Quy định về thanh toán qua ví điện tử của một số quốc gia, những gợi mở cho Việt Nam
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
QUY ĐỊNH VỀ THANH TOÁN QUA VÍ ĐIỆN TỬ
CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA, NHỮNG GỢI MỞ CHO VIỆT NAM1
Nguyễn Thị Anh Thơ*
Nguyễn Thùy Anh, Phạm Thị Bích Ngọc, Trịnh Kim Khánh**
* ThS. Phó Trưởng Khoa Pháp luật thương mại quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội
** Sinh viên Khóa 43, Khoa Pháp luật thương mại quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội
Tóm tắt:
Thông tin bài viết:
Thanh toán qua ví điện tử đã trở thành phương thức thanh toán phổ biến tại nhiều
quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, các quốc gia lại xây dựng các mô hình khác
nhau về các quy định đối với hoạt động thanh toán qua ví điện tử. Trong phạm
vi bài viết này, các tác giả phân tích quy định của pháp luật về thanh toán qua ví
điện tử ở một số nước trên thế giới và rút ra những gợi mở cho Việt Nam trong
việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về thanh toán qua ví điện tử.
Từ khóa: Ví điện tử, thanh toán
qua ví điện tử, pháp luật về thanh
toán qua ví điện tử.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài
Biên tập
Duyệt bài
: 06/02/2021
: 24/02/2021
: 26/02/2021
Abstract:
Article Infomation:
Payments via e-wallet service have become a popular payment method in serveral
countries in the world. However, the countries are applying different models of
legal regulations on payments via e-wallets. Within the scope of this article, the
authors provide an analysis of the legal regulations on payments via e-wallets in
a number of countries and also give out suggestions for Vietnam so that it is to
further review and improve the provisions of the law on payments via e-wallets.
Keywords: E-wallets, payments
via e-wallet, legal regulations on
payments via e-wallet.
Article History:
Received
Edited
: 06 Feb. 2021
: 24 Feb. 2021
: 26 Feb. 2021
Approved
1. Tổng quan về thanh toán qua ví điện tử
hiện trên nền tảng Internet và thông qua
các thiết bị điện tử. Tuy nhiên, dưới góc độ
pháp lý, chưa có một khái niệm thống nhất
về ví điện tử kể cả trong hệ thống pháp luật
quốc tế2. Tại Việt Nam, khoản 1 Điều 1 Nghị
1.1. Khái niệm thanh toán qua ví điện tử1
Thanh toán qua ví điện tử hay gọi tắt là
dịch vụ ví điện tử trước hết được hiểu là
phương thức thanh toán điện tử, được thực
1 Bài viết được thực hiện trong khuôn khổ Đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2021.
2
Phòng thương mại quốc tế (International Chamber of Commerce - ICC) có cách hiểu ví điện tử dựa trên
bản chất hoạt động của ví điện tử là một hệ thống dựa trên phần mềm để thực hiện các giao dịch thương mại
điện tử, được thực hiện thông qua các thiết bị điện tử, có tính năng xác thực người dùng, lưu trữ thông tin và
còn có thể sử dụng kết hợp với các hệ thống thanh toán di động khác (Xem thêm tại: International Chamber
of Commerce (ICC) (03/2020), WTO Plurilateral Negotiations on Trade-related Aspects of Electronic
chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (Organisation for Economic Co-operation and Development - OECD) lại
nhìn nhận ví điện tử là một loại hình “dịch vụ trung gian” và đưa ra khái niệm “dịch vụ trung gian” (“mediating
48
Số 11(435) - T6/2021
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
định số 80/2016/NĐ-CP ngày 1/7/201 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 về thanh
toán không dùng tiền mặt quy định: “Dịch
vụ ví điện tử là dịch vụ cung cấp cho khách
hàng một tài khoản điện tử định danh do các
tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh
toán tạo lập trên vật mang tin (như chip điện
tử, sim điện thoại di động, máy tính...), cho
phép lưu giữ một giá trị tiền tệ được đảm
bảo bằng giá trị tiền gửi tương đương với
số tiền được chuyển từ tài khoản thanh toán
của khách hàng tại ngân hàng vào tài khoản
đảm bảo thanh toán của tổ chức cung ứng
dịch vụ ví điện tử theo tỷ lệ 1:1”. Như vậy,
thanh toán qua ví điện tử là một thuật ngữ
chỉ phương thức thanh toán điện tử mà ở
đó các tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán
trung gian có thể cung cấp, kinh doanh dịch
vụ này bằng cách tạo lập một nền tảng ứng
dụng trên mạng Internet, cho phép người
dùng đăng ký một tài khoản để lưu trữ tiền
điện tử và thực hiện các giao dịch thanh toán
thông qua các vật mang tin như di động, máy
tính, máy tính bảng, hoặc các phương tiện
điện tử trung gian khác.
bằng thẻ, chuyển khoản ngân hàng (Internet
Banking),..., ví điện tử có thêm sự tham gia
của bên chủ thể cung cấp dịch vụ thanh toán
trung gian giữa các bên trong giao dịch (chủ
thể kinh doanh dịch vụ ví điện tử). Bên cung
cấp dịch vụ ví điện tử này sẽ hoạt động bằng
cách khởi tạo một nền tảng ứng dụng qua
mạng Internet làm cơ sở để cho phép người
dùng đăng ký tài khoản của riêng mình và hỗ
trợ trung gian các giao dịch thanh toán giữa
các bên sử dụng dịch vụ với nhau.
Thứ hai, về phạm vi giao dịch: Ví điện
tử hoạt động dựa trên mạng lưới Internet. Vì
vậy, phạm vi giao dịch của loại hình thanh
toán này khá rộng, bao gồm trong nước hoặc
ra cả nước ngoài. Điều này phụ thuộc vào
nhà cung cấp dịch vụ trên cơ sở quy định của
pháp luật nước sở tại, pháp luật nước ngoài,
cũng như các điều ước quốc tế có liên quan.
Thứ ba, về đồng tiền sử dụng thanh toán:
Sự xuất hiện và phát triển của thanh toán
điện tử nói chung và phương thức thanh
toán điện tử qua ví điện tử nói riêng đã đòi
hỏi phải có một phương tiện thanh toán cũng
cần có sự tương thích. Vì thế, nếu trong
thanh toán truyền thống, giao dịch giữa các
bên được thực hiện thông qua tiền mặt thì
đối với thanh toán qua ví điện tử, phương
tiện thanh toán được sử dụng trong giao dịch
lại là tiền điện tử3.
1.2. Đặc điểm của thanh toán qua ví
điện tử
Thứ nhất, về chủ thể: So với các phương
thức thanh toán điện tử khác như: thanh toán
services”) thay vì khái niệm ví điện tử; theo đó trong dịch vụ này sẽ có bên kinh doanh “dịch vụ trung gian” làm
cầu nối giúp khách hàng thanh toán, và khách hàng chỉ cần đăng ký sử dụng dịch vụ bằng cách cung cấp chi
tiết thẻ tín dụng hoặc tài khoản ngân hàng. Xem Organisation for Economic Co-operation and Development
(OECD) (18/04/2006), Online payment systems for e-commerce, DSTI/ICCP/IE(2004)18/FINAL, tr.20,
3 Hiện nay, trên thế giới, tiền kỹ thuật số (digital currencies) bao gồm tiền ảo (virtual currencies), tiền điện tử
(electronic currencies) và tiền số hóa (cryptocurrencies). Sự khác biệt chính giữa ba loại tiền kỹ thuật số này đó
là tính chuyển đổi giữa chúng với tiền mặt. Theo Vivian Shum thì “tiền ảo” là loại “tiền” thường được sử dụng
trong các trò chơi điện tử trực tuyến, do một công ty trò chơi điện tử nào đó phát hành mà không có bất cứ một tài
sản cơ sở nào, chỉ công ty kiểm soát và chỉ sử dụng cho các giao dịch trong nội bộ hệ thống. Trong khi đó, “tiền”
trong ví điện tử là “tiền điện tử” - loại tiền có thể dùng để mua các hàng hóa/dịch vụ “thật” mà việc thanh toán sẽ
được thực hiện thông qua bên trung gian (bên thứ ba), ví dụ như Paypal. Cuối cùng, “tiền số hóa” như Bitcoin,
không được phát hành bởi chính phủ hay một tổ chức tài chính, mà được tạo ra và vận hành dựa trên hệ thống
các máy tính kết nối mạng internet ngang hàng (Xem thêm: ThS. Trần Thanh Bình, “Những bất cập của các quy
định pháp luật về ví điện tử”, Tạp chí Khoa học Pháp lý số 03/2016, tr.69, https://tapchikhplvn.hcmulaw.edu.
vn/module/xemchitietbaibao?oid=93635ea3-fe66-427a-afee-ba6e6e4e02bd, truy cập lần cuối ngày 02/01/2021).
Số 11(435) - T6/2021
49
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
2. Quy định của pháp luật về thanh toán
qua ví điện tử ở một số quốc gia trên
thế giới
cung cấp các dịch vụ thanh toán từ bên thứ ba
đã xác định trừ khi họ được PBOC cấp Giấy
phép kinh doanh dịch vụ thanh toán (Payment
Services License-PSL)8. Giấy phép PSL có
hiệu lực trong vòng năm năm và các đơn xin
gia hạn phải được nộp cho các chi nhánh địa
phương của PBOC sáu tháng trước khi PSL
hết hạn. Mọi thay đổi liên quan đến tên, vốn
đăng ký, cơ cấu tổ chức, cổ đông chính của
chủ sở hữu PSL hoặc việc chia tách sáp nhập
của chủ sở hữu PSL hoặc các thay đổi về loại
hình phạm vi kinh doanh của mình đều phải
được PBOC chấp thuận9.
2.1. Trung Quốc
Năm 2010, Ngân hàng Nhân dân Trung
Quốc (People’s Bank of China - PBOC) đã
ban hành Thông tư số 02 ngày 14/6/2010
về Quy tắc quản lý dịch vụ thanh toán do
các tổ chức phi tài chính cung cấp4 (Quy tắc
thanh toán PBOC) và Thông tư số 17 ngày
01/12/2010 về Biện pháp thực hiện các quy
tắc về quản lý dịch vụ thanh toán do các tổ
chức phi tài chính cung cấp5 (Biện pháp thực
hiện thanh toán PBOC). Đến năm 2016,
PBOC tiếp tục ban hành Thông tư số 43 về
Biện pháp quản lý thanh toán trực tuyến đối
với các tổ chức không phải ngân hàng6 (Biện
pháp quản lý thanh toán trực tuyến) được áp
dụng cho tất cả các “tổ chức thanh toán phi
ngân hàng”7.
- Nghĩa vụ của tổ chức kinh doanh dịch
vụ ví điện tử: Quy tắc thanh toán PBOC đưa
ra các điều khoản bắt buộc các chủ sở hữu
PSL phải tuân theo để đảm bảo lợi ích cho
người sử dụng như: không được coi tiền của
khách hàng là tài sản riêng của mình; phải
gửi tiền của khách hàng vào một tài khoản
được mở và chịu sự giám sát của một ngân
hàng thương mại, chỉ có thể chuyển tiền khi
và chỉ khi có lệnh/ chỉ dẫn của khách hàng10.
Bên cạnh đó, mỗi chủ sở hữu PSL chỉ có
thể mở một tài khoản tiền gửi tại một chi
nhánh của ngân hàng thương mại; vốn tiền
tệ của chủ sở hữu PSL không được thấp hơn
10% trong số dư trung bình tiền của khách
Nội dung các văn bản nêu trên điều chỉnh
về các vấn đề sau:
- Điều kiện thành lập và hoạt động của tổ
chức kinh doanh dịch vụ ví điện tử: Quy tắc
thanh toán PBOC đưa ra các quy định cụ thể
về các điều kiện để trở thành một tổ chức kinh
doanh dịch vụ thanh toán và đặt ra các lệnh
cấm chung đối với các tổ chức phi tài chính
4 http://www.lawinfochina.com/Display.aspx?lib=law&Cgid=134238, truy cập lần cuối ngày 04/01/2021.
5 http://www.lawinfochina.com/display.aspx?lib=law&id=8564&CGid, truy cập lần cuối ngày 04/01/2021.
6
Các biện pháp quản lý hoạt động kinh doanh thanh toán trực tuyến của các tổ chức thanh toán không
phải ngân hàng, được ban hành bởi Thông tư số 43 của PBOC vào ngày 28/12/2015, có hiệu lực vào ngày
7 “Tổ chức thanh toán phi ngân hàng” được định nghĩa trong Thông tư số 43 là các tổ chức không phải ngân hàng,
được hoạt động với một giấy phép kinh doanh thanh toán và được phép cung cấp các dịch vụ thanh toán trực
tuyến thông qua Internet và các thiết bị di động. Tuy nhiên, chính PBOC cũng cho rằng, các tổ chức cung cấp dịch
vụ thanh toán sẽ bị giới hạn hơn so với các ngân hàng khi chỉ được “cung ứng cho công chúng các dịch vụ thanh
toán nhanh chóng, thuận tiện cho các giao dịch thanh toán nhỏ lẻ với giá trị thấp và số lượng ít”, điển hình là dịch
vụ thanh toán bằng ví điện tử ( Xem Hogan Lovells (2016), China regulates online payment business of non-bank
players, TMT China Brief - Winter/Spring 2016, p.12, https://www.hlmediacomms.com/files/2016/02/China-
regulates-online-payment-business-of-non-bank-players-.pdf, truy cập lần cuối ngày 20/01/2021).
8 Điều 3 Quy tắc thanh toán PBOC.
9 Điều 13, 14 Quy tắc thanh toán PBOC.
10 Điều 24, 26, 29 Quy tắc thanh toán PBOC.
50
Số 11(435) - T6/2021
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
hàng trong 90 ngày11 để đảm bảo khả năng
thanh toán, giao dịch của ví điện tử mà chủ
sở hữu PSL điều hành. Biện pháp quản lý
thanh toán trực tuyến còn đặt ra yêu cầu với
các tổ chức cung cấp dịch vụ ví điện tử phải
thiết lập một hệ thống quản lý tên thật, bằng
việc tuân theo quy tắc “biết khách hàng của
bạn” (“know your client” - KYC). Quy định
này nhằm đảm bảo xác minh hiệu quả và
chính xác về danh tính của khách hàng, ngăn
chặn việc mở và sử dụng các tài khoản ẩn
danh hoặc các tài khoản giả danh, cũng như
ngăn chặn các cá nhân trốn tránh thực hiện
các biện pháp KYC thông qua việc sử dụng
nhiều tài khoản cùng một lúc.
định kỳ, phân loại theo 5 nhóm lớn với 11 cấp
độ. Kết quả đánh giá xếp hạng A thì sẽ được
áp dụng cơ chế giám sát thông thoáng hơn và
ngược lại, các tổ chức xếp loại kém sẽ bị áp
dụng cơ chế giám sát chặt chẽ hơn. Bên cạnh
đó, PBOC đặt ra mức xử phạt là 30.000 NDT
đối với các hành vi vi phạm, song quy định
này được cho rằng là quá thấp để trở thành
một quy định xử phạt có tính răn đe12.
2.2. Singapore
Năm 2019, Nghị viện Singapore chính
thức thông qua Luật Dịch vụ thanh toán
(Payment Services Act - PSA), có hiệu lực
vào tháng 01/202013. Nội dung văn bản này
điều chỉnh những vẫn đề liên quan đến giao
dịch thanh toán qua ví điện tử như sau:
- Hạn mức giao dịch qua ví điện tử: Nhằm
nâng cao hơn mức độ bảo vệ người tiêu dùng
cũng như kiểm soát những rủi ro có thể xảy
ra, Biện pháp quản lý thanh toán trực tuyến
đã đặt ra các cấp độ tài khoản, mỗi cấp độ sẽ
có phạm vi, hạn mức giao dịch khác nhau dựa
trên chính mức độ xác thực khách hàng.
- Điều kiện thành lập và hoạt động của
tổ chức kinh doanh dịch vụ ví điện tử: PSA
điều chỉnh bảy hoạt động thanh toán14 song
song với việc quy định ba loại giấy phép có
các yêu cầu khác nhau tùy theo mức độ rủi
ro của từng dịch vụ và từng nhà cung cấp15.
Dịch vụ ví điện tử được hiểu là một dịch vụ
phát hành tài khoản16, nên nhà kinh doanh
dịch vụ ví điện tử cần phải có giấy phép của
dịch vụ phát hành tài khoản điện tử mới được
hoạt động17. Trường hợp nhà cung cấp dịch
vụ phát hành tài khoản tiền điện tử vượt quá
ngưỡng quy định của số tiền điện tử trung
- Việc giám sát, kiểm tra, đánh giá các tổ
chức kinh doanh dịch vụ ví điện tử: PBOC đã
đưa ra cơ chế, nguyên tắc để phân loại và đánh
giá các tổ chức phi ngân hàng, bao gồm cả các
tổ chức cung cấp dịch vụ ví điện tử nhằm duy
trì việc cung cấp các dịch vụ chất lượng. Theo
đó, các tổ chức này sẽ được PBOC đánh giá
11 Điều 30 Quy tắc thanh toán PBOC.
12 Weihuan Zhou, Douglas W.Anner, Ross P.Buckley (09/2015), Regulation of Digital Financial Services in
truy cập lần cuối ngày 07/01/2021.
13
Ngoài PSA, vấn đề thanh toán điện tử của Singapore còn chịu sự quản lý, điều chỉnh của Cơ quan tiền
tệ Singapore (Monetary Authority of Singapore - MAS) thông qua nhiều văn bản dưới luật, điển hình như
Nguyên tắc bảo vệ người tiêu dùng trong thanh toán điện tử (E-payments User Protection Guidelines - Nguyên
tắc EUPG ), Các yêu cầu về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố (AML / CFT),…
14 Phần 1 Phục lục 1 Đạo luật Dịch vụ thanh toán.
15 Điều 6.2 Đạo luật Dịch vụ thanh toán.
16 “Dịch vụ phát hành tài khoản” được định nghĩa bao gồm các dịch vụ phát hành tài khoản thanh toán cho bất
kỳ người nào (Phần 3, danh mục 1). “Tài khoản thanh toán” được hiểu là bất kỳ tài khoản, thiết bị hoặc phương
tiện nào ở dạng vật lý hoặc điện tử (Điều 2.1.) Dịch vụ ví điện tử cũng là hoạt động phát hành tài khoản thanh
toán kỹ thuật số cho người dùng và được biểu hiện dưới dạng một tài khoản lưu trữ tiền điện tử, do vậy thuộc
loại dịch vụ thanh toán trên.
17 Điều 5.1 Đạo luật Dịch vụ thanh toán.
Số 11(435) - T6/2021
51
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
bình hàng ngày trong một năm dương lịch
thì phải xin giấy phép tổ chức thanh toán
lớn18. Nếu bên cung cấp dịch vụ thanh toán
không xin giấy phép kinh doanh theo quy
định sẽ bị phạt tiền hoặc phạt tù có thời hạn
nhưng không quá 3 năm19.
tiền và tài trợ cho khủng bố21. Với ngăn chặn
rủi ro công nghệ, nhà cung cấp dịch vụ phải
đảm bảo rằng có đủ quản trị rủi ro và thực
hiện đủ các biện pháp kiểm soát trong các
lĩnh vực như xác thực người dùng, xử lý an
toàn khi dữ liệu bị mất, phát hiện và ngăn
chặn tấn công dữ liệu qua mạng. Với ngăn
chặn rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố, nhà
cung cấp phải đáp ứng được các yêu cầu về
chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố
như: Tiến hành xác thực khách hàng, giám
sát các giao dịch, cung cấp dịch vụ có sàng
lọc, báo cáo các giao dịch đáng ngờ và lưu
giữ đầy đủ hồ sơ giao dịch.
- Nghĩa vụ của tổ chức kinh doanh dịch vụ
ví điện tử: Tổ chức kinh doanh dịch vụ có hai
nghĩa vụ: bảo vệ người dùng và giải quyết các
rủi ro qua thanh toán bằng ví điện tử.
+ Nghĩa vụ bảo vệ người dùng: Nhà cung
cấp dịch vụ phải có trách nhiệm thông báo
rõ ràng cho mọi tài khoản về nghĩa vụ của
người tiêu dùng và của công ty mình; cung
cấp thông báo về mọi giao dịch của người
dùng (cập nhật ít nhất 24 giờ/lần, kèm theo
thông báo qua SMS hoặc email). Đối với
“tài khoản được bảo vệ”20, nhằm mục đích
báo cáo các giao dịch trái phép hay sai sót
mọi thời điểm trong ngày cho người dùng,
nhà cung cấp dịch vụ có trách nhiệm phải
cấp thêm một kênh báo cáo (qua điện thoại,
tin nhắn văn bản, email hoặc cổng thông tin
trực tuyến).
- Đồng tiền sử dụng thanh toán trong
ví điện tử: PSA công nhận cả tiền điện
tử (electronic currencies) và tiền số hóa
(cryptocurrencies)22 là hợp pháp trong thanh
toán nhưng chỉ có tiền điện tử được phép sử
dụng trong dịch vụ phát hành thẻ thanh toán,
bao gồm cả dịch vụ ví điện tử. PSA định
nghĩa tiền điện tử là bất kỳ giá trị tiền tệ nào
được lưu trữ điện tử: (i) có giá trị bằng một
loại tiền tệ hoặc được tổ chức phát hành định
giá bằng một loại tiền tệ; (ii) được trả trước
để cho phép thực hiện giao dịch thanh toán
thông qua tài khoản; (iii) được chấp nhận sử
dụng bởi một người không phải tổ chức phát
hành; (iv) đại diện cho một quyền truy đòi
(nợ) đối với tổ chức phát hành23.
+ Nghĩa vụ liên quan đến giải quyết rủi ro
trong giao dịch qua ví điện tử: PSA không
chỉ đặt ra các nghĩa vụ liên quan đến giải
quyết rủi ro để bảo vệ người tiêu dùng, mà
còn đặt ra các quy định hướng đến việc giải
quyết các vấn đề khác trong các giao dịch
thanh toán qua ví điện tử, đó là ngăn chặn
rủi ro công nghệ và ngăn chặn rủi ro về rửa
- Hạn mức giao dịch qua ví điện tử: PSA
quy định các tổ chức thanh toán được cấp
18 Điều 6.5 Đạo luật Dịch vụ thanh toán.
19 Điều 5.3 và Điều 6.15 Đạo luật Dịch vụ thanh toán.
20 “Tài khoản được bảo vệ” là tài khoản có số dư trên 500 đô la Singapore.
21 Frequently asked questions (FAQs) on the payment services act (PSAct) – MonetaryAuthority of Singapore,
22 “Tiền số hóa” như bitcoin, không được phát hành bởi chính phủ hay một tổ chức tài chính, mà được vận hành
dựa trên hệ thống các máy tính kết nối mạng internet ngang hàng. Về “tiền số hóa”, hiện nay, trên thế giới có
hai khuynh hướng: (i) cấm và coi “tiền số hóa là bất hợp pháp (Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia,
Nga,…); (ii) có xu hướng tiến hành cấp phép cho “tiền số hóa” (Thụy Điển, Đức , Đan Mạch, Pháp, Hồng
Kông, Hoa Kỳ,…).
23 Điều 2 Luật Dịch vụ thanh toán.
52
Số 11(435) - T6/2021
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
phép cung cấp dịch vụ phát hành tài khoản
phải: (i) hạn chế người dùng giữ hơn 5.000
đô la trong ví điện tử của họ; (ii) ngăn người
dùng chuyển hơn 30.000 đô la trong vòng
mỗi năm vào các tài khoản khác ngoài tài
khoản ngân hàng được chỉ định trước đó của
người dùng24.
trách nhiệm hữu hạn không phải ngân hàng
nhưng được cấp giấy phép cung cấp dịch vụ27
và phải có (hoặc dự định có) ít nhất 300.000
người dùng28. Tuy nhiên, đối với các nhà
cung cấp dịch vụ ví điện tử có dưới 300.000
người dùng chưa đáp ứng được yêu cầu để
được Ngân hàng Trung ương Indonesia cấp
giấy phép thì các công ty này sẽ vẫn được
hoạt động nhưng phải thực hiện nghĩa vụ gửi
báo cáo hoạt động thường xuyên cho Ngân
hàng Trung ương Indonesia29. Thêm vào đó,
theo một tổ chức phát hành chỉ có thể có
quyền sở hữu cổ phần nước ngoài tối đa là
49%;30các tổ chức cung cấp dịch vụ ví điện
tử nước ngoài, muốn tham gia vào thị trường
ví điện tử ở Indonesia, phải hợp tác với một
ngân hàng thương mại của Indonesia được
phân loại là “Buku 4”31.
2.3. Indonesia
Ở Indonesia, các vấn đề pháp lý liên quan
đến giao dịch thanh toán qua ví điện tử được
điều chỉnh chủ yếu bởi hai văn bản do Ngân
hàng trung ương Indonesia ban hành: Quy
chế số 18/40/PBI/2016 về hoạt động xử lý
giao dịch thanh toán năm 2016 (Quy chế số
18)25 và Quy định số 20/6/PBI/2018 về tiền
điện tử năm 2018 (Quy định số 20)26. Hai
văn bản này điều chỉnh các vấn đề sau:
- Điều kiện thành lập và hoạt động của
tổ chức kinh doanh dịch vụ ví điện tử: Theo
Quy chế số 18, tổ chức kinh doanh dịch vụ
ví điện tử có thể là ngân hàng hoặc công ty
- Đồng tiền sử dụng thanh toán trong
ví điện tử: Indonesia cũng là quốc gia thừa
nhận tiền điện tử là đồng tiền trong thanh
24 Frequently asked questions (FAQs) on the payment services act (PS Act) - Monetary Authority of Singapore,
25
Concerning%20the%20implementation%20of%20payment%20transaction.pdf, truy cập lần cuối ngày 05/5/2021.
26 https://www.bi.go.id/en/publikasi/peraturan/Documents/PBI_200618_en.pdf, truycậplầncuốingày05/5/2021.
27 Điều 7 Quy chế về hoạt động xử lý giao dịch thanh toán.
28 Điều 8 Quy chế về hoạt động xử lý giao dịch thanh toán.
29 Điều 29 Quy chế về hoạt động xử lý giao dịch thanh toán.
30 Ngoài ra, Ngân hàng Trung ương Indonesia còn được phép đặt ra số lượng sở hữu cổ phần nước ngoài trong
các tổ chức phi ngân hàng thực hiện các hoạt động tiền điện tử dựa trên một số cân nhắc nhất định, ví dụ như
cân nhắc về hồ sơ theo dõi của chính công ty và/hoặc cổ đông của nó hay công nghệ được sử dụng và phạm vi
sử dụng tiền điện tử. Yêu cầu này được đặt ra là bởi hiện nay, có khá nhiều nhà cung ứng ví điện tử nước ngoài
đã thể hiện sự quan tâm đến thị trường thanh toán kỹ thuật số Indonesia chẳng hạn như Alipay, WeChatPay,
WhatsApp Pay,….
31
Hiện tại có bảy ngân hàng ở Indonesia được phân loại là “BUKU 4”: BNI, Mandiri, BRI, BCA, CIMB
Niaga, Bank Danamon và Bank Panin cho ví điện tử xuyên biên giới thông qua Ngân hàng Trung ương
Indonesia. WeChat Pay đang hợp tác với CIMB Niaga và vào đầu tháng 01/2020 đã nhận được giấy phép sơ bộ
từ Ngân hàng Trung ương Indonesia để hoạt động tại Indonesia. CIMB Niaga sẽ đóng vai trò quản lý và chịu
trách nhiệm trước pháp luật Indonesia về các giao dịch được thực hiện qua nền tảng ví điện tử quốc tế. AliPay
được thiết lập để hợp tác với Bank of Mandiri và BRI nhưng vẫn chưa nhận được sự chấp thuận của Bank of
Indonesia. Samsung Electronics Indonesia đã hợp tác với ví điện tử Dana và GoPay để cung cấp SamsungPay,
một ứng dụng sẽ tích hợp hai dịch vụ Ví điện tử. Nền tảng này sẽ cải thiện trải nghiệm của khách hàng bằng
cách cung cấp khả năng truy cập dễ dàng vào các ứng dụng thanh toán kỹ thuật số thông qua SamsungPay.
Số 11(435) - T6/2021
53
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
toán bằng ví điện tử32. Các tính năng của
tiền điện tử có thể được cung cấp bởi các
tổ chức phát hành theo Quy định số 20 có
thể ở dạng: (a) nạp tiền; (b) giao dịch thanh
toán mua sắm; và / hoặc (c) thanh toán hóa
đơn. Ngoài ra, tổ chức phát hành cũng có
thể cung cấp các loại tính năng khác như
chuyển tiền và rút tiền, đối với tiền điện tử
vòng mở đã đăng ký; và/hoặc các tính năng
được Ngân hàng Trung ương đồng ý. Ngoài
các tính năng, tiền điện tử được phát hành
trên lãnh thổ Indonesia phải sử dụng đồng
Rupiah Indonesia. Các nhà cung cấp bị cấm
chấp nhận, sử dụng, liên quan và/hoặc tiến
hành xử lý giao dịch thanh toán tiền điện tử
bằng tiền ảo.
điện tử hoặc (ii) giao dịch bằng ví điện tử ít
nhất một lần trong một tháng. Người dùng
dịch vụ sẽ được đảm bảo quyền lợi khi nhà
cung cấp ví điện tử hoàn thành đầy đủ nghĩa
vụ của mình trong việc bảo đảm quản lý các
giao dịch diễn ra một cách an toàn trơn tru,
bảo mật thông tin khách hàng, không được
dùng thông tin vào sai mục đích. Đặc biệt,
người dùng có quyền yêu cầu hoàn trả số
tiền giao dịch khi đó nhà cung cấp sẽ phải
hoàn tiền ngay cho người dùng ví điện tử khi
có yêu cầu hoàn lại tiền33. Đồng thời, người
dùng cũng phải có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ
và đúng thông tin để tiến hành giao dịch.
- Việc xử lý các hành vi vi phạm của tổ
chức kinh doanh dịch vụ ví điện tử: Nhà
cung ứng dịch vụ thanh toán mà vi phạm các
quy định trong các văn bản nêu trên sẽ bị
xử phạt dưới những hình thức: (a) cảnh cáo
bằng lời nói; (b) tiền phạt; (c) tạm thời đóng
băng một phần hoặc tất cả các hoạt động tiền
điện tử và / hoặc các hoạt động dịch vụ hệ
thống thanh toán khác; và / hoặc (d) thu hồi
giấy phép cung ứng dịch vụ thanh toán34.
- Hạn mức giao dịch qua ví điện tử:
Trước đây, trong các văn bản chính thức của
Ngân hàng Trung ương Indonesia vẫn chưa
quy định mức cụ thể đối với số dư tối đa
trong ví điện tử. Quy định số 20 đã chính
thức giới hạn tối đa của ví điện tử là 10 triệu
Rp và giới hạn giao dịch trong vòng 1 tháng
không được vượt quá 20 triệu Rp.
- Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng ví
điện tử: Pháp luật Indonesia không chỉ đưa
ra những quy định đối với nhà cung cấp dịch
vụ, mà còn đưa ra cả các quy định liên quan
đến người sử dụng. Trước hết, theo Quy định
số 18, người sử dụng được xác định là những
người: (i) giao dịch thường xuyên bằng ví
3. Những gợi mở cho Việt Nam trong việc
hoàn thiện các quy định của pháp luật về
thanh toán qua ví điện tử
Ở Việt Nam hiện nay, ví điện tử đang
ngày càng phát triển với lượng người
dùng đông đảo và là một thị trường tiềm
32 Năm 2009, Ngân hàng Trung ương Indonesia đã ban hành 11/12/PBI/2009 điều chỉnh tiền điện tử (Electronic
Money, e-money) công nhận chính tiền điện tử là một công cụ thanh toán hợp pháp, sau đó được sửa đổi, bổ
sung trong văn bản 18/17/PBI/2016. Đến năm 2018, Ngân hàng Trung ương Indonesia đã ban hành quy định
số 20/6/PBI/2018 thay thế cho văn bản năm 2009 về tiền điện tử trong đó quy định chi tiết điều chỉnh riêng
về lĩnh vực tiền điện tử.
33 Điều 21 Quy định số 18/40/PBI/2016 liên quan đến việc thực hiện xử lý giao dịch thanh toán.
34 Ngoài ra, trong Quy định số 18 còn quy định thêm rằng ngoài việc áp dụng các biện pháp trừng phạt như đã
nêu tại Điều 35, Ngân hàng Trung ương Indonesia còn có thể yêu cầu nhà cung cấp tiến hành hoặc không tiến
hành bất cứ điều gì, đình chỉ một phần hoặc tất cả các hoạt động của dịch vụ hệ thống thanh toán, hủy bỏ hoặc
thu hồi giấy phép hoặc phê duyệt đã cấp cho nhà cung cấp dịch vụ trong một số trường hợp.
54
Số 11(435) - T6/2021
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
năng đối với các nhà đầu tư quan tâm đến
lĩnh vực này35. Bên cạnh đó, Việt Nam
cũng đã và đang trong quá trình xây dựng
và hoàn thiện các quy định của pháp luật
về thanh toán qua ví điện tử. Vì vậy, việc
vận dụng kinh nghiệm pháp luật của các
nước trong hoàn thiện các quy định của
pháp luật về ví điện tử ở nước ta là rất cần
thiết. Thông qua những nghiên cứu trên
đây, các tác giả rút ra một số gợi mở cho
Việt Nam như sau:
tiền kỹ thuật số khác. Điều này dễ dẫn đến
việc người dùng đánh giá sai lệch hoặc có
cách hiểu không thống nhất với nhau, gây ra
trở ngại cho các bên trong việc sử dụng ví
điện tử để thanh toán. Từ kinh nghiệm của
Singapore và Indonesia, Việt Nam cần bổ
sung quy định về tiền điện tử trong các văn
bản pháp luật điều chỉnh thanh toán không
dùng tiền mặt.
Thứ hai, những gợi mở liên quan đến quy
định về điều kiện thành lập và hoạt động của
tổ chức kinh doanh dịch vụ ví điện tử
Thứ nhất, những gợi mở liên quan đến
quy định về ví điện tử và tiền điện tử
Ở Việt Nam, theo quy định hiện hành,
điều kiện tiên quyết để trở thành nhà cung
ứng dịch vụ ví điện tử - phải là một tổ
chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh
toán. Tổ chức này có thể là ngân hàng
hoặc không phải ngân hàng nhưng phải
được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép
hoạt động trong lĩnh vực cung ứng dịch
vụ trung gian thanh toán36. Bên cạnh đó,
đối với tổ chức không phải là ngân hàng,
phải đáp ứng thêm các điều kiện khác như:
phải có giấy phép thành lập hoặc giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp;
có phương án kinh doanh dịch vụ trung
gian thanh toán được phê duyệt theo đúng
quy định về thẩm quyền đầu tư tại điều
lệ hoạt động của tổ chức; có vốn điều lệ
Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày
22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán
không dùng tiền mặt, được sửa đổi, bổ sung
bởi Nghị định số 80/2016/NĐ-CP ngày
1/7/2016 (Nghị định số 101); Thông tư số
39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014 của
Ngân hàng nhà nước Hướng dẫn về dịch vụ
trung gian thanh toán, được sửa đổi, bổ sung
bởi Thông tư số 23/2019/TT-NHNN ngày
22/11/2019 (Thông tư số 39) là những văn
bản điều chỉnh dịch vụ thanh toán qua ví
điện tử. Tuy nhiên, các văn bản này không
đề cập đến khái niệm tiền điện tử như là
đồng tiền thanh toán trong ví điện tử. Mặc
dù hiện nay, “tiền điện tử” đã dần trở nên
phổ biến, nhưng lại chỉ có số ít người hiểu
rõ và phân biệt được tiền điện tử với các loại
35
Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước tính đến năm 2020, bên cạnh hệ thống các ngân hàng thương mại,
Việt Nam có khoảng 37 tổ chức không phải ngân hàng được cấp phép cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán
thì có tới 34 nhà cung cấp dịch vụ thanh toán bằng ví điện tử, có thể kể đến các tên tuổi nổi tiếng như Momo,
Samsung Pay, VTC Pay, Bankplus, Payoo, ZaloPay, 1Pay, Bảo Kim, Vimo, Mobivi, eDong, Ví FPT, eMonkey,
Pay365, TopPay, Ngân Lượng, AirPay,… Sự sôi động và hấp dẫn của thị trường ví điện tử cũng đã thu hút
không chỉ các công ty công nghệ mà còn cả các ngân hàng thương mại, buộc các ngân hàng đã quen với lối
thanh toán truyền thống phải có sự chủ động tham gia vào thị trường này. Một số ngân hàng đã phát triển hệ
thống thanh toán ví điện tử của mình như VPBank với Timo, LienVietPostBank với Ví Việt. Trong báo cáo của
mình, IDC cũng đã đưa ra dự báo rằng ví điện tử ở Việt Nam sẽ tăng trưởng nhanh so với các quốc gia trong
khu vực (IDC (04/2020), Asia in a new era of digital payment, An IDC Whitepaper, https://assets.website-files.
com/5c6283f39ea6205dee7cf941/5e9ec6f7e2658e58395ff5e2_NTT_IDC%20Data%20Whitepaper_Asia%20
in%20a%20New%20Era%20of%20Digital%20Payments%5B294%5D.pdf, truy cập lần cuối ngày 25/01/2021).
36 Khoản 4 Điều 4 số Nghị định 101.
Số 11(435) - T6/2021
55
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
tối thiểu là 50 tỷ đồng; đáp ứng được các
điều kiện về nhân sự, cơ sở vật chất, hạ
tầng kỹ thuật37. So với quy định pháp luật
Trung Quốc, Indonesia, các quy định của
Việt Nam có nhiều điểm tương đồng về số
vốn, về điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật.
Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều công ty kinh
doanh dịch vụ ví điện tử không hoạt động
hiệu quả. Điều này gây nhiều khó khăn cho
người dùng trong việc lựa chọn ví điện tử
để sử dụng vì không thể nắm bắt được ví
nào đáng tin cậy ví nào không. Bên cạnh
đó, các cơ quan có thẩm quyền cũng khó
khăn trong việc kiểm soát, giám sát những
tổ chức kinh doanh dịch vụ này. Để khắc
phục hạn chế này, Việt Nam có thể áp
dụng kinh nghiệm của Trung Quốc đặt ra
giấy phép PSL để có thể liên tục kiểm soát
được quá trình hoạt động của các công
ty cung cấp dịch vụ ví điện tử, cũng như
kiểm soát được liệu công ty đó có đi vào
hoạt động cung cấp dịch vụ ví điện tử trên
thực tế hay không.
Luật An toàn thông tin mạng năm 2015,
Luật Giao dịch điện tử năm 2005, Nghị định
số 101. Tuy nhiên, những văn bản này chưa
trù liệu đến nghĩa vụ của tổ chức cung ứng
dịch vụ trong việc xử lý các tình huống rủi
ro liên quan đến kỹ thuật, công nghệ, mạng
hay các giao dịch có yếu tố lỗi38. Trong khi
đó, việc tiến hành các giao dịch dựa trên nền
tảng Internet như ví điện tử thì quy định này
là vô cùng cần thiết. Vận dụng kinh nghiệm
của Singapore, Việt nam cần bổ sung quy
định về nghĩa vụ của tổ chức cung ứng dịch
vụ trong việc điều hành hệ thống, sớm phát
hiện và giải quyết vấn đề cũng như đảm bảo
quyền lợi của chính nhà cung cấp ví điện tử
và người tiêu dùng.
Thứ tư, những gợi mở liên quan đến quy
định về hạn mức giao dịch trong ví điện tử
Hiện nay, trong bối cảnh ví điện tử đang
ngày càng phát triển tại thị trường Việt Nam,
số lượng người dùng cũng như giá trị giao
dịch ngày càng tăng cao39 thì quy định hiện
hành thay đổi từ hạn mức giao dịch ngày
sang hạn mức giao dịch tháng là 100 triệu
đồng/tháng40 là thực sự hợp lý. Mặt khác,
quy định này sẽ gây khó khăn cho người
dùng, cản trở cho việc ví điện tử tiếp cận
đến nhu cầu thực tiễn của khách hàng cũng
như gây cản trở khả năng phát triển của loại
hình dịch vụ thanh toán này. Trên cơ sở kinh
nghiệm của Trung Quốc, Indonesia, Việt
Nam có thể cân nhắc lựa chọn sửa đổi quy
định này theo hướng kết hợp giữa việc xác
thực người dùng và hạn mức ví hoặc hạn
Thứ ba, những gợi mở liên quan đến quy
định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong
quan hệ dịch vụ ví điện tử
Nghĩa vụ của tổ chức kinh doanh dịch vụ
thanh toán qua ví điện tử được quy định khá
đầy đủ tại Thông tư số 39. Nhà cung ứng
dịch vụ ví điện tử không chỉ có nghĩa vụ đối
với khách hàng, người dùng ví, mà còn có
nghĩa vụ đối với các ngân hàng. Ngoài ra,
đối với vấn đề bảo mật thông tin, nhà cung
cấp dịch vụ ví điện tử còn phải đảm bảo thực
hiện đúng các nghĩa vụ được quy định trong
mức giao dịch
37 Khoản 2 Điều 15 Nghị định số 101.
38 Liên quan đến vấn đề phòng, chống rửa tiền thì hiện nay, đối tượng báo cáo trong quy định của Luật Phòng,
chống rửa tiền năm 2012 không bao gồm tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, tức là cũng không
bao gồm bên cung ứng dịch vụ ví điện tử.
39 Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quý I/2020 thì hết quý I/2020, Việt Nam đã có khoảng 13
triệu tài khoản ví điện tử được kích hoạch, sử dụng với tổng số dư ví vào khoảng 1,36 nghìn tỷ đồng; khoảng
225,6 triệu giao dịch được thực hiện thông qua ví điện tử với giá trị lên tới 77,7 nghìn tỷ đồng.
40 Theo điểm c Khoản 6 Điều 9 Thông tư số 39.
56
Số 11(435) - T6/2021
Bạn đang xem tài liệu "Quy định về thanh toán qua ví điện tử của một số quốc gia, những gợi mở cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- quy_dinh_ve_thanh_toan_qua_vi_dien_tu_cua_mot_so_quoc_gia_nh.pdf