thi các quy định
chính sách, của việc thể hiện các quy định đó
trong hành vi của mọi người. Quá trình đó
được bắt đầu, được khởi động từ khi xuất
hiện nhu cầu điều chỉnh pháp luật, nhu cầu
cần phải có chính sách pháp luật, tiếp đến
nhu cầu đó được các chủ thể nhận thức. Với
tư cách là kết quả cuối cùng của một quá trình,
thực hiện chính sách pháp luật được hiểu là
việc đạt được sự phù hợp đầy đủ giữa các
đòi hỏi của chính sách pháp luật về việc thực
hiện những hành vi của mọi người. Theo đó,
thực hiện chính sách pháp luật được thể hiện
với tư cách là hoạt động, hành vi mà ở đó
các quy định của chính sách pháp luật (hành
5ꢀ Võ Khánh Vinh, tlđd, tr. 277 – 283.
6ꢀ Võ Khánh Vinh, tlđd, 2020, tr.283.
7ꢀ Võ Khánh Vinh, tlđd, tr.289 – 303.
8ꢀ Võ Khánh Vinh, tlđd, tr.303 – 319.
9ꢀ Võ Khánh Vinh, tlđd, tr.293.
10ꢀ Võ Khánh Vinh, tlđd, tr.303.
14 Khoa học Kiểm sát
Số 04 - 2021
VÕ KHÁNH VINH
vi hợp pháp), hoạt động thực tiễn của mọi
5.3. Cơ chế tác động của xã hội đến sự lãnh
người trong việc thực thi các quyền và nghĩa đạo chính trị và đến bộ máy các cơ quan nhà
vụ pháp lý được thể hiện.
nước được thể hiện như sau: Các nhóm lợi ích
có tổ chức thành lập ra các nhóm vận động
hành lang (các nhóm gây áp lực), đưa các lợi
ích “cương lĩnh” và “đặc thù” của mình đến
với các đảng chính trị và các nhóm vận động
hành lang (các nhóm gây áp lực) tổng kết, tập
hợp các đòi hỏi đó, đưa chúng vào trong các
chương trình chung và vận động sự ủng hộ
đối với các đòi hỏi đó. Các cơ quan nhà nước
chuyển tải các đòi hỏi đó vào trong chính sách
của Nhà nước và các đạo luật, sau đó tổ chức
thực hiện chính sách và các đạo luật đó.
5.4. Trong quá trình đổi mới ở xã hội Việt
Nam, các nhóm lợi ích có tổ chức đang được
hình thành. Theo từng mức độ hình thành,
các nhóm đó bắt đầu thể hiện ngày càng rõ
hơn về mình và điều đó được thể hiện, một
mặt, ở các hoạt động xã hội đối trọng khác
nhau của các nhóm lợi ích có tổ chức phản
ứng lại các cơ quan quyền lực nhà nước, và
mặt khác, ở sự mong muốn hợp tác mang
tính chất xây dựng của phần lớn các nhóm
đó với tất cả các cơ quan quyền lực nhà nước
ở các cấp khác nhau, đóng góp cho sự phát
triển đất nước.
Chính sách pháp luật “đi ra” và “đi vào”
đời sống xã hội, đời sống pháp luật với sự hỗ
trợ hay thông qua các hình thức khác nhau,
và do vậy, có thể gọi đó là các hình thức thực
hiện chính sách pháp luật. Các hình thức thực
hiện chính sách pháp luật là các phương thức
hình thành và đưa chính sách pháp luật vào
đời sống pháp luật. Mỗi hình thức là một loại
hoạt động có kết quả nhất định trong cấu
thành của chính sách pháp luật. Chính sách
pháp luật, theo quan điểm của chúng tôi,
được thực hiện bằng hoặc thông qua các hình
thức cơ bản sau đây: Hình thức học thuyết
pháp luật; hình thức xây dựng pháp luật; hình
thức giải thích pháp luật; hình thức áp dụng
pháp luật; hình thức giáo dục và đào tạo pháp
luật11. Theo logic đó, chính sách pháp luật về
vận động hành lang cũng được thực hiện
bằng hoặc thông qua các hình thức như vậy.
5. Kết luận
5.1. Các nhóm lợi ích có tổ chức là các
cộng đồng xã hội làm thoả mãn một cách
tích cực các lợi ích riêng của mình với sự hỗ
trợ của sự tác động có tính hướng đích đến
các cơ quan nhà nước hoặc đến những người
có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan
đó. Theo cấu thành của mình, các nhóm lợi
ích có tổ chức thường có số lượng rất đông,
nhưng đôi khi cũng có số lượng không lớn.
Các nhóm lợi ích có tổ chức được phân thành
hai phạm trù: Các nhóm lợi ích xã hội và các
nhóm lợi ích đặc thù.
5.5. Vận động hành lang đã trở thành vấn
đề của chính sách pháp luật. Đã đến lúc cần
phải có chính sách pháp luật về vận động
hành lang. Chính sách pháp luật về vận động
hành lang xác định nhu cầu, mục tiêu, quan
điểm, nội dụng, phương tiện, hình thức thực
hiện chính sách đó về vận động hành lang,
làm cơ sở chính sách cho việc nghiên cứu,
5.2. Các nhóm gây áp lực là các cơ cấu xây dựng và ban hành Luật về Vận động
quản lý có số lượng không lớn do các nhóm hành lang ở nước ta./.
lợi ích có tổ chức thành lập ra để đại diện
TÀI LIỆU THAM KHẢO
và bảo vệ lợi ích của họ trong các cơ quan
quyền lực nhà nước. Trong thời gian gần
đây, các nhóm đó thường được gọi là “các
nhóm vận động hành lang”, do vậy, chính
quá trình gây áp lực đó được gọi là “việc vận
động hành lang”. Các nhóm vận động hành
lang thường được phân thành các nhóm vận
động hành lang hợp pháp và các nhóm vận
động hành lang không hợp pháp.
1. Võ Khánh Vinh, Các nhóm lợi ích có tổ chức, vận
động hành lang và sự hình thành chính sách của Nhà nước,
Tài liệu Hội thảo: Vận động hành lang: Thực tiễn và
Pháp luật.
2. Võ Khánh Vinh, Lợi ích xã hội và pháp luật, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2003.
3. Võ Khánh Vinh, Chính sách pháp luật: Những vấn đề
lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2020.
4. Tài liệu Hội thảo: Vận động Hành lang: Thực
tiễn và Pháp luật.
11ꢀ Võ Khánh Vinh, tlđd, tr.335 – 482.
5. Politics in America State, 5th edit, New York, 1990.
Số 04 - 2021
Khoa học Kiểm sát 15
Bạn đang xem tài liệu "Vận động hành lang: Nhìn từ chính sách pháp luật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
van_dong_hanh_lang_nhin_tu_chinh_sach_phap_luat.pdf