Tiểu luận Lý luận hàng hóa sức lao động với việc thúc đẩy xuất khẩu lao động Việt Nam
BK GALLERY
Tiểu luận:
Lý luận hàng hóa sức lao động với việc thúc đẩy xuất khẩu lao động Việt Nam.
==================================================================
Mở đầu
1.Lý do chọn đề tài
Sức lao động là một khái niệm trọng yếu trong kinh tế chính trị Mác-xít. Mác định nghĩa
sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong
một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị
thặng dư nào đó. Sức lao động là khả năng lao động của con người, là điều kiện tiên quyết
của mọi quá trình sản xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội.
Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng đều là yếu tố hàng đầu của quá trình lao
động sản xuất. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện chủ yếu quyết định sự
chuyển hoá tiền thành tư bản.
Ở bài tiếu luận này tôi sẽ phân tích đề tài “Lý luận hàng hóa sức lao động với việc thúc
đẩy xuất khẩu lao động Việt Nam” để có thể hiểu rõ hơn về mặt hàng hóa đặc biệt này.
2.Tổng quan đề tài
Hàng hóa sức lao động là một đề tài hay và mang tính thời sự cũng như cấp thiết hiện
nay. Đã có rất nhiều những bài báo, trang thông tin nói tới vấn đề này, không những trong
nước mà ngay cả các nước khác trên thế giới.
3.Mục đích nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề hàng hóa sưc lao động ở Việt Nam. Đánh giá tình
hình thế giới và đất nước hiện nay và liên hệ với việc thúc đẩy xuất khẩu lao động Việt Nam.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, bài tiểu luận có nhiệm
vụ: +Phân tích về hàng hóa và hàng hóa sức lao động
+Đánh giá tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam
4.Phạm vi nghiên cứu:
Vấn đề hàng hóa sức lao động là một vấn đề rộng. Trong phạm vi của tiểu luận, bản
thân chỉ nghiên cứu một số nột dung chủ yếu về hàng hóa nói chung và hàng hóa sức
lao động nói riêng, cũng như đi sâu vào phân tích và nhận xét tình hình xuất khẩu lao
động Việt Nam hiện nay.
5.Phương pháp nghiên cứu
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Leenin, Chính sách của Nhà nước, của
Đảng Cộng Sản Việt Nam là cơ sở phương pháp luận định hướng nghiên cứu.
Ngoài các phương pháp luận, bài tiểu luận sử dụng các phương pháp cụ thể, chú
trọng phương pháp lịch sử kết hợp với logic, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kế,
khảo sát và tổng kết thực tiễn,...
6.Đóng góp của tiểu luận
Góp phần làm hiểu sâu và rõ hơn tình hình hàng hóa sức lao động hiện nay của Việt
Nam, và việc xuất khẩu lao động hiện nay của nước ta.
7.Kết cấu bài tiểu luận
Bài tiểu luận được chia làm 2 chương với việc tìm hiểu và phân tích về vấn đề hàng
hóa sức lao động trong việc thúc đẩy thị trường lao động Việt Nam.
BK GALLERY
Chương I
Hàng Hóa Sức Lao Động
1.Sức lao động
Theo C.Mac: " SLĐ hay năng lực lao động là toàn bộ năng lực thể chất và tinh thần tồn tại
trong cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản
xuất ra một giá trị sử dụng nào đó". SLĐ là yếu tố cơ bản của mọi quá trình sản xuất.
Sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi có 2 điều kiện sau:
- Người LĐ phải là người được tự do về thân thể của mình, phải có khả năng chi phối
SLĐ ấy đến mức có thể bán SLĐ đó trong một t.gian nhất định.
- Người LĐ ko còn có TLSX cần thiết để tự mình thực hiện LĐ và cũng không còn của cải
gì khác, muốn sống, chỉ còn cách bán SLĐ cho người khác sử dụng.
2. Khái niệm hàng hóa
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và đem
trao đổi, đem bán.
Hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị (hay giá trị trao đổi). Sở dĩ hàng hóa
có hai thuộc tính là do lao động sản xuất hàng hóa có hai mặt: Lao động cụ thể tạo ra giá trị
sử dụng của hàng hóa, lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa.
Những nhà tư sản coi giá trị của hàng hóa là do sức cầu và công dụng của nó là hoàn toàn
sai:
Mác đã nói: Nếu người ta có cách biến than chì thành kim cương thì kim cương cũng sẽ rẻ
như gạch. Đó là vì lao động (trừu tượng) kết tinh trong nó giảm xuống. Mặc dù sức cầu và
công dụng của nó không đổi.
3. Điều kiện sức lao động trở thành hàng hóa
Sức lao động là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể một con người, trong
nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt
động để sản xuất ra những vật có ích.
Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất. Nhưng không
phải trong bất kỳ điều kiện nào, sức lao động cũng là hàng hóa. Thực tiễn lịch sử cho thấy,
BK GALLERY
sức lao động của người nô lệ không phải là hàng hóa vì bản thân người nô lệ thuộc sở
hữu của chủ nô nên anh ta không có quyền bán sức lao động của mình. Người thợ thủ
công tự do tuy được tuỳ ý sử dụng sức lao động của mình, nhưng sức lao động của anh
ta cũng không phải là hàng hóa, vì anh ta có tư liệu sản xuất để làm ra sản phẩm nuôi
sống mình, chứ chưa buộc phải bán sức lao động để sống. Sức lao động để trở thành
hàng hoá cần phải có những điều kiện nhất định.
-
Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá
Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do vệ thân thể, làm chủ được sức lao
động của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa.
Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh
hoạt. Họ trở thành người “vô sản”. Để tồn tại buộc họ phải bán sức lao động của mình để
sống.
Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để tiển biến thành tư bản. Tuy
nhiên, để tiền biến thành tư bản thì lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ phải phát
triển tới một mức độ nhất định.
Trong các hình thái xã hội trước chủ nghĩa tư bản chỉ có sản phẩm của lao động mới là hàng
hóa. Chỉ đến khi sản xuất hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định nào đó các hình thái
sản xuất xã hội cũ (sản xuất nhỏ, phường hội, phong kiến) bị phá vỡ, thì mới xuất hiện những
điều kiện để cho sức lao động trở thành hàng hóa, chính sự xuất hiện của hàng hóa sức lao
động đã làm cho sản xuất hàng hóa trở nên có tính chất phổ biến và đã báo hiệu sự ra đời
của một thời đại mới trong lịch sử xã hội - thời đại của chủ nghĩa tư bản.
4. Các thuộc tính của hàng hóa sức lao động
Cũng giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị
và giá trị sử dụng.
4.1.Giá trị hàng hoá sức lao động
+ Giống như các hàng hoá khác, giá trị hàng hoá sức co động củng do thời gian lao động
xã hội cần thiết để xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định.
+ Sức lao động chỉ tồn tại như năng lực sông của con người. Muốn tái sản xuất ra năng lực
đó, người công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định để mặc, ở, học
nghề. V.V.. Ngoài ra người lao động còn phải thoả mãn những nhu cầu của gia đình và con
BK GALLERY
cái anh nữa. Chỉ có như vậy, thì sức lao động mới được sản xuất và tái sản xuất ra một
cách liên tục.
Như vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy
thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt nuôi sống
bản thân người công nhân và gia đình anh ta; hay nói cách khác, giá trị hàng hoá sức lao
động được đo gián tiếp rằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra
sức lao động.
+ Là hàng hoá đặc biệt, giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở
chỗ nó còn bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử.
Yếu tố tinh thần: ngoài những nhu cầu về vật chất, người công nhân còn có những nhu cầu
về tinh thần, văn hoá...
Yếu tố lịch sử: nhu cầu của con người phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước ở
từng thời kỳ, đồng thời nó còn phụ thuộc cả vào điểu kiện địa lý, khí hậu của nước đó.
+ Mặc dù bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử nhưng đối với mỗi một nước nhất định
và trong một thời kỳ nhất định, thì quy mô những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao
động là một đại lượng nhất định, do đó có thể xác định được lượng giá trị hàng hoá sức
lao động do những bộ phận sau đây hợp thành:
Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất
sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân;
Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân;
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái và gia
đình người công nhân.
BK GALLERY
4.2.Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động
+ Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao
động, tức là quá trình lao động của người công nhân.
+ Quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hoá sức động khác với quá trình tiêu dùng hàng
hoá thông thường ở chỗ:
*
Đối với các hàng hóa thông thường, sau quá trình tiêu dùng hay sử dụng thì cả
giá trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo thời gian.
Đối với hàng hoá sức lao động, quá trình tiêu dùng chính là quá trình sản xuất ra
*
một loại hàng hoá nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá của
bản thân hàng hoá sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư
bản sẽ chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có chất đặc biệt,
nó là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản
thân nó. Đây chính là chìa khoá để giải thích mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.
Chính đặc tính này đã làm cho sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động trở thành điều
kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư bản.
5.Hàng hóa sức lao động ở Việt Nam
5.1.Tình hình hiện nay:
Hiện cả nước vẫn còn trên 50% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Điều này cho
thấy Việt Nam vẫn là một nước kém phát triển và tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn vẫn
trầm trọng (chiếm tỷ trọng gần 97% trong tổng số lao động thiếu việc làm chung). Tình trạng
việc làm khu vực phi chính thức (chiếm tỷ lệ 70% trong tổng số việc làm) nhưng không được
hưởng chính sách an sinh xã hội, luôn đối mặt với việc làm bấp bênh, thu nhập thấp, ít được
bảo vệ. Đó là cái vòng luẩn quẩn trong bức tranh chung của thị trường lao động Việt Nam: chất
lượng lao động thấp dẫn đến lương thấp, năng suất lao động thấp và cuối cùng cản trở tốc độ
tăng trưởng kinh tế. Bà Lin Lean Lim, chuyên gia cao cấp của ILO: Việt Nam
BK GALLERY
có tỷ lệ lao động thất nghiệp thấp và đang ở thời kỳ dân số vàng. Đó là lợi thế vì Việt Nam
không phải đối mặt với tình trạng dân số già, khan hiếm lao động trẻ. Nhờ vậy, Chính phủ
Việt Nam sẽ tiết kiệm được nguồn chi để đầu tư phát triển thị trường lao động. Tuy nhiên,
Việt Nam đang đứng trước thách thức phải chuyển đổi cơ cấu lao động-từ thâm dụng (sử
dụng nhiều lao động phổ thông, tay nghề thấp) sang lao động tinh có kỹ năng, tay nghề kỹ
thuật cao. Để phát triển thị trường lao động theo hướng năng động, tạo nhiều cơ hội việc
làm bền vững, thu nhập ổn định thì Việt Nam phải thay đổi cơ chế quản lý hộ khẩu, hỗ trợ
lao động nhập cư hưởng đầy đủ các quyền lợi theo qui định của luật pháp; quan tâm phát
triển kinh tế ở các vùng miền nghèo khó, khu vực nông thôn để cân bằng lực lượng lao
động, tạo ra sự bình đẳng về việc làm, thu nhập.
4.2.Một số giải pháp cụ thể:
Thứ nhất, vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể nền kinh tế thị trường sự định hướng xã hội chủ nghĩa: Vì lợi ích của người sử
dụng lao động và lợi ích của người lao động phải có sự hài hoà. Quan hệ lao động ở các
doanh nghiệp cần được được luật hoá, theo đó, quan hệ giữa người sử dụng lao động và
người lao động không phải là quan hệ đối kháng, lợi ích tư nhân của người sử dụng lao
động và lợi ích cá nhân của người lao động không mâu thuẫn gay gắt với nhau mà được
chuyển hoá để kết hợp thành một thể thống nhất, tạo hợp lực chung vì sự phát triển của
xã hội, sự gắn kết hài hoà giữa các lợi ích là yếu tố cơ bản.
Thứ hai, vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải phù hợp với quá trình hội nhập
quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải chủ
động xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng, nhất là về trình độ
chuyên môn, kỹ thuật, về phẩm chất, năng lực thì mới có thể tiếp cận được nền kinh tế tri thức
và hội nhập quốc tế. Thứ ba, tôn trọng nhân cách, phát huy vai trò làm chủ, năng động sáng
tạo, tinh thần yêu nước, yêu dân tộc của người lao động. Nhân cách của người lao động được
thể hiện ở tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tự giác và cộng đồng trách nhiệm
trong mọi công việc được giao. Do đó, tôn trọng nhân cách là làm cho những tố chất đó không
hề bị vi phạm, ngược lại, nó được phát huy một cách mạnh mẽ trong lao động sản xuất, khiến
cho người lao động toàn tâm, toàn ý, đem hết tài năng, sức lực của mình để đóng góp cho xã
hội, cho doanh nghiệp lập mối quan hệ lao động thân thiện giữa người sử dụng lao động vì lợi
ích chung. Thứ tư, vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải gắn liền với việc hình thành
đội ngũ lao động có trình độ và cơ cấu hợp lý đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều đó có nghĩa là phải xây