Tiểu luận Lý luận chủ nghĩa tư bản độc quyền và ý nghĩa trong việc hình thành cộng đồng Asean

BKGALLERY  
Tiểu luận:  
luận Chủ nghĩa tư bản độc quyền và ý nghĩa trong việc hình thành cộng đồng ASEAN.  
==================================================================  
Mở đầu  
1.Lý do chọn đề tài  
Tiếp theo giai đoạn cạnh tranh tự do, chủ nghĩa tư bản phát triển lên giai đoạn cao  
hơn là giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Thực chất, đây những nấc thang mới  
trong quá trình phát triển điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản về cả lực lượng sản xuất  
và quan hệ sản xuất để thích ứng với những biến động mới trong tình hình kinh tế -chính  
trị thế giới cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX cho đến nay.  
Việt Nam, từ sau đại hội VI năm 1986 của Đảng, chúng ta đã thực hiện chính sách mở  
cửa, mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh  
toàn cầu hoàn diễn ra mạnh mẽ, khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin phát triển như vũ bão,  
kinh tế công nghiệp đang chuyển dần sang kinh tế tri thức, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của  
Đảng, chúng ta đã vận dụng rất linh hoạt, thành công những luận về chủ nghĩa tư bản độc  
quyền trong việc điều hành nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần. Đồng thời  
phát triển hơn nữa trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới hiện nay.  
bài tiếu luận này tôi sẽ phân tích đề tài “luận Chủ nghĩa tư bản độc quyền và ý nghĩa  
trong việc hình thành cộng đồng ASEAN” để thể hiểu hơn về chủ nghĩa tư bản độc  
quyền ở đất nước ta hiện nay.  
2.Tổng quan đề tài  
Chủ nghĩa tư bản độc quyền một đề tài hay và mang tính thời sự cũng như cấp thiết  
hiện nay. Đã rất nhiều những bài báo, trang thông tin nói tới vấn đề này, không những  
trong nước mà ngay cả các nước khác trên thế giới.  
3.Mục đích nghiên cứu đề tài  
Nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề chủ nghĩa tư bản độc quyền ở Việt Nam. Đánh giá  
tình hình thế giới đất nước hiện nay và liên hệ với việc hình thành cộng đồng ASEAN.  
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, bài tiểu luận nhiệm vụ:  
+Phân tích về chủ nghĩa tư bản chủ nghĩa tư bản độc quyền.  
+Đánh giá tình hình khu vực Việt Nam trong việc hình thành cộng đồng ASEAN.  
4.Phạm vi nghiên cứu:  
Vấn đề chủ nghĩa tư bản độc quyền một vấn đề rộng. Trong phạm vi của tiểu luận,  
bản thân chỉ nghiên cứu một số nột dung chủ yếu về chủ nghĩa tư bản nói chung và chủ  
nghĩa tư bản độc quyền nói riêng, cũng như đi sâu vào phân tích và nhận xét về việc  
hình thành khối cộng đồng ASEAN  
5.Phương pháp nghiên cứu  
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Leenin, Chính sách của Nhà nước, của  
Đảng Cộng Sản Việt Nam là cơ sở phương pháp luận định hướng nghiên cứu.  
Ngoài các phương pháp luận, bài tiểu luận sử dụng các phương pháp cụ thể, chú  
trọng phương pháp lịch sử kết hợp với logic, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kế,  
khảo sát và tổng kết thực tiễn,...  
BKGALLERY  
6.Đóng góp của tiểu luận  
Góp phần làm hiểu sâu và rõ hơn về chủ nghĩa tư bản độc quyền ở Việt Nam cũng như  
khu vực hay thế giới.  
7.Kết cấu bài tiểu luận  
Bài tiểu luận được chia làm 2 chương với việc tìm hiểu và phân tích về chủ nghĩa tư  
bản độc quyền trong việc hình thành nên cộng đồng ASEAN.  
BKGALLERY  
Chương I  
Chủ Nghĩa Tư Bản Độc Quyền  
1.Sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh thành chủ nghĩa tư bản độc  
quyền  
Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C.Mác Ph.Ăngghen đã dự báo rằng:  
tự do cạnh tranh sinh ra tích tụ tập trung sản xuất, tích tụ tập trung sản xuất phát  
triển đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến độc quyền.  
Vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào điều kiện lịch sử mới của thế  
giới, V.I. Lênin đã chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa tư bản  
độc quyền, đồng thời Người nêu ra năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản  
độc quyền.  
Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do những  
nguyên nhân chủ yếu sau:  
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật đẩy  
nhanh quá trình tích tụ tập trung sản xuất, hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn.  
- Vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện như  
luyện kim mới Betsơme, Máctanh, Tômát... đã tạo ra sản lượng lớn gang thép với chất  
lượng cao; phát hiện ra hoá chất mới như axít sunphuaric (H2SO4), thuốc nhuộm...; máy  
móc mới ra đời: động cơ điêzen, máy phát điện, máy tiện, máy phay...; phát triển những  
phương tiện vận tải mới: xe hơi, tàu thuỷ, xe điện, máy bay... và đặc biệt đường sắt.  
Những thành tựu khoa học kỹ thuật này, một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất  
mới đòi hỏi nghiệp phải có quy mô lớn; mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động,  
tăng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn.  
BKGALLERY  
- Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của các quy luật kinh tế của  
chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy ... ngày càng mạnh mẽ, làm  
biến đổi cơ cấu kinh tế của hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.  
- Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô  
tích lũy để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt làm cho các nhà tư  
bản vừa nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát tài, làm giàu với số tư bản tập  
trung và quy mô xí nghiệp ngày càng to lớn.  
- Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa làm phá sản  
hàng loạt nghiệp vừa nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng quá trình tích tụ tập trung tư bản.  
- Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc  
đẩy tập trung sản xuất, nhất việc hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra  
đời của các tổ chức độc quyền.  
Từ những nguyên nhân trên, V.I. Lênin khẳng định: "... tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung  
sản xuất sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn tới  
độc quyền"  
2.Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền  
2.1.Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền  
Tích tụ tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền đặc  
điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.  
Trong những năm 1900, ở Mỹ, Đức, Anh, Pháp đều có tình hình là các xí nghiệp lớn chỉ  
chiếm khoảng 1% tổng số nghiệp nhưng chiếm hơn 3/4 tổng số máy hơi nước điện lực,  
gần một nửa tổng số công nhân và sản xuất ra gần một nửa tổng số sản phẩm. Sự tích tụ và  
tập trung sản xuất đến mức cao như vậy đã trực tiếp dẫn đến hình thành các tổ chức độc  
quyền. Bởi vì, một mặt, do có một số ít các xí nghiệp lớn nên có thể dễ dàng thoả thuận  
BKGALLERY  
với nhau; mặt khác, các xí nghiệp có quy mô lớn, kỹ thuật cao nên cạnh tranh sẽ rất gay  
gắt, quyết liệt, khó đánh bại nhau, do đó đã dẫn đến khuynh hướng thoả hiệp với nhau  
để nắm độc quyền.  
Tổ chức độc quyền tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào  
trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá nào đó nhằm mục đích  
thu được lợi nhuận độc quyền cao.  
Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hoá, các liên minh độc quyền hình thành theo  
liên kết ngang, nghĩa mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành,  
nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên  
kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau. Những hình thức độc quyền cơ bản là:  
cácten, xanhđica, tờrớt, côngxoócxiom, cônggơlômêrát.  
- Cácten là hình thức tổ chức độc quyền giữa các nhà tư bản hiệp nghị thoả thuận với  
nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán... Các nhà tư  
bản tham gia cácten vẫn độc lập về sản xuất thương nghiệp. Họ chỉ cam kết làm đúng  
hiệp nghị, nếu làm sai sẽ bị phạt tiền theo quy định của hiệp nghị. vậy, cácten là liên  
minh độc quyền không vững chắc. Trong nhiều trường hợp, những thành viên thấy ở vào  
vị trí bất lợi đã rút ra khỏi cácten, làm cho cácten thường tan vỡ trước kỳ hạn.  
- Xanhđica là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn cácten. Các xí nghiệp  
tham gia xanhđica vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ mất độc lập về lưu thông: mọi việc  
mua - bán do một ban quản trị chung của xanhđica đảm nhận. Mục đích của xanhđica là  
thống nhất đầu mối mua và bán để mua nguyên liệu với giá rẻ, bán hàng hoá với giá đắt  
nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.  
- Tờrớt một hình thức độc quyền cao hơn cácten và xanhđica, nhằm thống nhất cả việc  
sản xuất, tiêu thụ, tài vụ đều do một ban quản trị quản lý. Các nhà tư bản tham gia tờrớt  
trở thành những cổ đông thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần.  
BKGALLERY  
- Côngxoócxiom là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn các hình  
thức độc quyền trên. Tham gia côngxoócxiom không chỉ có các nhà tư bản lớn mà còn có  
cả các xanhđica, tờrớt, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với nhau về kinh tế,  
kỹ thuật. Với kiểu liên kết dọc như vậy, một côngxoócxiom có thể có hàng trăm nghiệp  
liên kết trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài chính vào một nhóm tư bản kếch sù.  
2.2.Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính  
Cùng với quá trình tích tụ tập trung sản xuất, trong công nghiệp cũng diễn ra quá  
trình tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng, dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền  
trong ngân hàng. Quy luật tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng cũng giống như trong  
công nghiệp, do quá trình cạnh tranh các ngân hàng vừa nhỏ bị thôn tính, dẫn đến  
hình thành những ngân hàng lớn. Khi sản xuất trong ngành công nghiệp tích tụ ở mức độ  
cao, thì các ngân hàng nhỏ không đủ tiềm lực và uy tín phục vụ cho công việc kinh doanh  
của các xí nghiệp công nghiệp lớn. Các tổ chức độc quyền này tìm đến các ngân hàng  
lớn hơn thích hợp với các điều kiện tài chính và tín dụng của mình. Trong điều kiện đó,  
các ngân hàng nhỏ phải tự sáp nhập vào các ngân hàng mạnh hơn hoặc phải chấm dứt  
sự tồn tại của mình trước quy luật khốc liệt của cạnh tranh. Quá trình này đã thúc đẩy các  
tổ chức độc quyền ngân hàng ra đời.  
- Sự xuất hiện, phát triển của các độc quyền trong ngân hàng đã làm thay đổi quan hệ giữa tư  
bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, làm cho ngân hàng bắt đầu có vai trò mới. Ngân hàng  
từ chỗ chỉ kẻ trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay đã nắm được hầu hết tư bản  
tiền tệ của hội nên có quyền lực vạn năng, khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế hội  
tư bản. Dựa trên địa vị người chủ cho vay, độc quyền ngân hàng cử đại diện của nó vào các  
quan quản của độc quyền công nghiệp để theo dõi việc sử dụng tiền vay, hoặc các tổ  
chức độc quyền ngân hàng còn trực tiếp đầu tư vào công nghiệp. Trước sự khống chế và chi  
phối ngày càng xiết chặt của ngân hàng, một quá trình xâm nhập tương  
BKGALLERY  
ứng trở lại của các độc quyền công nghiệp vào ngân hàng cũng diễn ra. Các tổ chức độc  
quyền công nghiệp cũng tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách mua cổ phần  
của ngân hàng lớn để chi phối hoạt động của ngân hàng, hoặc lập ngân hàng riêng phục vụ  
cho mình. Quá trình độc quyền hoá trong công nghiệp và trong ngân hàng xoắn xuýt với  
nhau và thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một thứ tư bản mới, gọi tư bản tài chính.  
V.I. Lênin nói: "tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của một  
số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc quyền các nhà  
công nghiệp"  
Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền chi  
phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản gọi bọn đầu sỏ tài chính.  
- Bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua chế độ tham dự. Thực  
chất của chế độ tham dự một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài chính nhờ số  
cổ phiếu khống chế nắm được một công ty lớn nhất với tư cách là công ty gốc (hay là  
"công ty mẹ"); công ty này lại mua được cổ phiếu khống chế, thống trị được công ty khác,  
gọi là "công ty con"; "công ty con" đến lượt lại chi phối các "công ty cháu" cũng bằng  
cách như thế... Nhờ chế độ tham dự phương pháp tổ chức tập đoàn theo kiểu móc  
xích như vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, các nhà tư bản độc quyền tài chính có  
thể khống chế điều tiết được một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.  
Ngoài "chế độ tham dự", bọn đầu sỏ tài chính còn sử dụng những thủ đoạn như lập công  
ty mới, phát hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán ở sở giao dịch,  
đầu cơ ruộng đất... để thu được lợi nhuận độc quyền cao.  
- Thống trị về kinh tế cơ sở để bọn đầu sỏ tài chính thống trị về chính trị và các mặt  
khác. Về mặt chính trị, bọn đầu sỏ tài chính chi phối mọi hoạt động của các quan nhà  
nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi ích cho chúng. Sự thống trị của  
bọn tài phiệt đã làm nảy sinh chủ nghĩa phátxít, chủ nghĩa quân phiệt nhiều thứ chủ  
nghĩa phản động khác, cùng chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược để áp bức, bóc  
lột các nước đang phát triển chậm phát triển.  
BKGALLERY  
3.Xuất khẩu tư bản  
V.I. Lênin vạch ra rằng, xuất khẩu hàng hoá là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư bản  
tự do cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền.  
- Xuất khẩu tư bản xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm  
mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác các nước nhập khẩu  
tư bản.  
- Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu vì:  
+ Một số ít nước phát triển đã tích lũy được một khối lượng tư bản lớn và có một số "tư bản  
thừa" tương đối cần tìm nơi đầu tư nhiều lợi nhuận hơn so với đầu tư ở trong nước.  
+ Nhiều nước lạc hậu về kinh tế bị lôi cuốn vào sự giao lưu kinh tế thế giới nhưng lại rất  
thiếu tư bản, giá ruộng đất tương đối hạ, tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ, nên tỷ suất lợi  
nhuận cao, rất hấp dẫn đầu tư tư bản.  
- Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu: đầu tư trực tiếp đầu tư  
gián tiếp.  
+ Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những nghiệp mới hoặc  
mua lại những nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành một chi  
nhánh của công ty mẹ ở chính quốc. Các xí nghiệp mới hình thành thường tồn tại dưới  
dạng hỗn hợp song phương hoặc đa phương, nhưng cũng những nghiệp toàn bộ  
vốn của công ty nước ngoài.  
+ Đầu tư gián tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản dưới dạng cho vay thu lãi. Đó là hình  
thức xuất khẩu tư bản cho vay.  
- Thực hiện các hình thức xuất khẩu tư bản trên, xét về chủ sở hữu tư bản, thể phân  
tích thành xuất khẩu tư bản tư nhân và xuất khẩu tư bản nhà nước.  
+ Xuất khẩu tư bản nhà nước là nhà nước tư bản độc quyền dùng nguồn vốn từ ngân quỹ  
của mình, tiền của các tổ chức độc quyền để đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản; hoặc  
viện trợ có hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị  
và quân sự.  
Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc kết cấu hạ  
tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư của tư bản tư nhân. Nhà nước tư bản viện  
trợ không hoàn lại cho nước nhập khẩu tư bản để được những hiệp định thương mại  
đầu tư lợi...  
BKGALLERY  
Về chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản thường nhằm duy trì và bảo vệ chế độ chính trị  
"thân cận" đã bị lung lay các nước nhập khẩu tư bản, tăng cường sự phụ thuộc của các  
nước đó vào các nước đế quốc, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, tạo điều kiện cho tư  
nhân xuất khẩu tư bản.  
Về quân sự, viện trợ của tư bản nhà nước nhằm lôi kéo các nước phụ thuộc vào khối  
quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải cho các nước xuất khẩu lập căn cứ  
quân sự trên lãnh thổ của mình...  
+ Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu do tư bản tư nhân thực hiện. Hình  
thức này có đặc điểm cơ bản là nó thường được đầu tư vào những ngành kinh tế có vòng  
quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền cao, dưới hình thức các hoạt động  
cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia.  
Việc xuất khẩu tư bản sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài,  
là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, dịch của tư bản tài chính trên  
phạm vi toàn thế giới.  
4.Sự hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn  
chủ nghĩa tư bản độc quyền  
4.1.Quan hệ giữa độc quyền cạnh tranh  
Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do, độc quyền đối lập với cạnh tranh tự do. Nhưng sự  
xuất hiện của độc quyền không thủ tiêu được cạnh tranh, trái lại nó còn làm cho cạnh  
tranh trở nên đa dạng, gay gắt và có sức phá hoại to lớn hơn.  
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, không chỉ tồn tại sự cạnh tranh giữa những người  
sản xuất nhỏ, giữa những nhà tư bản vừa nhỏ như trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự  
do cạnh tranh, mà còn có thêm các loại cạnh tranh sau:  
- Một , cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các xí nghiệp ngoài độc quyền. Các  
tổ chức độc quyền tìm mọi cách chèn ép, chi phối, thôn tính các xí nghiệp ngoài độc  
quyền bằng nhiều biện pháp như: độc chiếm nguồn nguyên liệu, nguồn nhân công,  
phương tiện vận tải, tín dụng, hạ giá có hệ thống... để đánh bại đối thủ.  
- Hai là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. Loại cạnh tranh này có nhiều  
hình thức: cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền trong một ngành, kết thúc bằng một sự  
thoả hiệp hoặc bằng sự phá sản của một bên cạnh tranh; cạnh tranh giữa các tổ chức  
độc quyền khác ngành có liên quan với nhau về nguồn nguyên liệu, kỹ thuật...  
- Ba là, cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Những nhà tư bản tham gia  
cácten, xanhđica cạnh tranh với nhau để giành thị trường tiêu thụ lợi hoặc giành tỷ lệ  
sản xuất cao hơn. Các thành viên của tờrớt và côngxoócxiom cạnh tranh với nhau để  
chiếm cổ phiếu khống chế, từ đó chiếm địa vị lãnh đạo và phân chia lợi nhuận lợi hơn.  
BKGALLERY  
4.2.Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai  
đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền  
Các tổ chức độc quyền hình thành do chính sự vận động nội tại của chủ nghĩa tư bản sinh ra.  
Độc quyền biểu hiện mới, mang những quan hệ mới nhưng nó không vượt ra khỏi các quy  
luật của chủ nghĩa tư bản, chỉ sự tiếp tục mở rộng, phát triển những xu thế sâu sắc nhất  
của chủ nghĩa tư bản của nền sản xuất hàng hoá nói chung, làm cho các quy luật kinh tế  
của nền sản xuất hàng hoá và của chủ nghĩa tư bản những biểu hiện mới.  
- Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả độc quyền;  
giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền cao khi bán. Tuy nhiên, điều đó không  
nghĩa là trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa quy luật giá trị không còn hoạt động. Về  
thực chất, giá cả độc quyền vẫn không thoát ly và không phủ định cơ sở của nó là giá trị.  
Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền chẳng qua là chiếm đoạt  
một phần giá trị và giá trị thặng dư của những người khác. Nếu xem xét trong toàn bộ hệ  
thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thì tổng số giá cả vẫn bằng tổng số giá trị. Như vậy, nếu  
như trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh quy luật giá trị biểu hiện thành quy  
luật giá cả sản xuất, thì trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa quy luật giá trị biểu hiện thành  
quy luật giá cả độc quyền.  
- Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, quy luật giá trị thặng dư biểu hiện  
thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các  
tổ chức độc quyền thao túng nền kinh tế bằng giá cả độc quyền và thu được lợi nhuận  
độc quyền cao. Do đó quy luật lợi nhuận độc quyền cao chỉ là hình thức biểu hiện của  
quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.  
Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là lao động không công của công nhân các xí  
nghiệp độc quyền; một phần lao động không công của công nhân các xí nghiệp không  
độc quyền; một phần giá trị thặng dư của các nhà tư bản vừa nhỏ bị mất đi do thua  
thiệt trong cuộc cạnh tranh; lao động thặng dư đôi khi cả một phần lao động tất yếu  
của những người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản và các nước thuộc  
địa, phụ thuộc.  
Như vậy, sự biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa thành  
quy luật lợi nhuận độc quyền cao chỉ sự phản ánh quan hệ thống trị và bóc lột của tư bản  
độc quyền trong tất cả các ngành kinh tế của hội tư bản và trên toàn thế giới.  
BKGALLERY  
Chương II  
Ý nghĩa trong việc hình thành cộng đồng ASEAN  
Ngày 31-12-2015 đã ghi dấu một bước ngoặt lịch sử trong tiến trình phát triển của Hiệp hội  
Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) khi Cộng đồng ASEAN chính thức được thành lập.  
1.Chủ nghĩa tư bản độc quyền sự phân chia thế giới  
1.1.Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền  
Quá trình tích tụ tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cả về quy  
mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tập đoàn tư  
bản độc quyền và hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế.  
Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ thị trường trong nước luôn luôn gắn với  
thị trường ngoài nước. Đặc biệt trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, thị trường ngoài  
nước còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đế quốc. Một mặt, do lực lượng sản  
xuất phát triển cao đòi hỏi ngày càng phải nhiều nguồn nguyên liệu nơi tiêu thụ; mặt  
khác, do thèm khát lợi nhuận siêu ngạch thúc đẩy tư bản độc quyền tăng cường bành trướng  
ra nước ngoài, cần thị trường ổn định thường xuyên. V.I.Lênin nhận xét: "Bọn tư sản chia  
nhau thế giới, không phải do tính độc ác đặc biệt của chúng, mà do sự tập trung đã tới mức  
độ buộc chúng phải đi vào con đường ấy để kiếm lời"  
Sự đụng độ trên trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền quốc gia có sức mạnh  
kinh tế hùng hậu lại được sự ủng hộ của nhà nước "của mình" và các cuộc cạnh tranh  
khốc liệt giữa chúng tất yếu dẫn đến xu hướng thoả hiệp, kết các hiệp định, để củng  
cố địa vị độc quyền của chúng trong những lĩnh vực những thị trường nhất định. Từ đó  
hình thành các liên minh độc quyền quốc tế dưới dạng cácten, xanhđica, tờrớt quốc tế...  
Cho đến năm 1934 đã có 350 cácten quốc tế lớn ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống  
kinh tế, chính trị của toàn thế giới.  
1.2.Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc  
Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố tăng cường bằng việc phân chia thế  
giới về lãnh thổ. V.I. Lênin đã chỉ ra rằng: "Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao, nguyên liệu  
càng thiếu thốn, sự cạnh tranh càng gay gắt việc tìm kiếm các nguồn nguyên liệu trên toàn  
thế giới càng ráo riết, thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc địa càng quyết liệt hơn"  
BKGALLERY  
Các cường quốc đế quốc ra sức xâm chiếm thuộc địa, bởi thuộc địa nơi bảo đảm  
nguồn nguyên liệu thị trường thường xuyên, là nơi tương đối an toàn trong cạnh tranh, bảo  
đảm thực hiện đồng thời những mục đích về kinh tế, quân sự và chính trị. Từ sau năm 1880,  
những cuộc xâm chiếm thuộc địa bắt đầu phát triển mạnh. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,  
các nước đế quốc đã hoàn thành việc phân chia lãnh thổ thế giới. Đế quốc Anh chiếm được  
nhiều thuộc địa nhất, sau đó đến Nga (Nga Hoàng) và Pháp. Số dân thuộc địa của Anh nhiều  
hơn 12 lần số dân thuộc địa của Nga và bằng 7 lần của Pháp. Số dân thuộc địa của Pháp lại  
nhiều hơn số dân thuộc địa của ba nước Đức, Mỹ, Nhật cộng lại.  
Sự phân chia lãnh thổ và phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản tất yếu dẫn đến  
cuộc đấu tranh đòi chia lại thế giới đã chia xong. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến các  
cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914-1918 và lần thứ hai 1939-1945.  
V.I. Lênin viết: "Khi nói đến chính sách thực dân trong thời đại chủ nghĩa đế quốc tư  
bản, thì cần chú ý rằng tư bản tài chính và chính sách quốc tế thích ứng với nó... đã tạo  
nên hàng loạt hình thức lệ thuộc có tính chất quá độ của các nước. Tiêu biểu cho thời đại  
đó, không những chỉ có hai loại nước chủ yếu: những nước chiếm thuộc địa những  
thuộc địa, mà còn có nhiều nước phụ thuộc với những hình thức khác nhau, những nước  
này trên hình thức thì được độc lập về chính trị, nhưng thực tế lại mắc vào cái lưới phụ  
thuộc về tài chính và ngoại giao"  
Từ những năm 50 của thế kỷ XX trở đi, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh  
mẽ đã làm sụp đổ và tan rã hệ thống thuộc địa kiểu cũ, nhưng điều đó không có nghĩa là  
chủ nghĩa thực dân đã bị thủ tiêu. Trái lại, các cường quốc đế quốc chuyển sang thi hành  
chính sách thực dân mới, nội dung chủ yếu của nó là dùng viện trợ kinh tế, kỹ thuật,  
quân sự để duy trì sự lệ thuộc của các nước đang phát triển vào các nước đế quốc.  
Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc có liên quan chặt chẽ với nhau,  
nói lên bản chất của chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế sự thống trị của chủ nghĩa tư  
bản độc quyền, về mặt chính trị hiếu chiến, xâm lược.  
2. Việt Nam và cộng đồng ASEAN  
Sau gần 5 thập kỷ kể từ khi ra đời ngày 8-8-1967 với 5 thành viên sáng lập (Thái Lan,  
Indonesia, Malaysia, Singapore và Philippines), ước mơ về một Cộng đồng hài hòa của  
các dân tộc Đông Nam Á với 10 quốc gia thành viên - nơi "sông núi không còn ngăn cách  
gắn kết chúng ta trong hợp tác và hữu nghị" - đã trở thành hiện thực.  
BKGALLERY  
Kể từ ngày 31-12-2015, dưới mái nhà chung ASEAN, 630 triệu người dân trong khu  
vực sẽ cùng chung tay xây dựng một Cộng đồng gắn kết về chính trị, liên kết về kinh tế và  
cùng chia sẻ trách nhiệm hội. Cộng đồng ASEAN ra đời đã trở thành nền kinh tế lớn  
thứ 7 thế giới, với 630 triệu dân và GDP 2.600 tỷ USD. Dự kiến, với GDP sẽ đạt 4.700 tỷ  
USD vào năm 2020, ASEAN có tiềm năng trở thành nền kinh tế lớn thứ tư thế giới vào  
năm 2030. Đặc biệt, ASEAN là nền kinh tế duy nhất Hiệp định Thương mại tự do với  
tất cả các nền kinh tế lớn và trung bình trên thế giới. Một số nước ASEAN đã tham gia  
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và nhiều nước Hiệp định Song  
phương tự do thương mại với các đối tác kinh tế quan trọng. Nhờ đó, ASEAN sẽ điều  
kiện tham gia vào chuỗi giá trị kinh tế toàn cầu. Với sức mạnh tổng hợp cả trên lĩnh vực  
chính trị, an ninh và kinh tế do kết quả của quá trình thực hiện các biện pháp xây dựng  
Cộng đồng thì vai trò tiếng nói của ASEAN ngày càng được coi trọng.  
Sau 6 năm triển khai lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, 10 nước thành viên đã  
vượt qua không ít rào cản cũng như sự khác biệt để cùng xây dựng một Cộng đồng thống  
nhất trong đa dạng. Sự kiện Cộng đồng ASEAN ra đời là thành tựu to lớn của quá trình  
liên kết hội nhập ASEAN trong gần nửa thế kỷ qua, một dấu mốc quan trọng của  
ASEAN khi bước sang một giai đoạn phát triển mới, hội nhập sâu rộng hơn. Sự ra đời của  
Cộng đồng ASEAN vào ngày cuối cùng của năm 2015 càng trở nên có ý nghĩa hơn khi  
đây biểu tượng của sự đoàn kết, hòa bình và phát triển. Trong bối cảnh nhiều khu vực  
trên thế giới chìm trong xung đột, bạo lực khủng hoảng chính trị, kinh tế-xã hội, sự ra  
đời của Cộng đồng ASEAN càng trở nên có ý nghĩa hơn khi tất cả các quốc gia thành  
viên đã tìm được tiếng nói đồng thuận, mang lại một cơ hội lớn cho sự phát triển thịnh  
vượng của khu vực Đông Nam Á.  
Việc hình thành Cộng đồng ASEAN là kết quả của gần nửa thế kỷ phấn đấu vươn  
lên của tất cả các nước Đông Nam Á. Các nỗ lực vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát  
triển cho tất cả các dân tộc yếu tố quyết định đưa đến thành công của ASEAN hiện  
nay. Cộng đồng ASEAN ra đời sẽ đưa tiến trình hợp tác và liên kết khu vực sang một giai  
đoạn mới, sâu rộng chặt chẽ hơn, vừa đáp ứng lợi ích của các quốc gia thành viên,  
vừa phản ánh vai trò trung tâm, tính chủ động của ASEAN trước xu thế tăng cường hợp  
tác, liên kết ở khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Cộng đồng ASEAN là cộng đồng đầu  
tiên được thành lập ở Châu Á, đây niềm tự hào của tất cả người dân Đông Nam Á.  
BKGALLERY  
Hòa chung niềm vui của các nước Đông Nam Á, Việt Nam tự hào vì đã tham gia,  
đóng góp tích cực đối với tiến trình hợp tác và xây dựng Cộng đồng ASEAN từ năm 1995  
đến nay. 20 năm đồng hành cùng ASEAN cũng là 20 năm Việt Nam nỗ lực đẩy mạnh quá  
trình đổi mới đất nước hội nhập sâu rộng với khu vực quốc tế. ASEAN đã sẽ  
luôn là một trụ cột quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Một Cộng đồng  
bền vững cần những thành viên vững mạnh. Trong bối cảnh đó, Việt Nam cam kết sẽ  
tiếp tục đồng hành, tham gia tích cực, chủ động và có trách nhiệm vào hợp tác ASEAN,  
góp phần xây dựng một Cộng đồng ASEAN ổn định, thịnh vượng và phát triển.  
3. Ý nghĩa việc hình thành cộng đồng ASEAN  
Cộng đồng ASEAN với ba trụ cột lớn Cộng đồng An ninh-Chính trị, Cộng đồng Kinh  
tế Cộng đồng Văn hóa-Xã hội đã chính thức được thành lập vào ngày 31/12/2015,  
đánh dấu tiến trình nhất thể hóa ASEAN thu được tiến triển quan trọng.  
Các nhà phân tích cho rằng, cộng đồng tiểu vùng đầu tiên được thành lập tại khu vực  
châu Á, việc thành lập Cộng đồng ASEAN có nghĩa là trình độ nhất thể hóa an ninh chính trị,  
kinh tế văn hóa xã hội sẽ tiếp tục được nâng cao, tuy nhiên điều không cho phép coi nhẹ  
là, ASEAN muốn hoàn toàn thực hiện nhất thể hóa vẫn đối mặt với nhiều thách thức.  
3.1.Đứng trên khởi điểm mới  
Việc thành lập Cộng đồng ASEAN khiến ASEAN đã đứng trên một khởi điểm mới cất  
bước hướng tới tương lai. Đông Nam Á sẽ hình thành một thị trường riêng rẽ với dân số  
vượt quá 600 triệu người tổng lượng kinh tế vượt quá 2000 tỷ đô la Mỹ. Sự tăng  
trưởng kinh tế của khu vực ASEAN có triển vọng tăng tốc.  
Đại sứ Trung Quốc tại ASEAN Từ Bộ cho biết, trong khuôn khổ Cộng đồng ASEAN, trình  
độ nhất thể hóa của các nước ASEAN trong lĩnh vực an ninh chính trị, kinh tế văn hóa  
hội sẽ không ngừng được nâng cao, tiếng nói của ASEAN trên vũ đài hợp tác khu vực  
sẽ trọng lượng hơn.  
Chủ tịch Quỹ Nam dương ASEAN Bam-bang Xun-dô-nô cho biết, lợi ích lớn nhất mà  
Cộng đồng ASEAN sẽ mang lại là nâng cao trình độ mậu dịch trong nội khối ASEAN.  
Trước đó, nhiều nước ASEAN tập trung phát triển quan hệ đối tác thương mại với Trung  
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên minh châu Âu, Mỹ, v.v. thông qua hiệp định song  
phương hoặc hiệp định thương mại tự do, trong khi đó tiềm năng thương mại giữa các  
nước thành viên ASEAN lại bị xem nhẹ. Việc thành lập Cộng đồng ASEAN tạo cơ hội cho  
các nước ASEAN nâng cấp trình độ thương mại trong nội khối.  
BKGALLERY  
Hiện nay, kim ngạch thương mại trong khối ASEAN tăng với tốc độ 10,5%/năm, dự  
kiến đến năm 2020, tỷ trọng kim ngạch thương mại trong nội khối sẽ tăng từ 25% hiện  
nay lên đến 30% trong tổng kim ngạch thương mại ASEAN.  
Đại sứ Trung Quốc tại ASEAN Từ Bộ cho biết, Trung Quốc luôn coi ASEAN là định hướng  
ưu tiên trong ngoại giao với các nước xung quanh, kiên định ủng hộ nhất thể hóa ASEAN,  
ủng hộ việc xây dựng Cộng đồng ASEAN, ủng hộ vị thế trung tâm của ASEAN trong hợp  
tác khu vực. Đại sứ Từ Bộ nhấn mạnh, Cộng đồng ASEAN sẽ tạo thị trường rộng lớn hơn,  
điều kiện thương mại tiện lợi hơn và môi trường đầu tư tốt đẹp hơn cho Trung Quốc.  
3.2.Nhìn thẳng vào các vấn đề cũ  
Theo Đại sứ Trung Quốc tại ASEAN Từ Bộ, chế độ chính trị của các nước ASEAN  
khác nhau, tôn giáo và văn hóa đa dạng, muốn thực hiện nhất thể hóa toàn diện sẽ phải  
đứng trước không ít khó khăn. Trình độ phát triển của các nước thành viên ASEAN có sự  
khác biệt rất lớn, trên một mức độ nhất định đã làm giảm sức cạnh tranh của ASEAN trên  
vũ đài kinh tế thế giới.  
Mục tiêu của ASEAN là xây dựng Cộng đồng "lấy con người làm gốc", nhưng xét về  
tình hình hiện nay, việc xây dựng Cộng đồng ASEAN trên một mức độ nhất định vẫn dừng  
lại ở trong giai đoạn chính phủ hăng say, người dân lạnh nhạt, sự đồng thuận của người  
dân bình thường đối với Cộng đồng ASEAN tương đối thấp, nhiệt tình và hành động của  
người dân tham gia vào việc xây dựng Cộng đồng ASEAN còn cần nâng cao hơn nữa.  
quan thực hiện Tầm nhìn của Cộng đồng ASEAN là các bộ ngành liên quan của các  
nước thành viên ASEAN, vẫn tồn tại một số khó khăn trong việc trao đổi điều phối  
những vấn đề quan trọng liên quan đến nhiều cơ quan chức năng của nhiều nước. Ngoài  
ra, việc nhất thể hóa ASEAN cũng thiếu cơ quan thực hiện thống nhất.  
Chuyên gia về vấn đề ASEAN của In-đô-nê-xi-a Du-đa cho rằng, trong tiến trình thúc  
đẩy nhất thể hóa ASEAN, cần tăng cường chức năng của Ban Thư ký ASEAN, nâng cao  
vị thế năng lực điều phối của Ban Thư ký. Chuyên gia Du-đa còn cho rằng, nhất thể  
hóa ASEAN không thể tách rời sự đoàn kết của các nước thành viên, tuy nhiên những  
tranh chấp biên giới giữa một số nước ASEAN, cũng như nạn ô nhiễm khói bụi tác động  
đến nhiều nước do việc đốt rẫy làm nương thể xảy ra hàng năm ở In-đô-nê-xi-a gây  
lên, v.v., đã trùm bóng đen lên triển vọng của Cộng đồng ASEAN.  
ASEAN đã áp dụng phương thức ASEAN chiếu cố đến đòi hỏi của các bên, hiệp thương  
nhất trí trong tiến trình nhất thể hóa. Chủ tịch Quỹ Nam Dương ASEAN In-đô-nê-xi-a Bam-  
bang cho rằng, các nước ASEAN cần phải đặt lợi ích chung của ASEAN lên trên lợi ích của  
nước mình, bên cạnh đó ASEAN cũng cần thành lập cơ quan siêu quốc gia để ràng  
BKGALLERY  
buộc hiệu quả các nước thành viên, tiến tới nâng cao hơn nữa trình độ nhất thể hóa  
ASEAN.  
Đoàn kết, cụm từ này được nhiều chuyên gia nhắc đến khi bình luận về Cộng đồng  
ASEAN mới thành lập. Hy vọng Cộng đồng ASEAN thực sự mang lại hạnh phúc cho  
người dân trong khu vực.  
3.3.Gửi gắm vào tương lai mới  
ASEAN là một trong những tổ chức khu vực có trình độ hội nhập kinh tế khá cao giữa các  
nước đang phát triển trên thế giới. Mặc sẽ đối mặt với không ít khó khăn trong tiến  
trình nhất thể hóa sau này, nhưng ASEAN hiện đã cất một bước đi cổ vũ lòng người. Văn  
kiện tầm nhìn ASEAN năm 2025 được thông qua tại Hội nghị Cấp cao ASEAN diễn ra tại  
Cu-a-la Lăm-pơ, Ma-lai-xi-a cho thấy các nước thành viên tràn đầy lòng tin đối với tương  
lai của Cộng đồng ASEAN.  
Việc xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN là nền tảng cho việc nhất thể hóa ASEAN.  
Trong ba trụ cột lớn, độ khó trong xây dựng Cộng đồng Kinh tế tương đối thấp, tiến triển  
cũng nhanh nhất. 463 trong 506 biện pháp ưu tiên được liệt kê trong "Lộ trình Cộng đồng  
Kinh tế ASEAN" đã được thực hiện, tỷ lệ thực hiện lên tới 91,5%, thuế quan trung bình  
trong nội khối ASEAN hầu như đều giảm xuống tới mức 0%.  
Trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tế, các lĩnh vực hợp tác trong ASEAN hết sức rộng lớn.  
Chẳng hạn như, các doanh nghiệp vừa nhỏ chiếm hơn 96% tổng số doanh nghiệp  
ASEAN, định hướng chính sách về các nước thành viên ASEAN chung sức phát triển  
doanh nghiệp vừa nhỏ sẽ phát huy vai trò tích cực trong việc tạo thêm việc làm, tăng  
thu nhập cho người dân và thực hiện kinh tế tăng trưởng bền vững.  
Tuy nhiên, các hàng rào phi thuế quan như các quy tắc, tiêu chuẩn, v.v. của các nước  
ASEAN vẫn tồn tại để bảo hộ các ngành nghề quan trọng nhạy cảm của nước mình.  
Chuyên gia về vấn đề ASEAN, Đại học Bi-na Nu-san-ta-ra In-đô-nê-xi-a Du-đa cho rằng,  
tình trạng đồng chất hóa kết cấu sản xuất xuất khẩu của đa số nước thành viên  
ASEAN tương đối nghiêm trọng, cạnh tranh giữa các nước diễn ra quyết liệt, chủ nghĩa  
bảo hộ mậu dịch vẫn phổ biến tồn tại trong nội khối ASEAN.  
Các nhà phân tích cho rằng, mặc dù các nước thành viên ASEAN đòi hỏi lợi ích khác nhau,  
trình độ phát triển không đồng đều, nhưng việc tuyên bố thành lập Cộng đồng ASEAN là một  
động thái đã định sẵn trong việc thực hiện lộ trình của cộng đồng này, có triển vọng phát triển  
rộng lớn, cũng có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển của các nước thành viên  
ASEAN.  
BKGALLERY  
Kết Luận  
Sự hình thành Cộng đồng ASEAN 2015 tạo ra cả cơ hội và thách thức đan xen đối với Việt  
Nam. Nhìn chung, các cơ hội về cơ bản những lợi ích có được trong quá trình tham gia hợp  
tác ASEAN trong 20 năm qua nhưng sẽ lớn hơn cụ thể hơn; các thách thức cũng nhiều  
hơn trực tiếp hơn. Cộng đồng chung chính là thành tựu hợp tác của các nước ASEAN, tạo  
cơ sở vững chắc động lực mạnh mẽ cho ASEAN tiếp tục liên kết sâu rộng hơn đóng vai  
trò quan trọng hơn ở khu vực. Cộng đồng cũng phản ánh nhận thức lợi ích chung của các  
nước thành viên về nhu cầu liên kết khu vực cao hơn, góp phần thúc đẩy mạnh hơn chủ nghĩa  
tư bản độc quyền trong phát triển kinh tế mỗi quốc gia thuộc ASEAN.  
thể nói, chủ nghĩa tư bản độc quyền độc quyền nhà nước bước phát triển cao  
hơn của chủ nghĩa tư bản, để thể tồn tại trước những thay đổi của điều kiện sản xuất  
mới. Những thành tựu hạn chế của chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ bản  
của chủ nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ hội hóa cao của lực lượng  
sản xuất với quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Chủ nghĩa tư  
bản càng phát triển thì xã hội hóa sản xuất ngày càng cao, quan hệ sản xuất dựa trên sở  
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng kìm hãm sự phát triển của  
lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa tư bản đã thực hiện nhiều biện pháp điều chỉnh cả về mặt  
sở hữu, quản lý và phân phối để hạn chế mâu thuẫn trên nhưng về cơ bản không thủ tiêu  
được mâu thuẫn này. Sự điều chỉnh ấy vẫn không vượt qua khỏi khuôn khổ của sở hữu  
nhân tư bản chủ nghĩa. Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước từ luận  
của V.I.Lenin cho đến những biểu hiện mới được cập nhật nêu trên tạo cơ sở để hiểu rõ  
hơn về vấn đề nội dung cơ bản của thời đại ngày nay: Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư  
bản lên chủ nghĩa hội trên phạm vi toàn thế giới như một quá trình lịch sử tự nhiên.  
Tuy nhiên, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể tự tiêu vong và phương  
thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa cũng không thể tự hình thành mà chỉ thể thực hiện  
được thông qua cuộc cách mạng hội trong đó giai cấp công nhân là người sứ mệnh  
lịch sử thực hiện cuộc cách mạng này.  
BKGALLERY  
Danh mục tài liệu tham khảo  
1. V.I.Lênin, 1978. Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, Nxb Tiến bộ  
2. Nguyễn Khắc Thân, 1996. Chủ nghĩa tư bản đương đại-Mâu thuẫn vấn  
đề, Nxb Chính trị Quốc gia.  
3. Viện Thông tin Khoa học hội, 2001. Chủ nghĩa tư bản hịên đại -Những điều chỉnh mới.  
4. Tiêu Phong, 2004. Hai chủ nghĩa một trăm năm, Nxb Chính trị Quốc gia.  
5. Giáo trình Những NLCB của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nxb Chính Trị Quốc Gia  
doc 18 trang Thùy Anh 26/04/2022 6580
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Lý luận chủ nghĩa tư bản độc quyền và ý nghĩa trong việc hình thành cộng đồng Asean", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • doctieu_luan_ly_luan_chu_nghia_tu_ban_doc_quyen_va_y_nghia_tron.doc