Hợp đồng vô hiệu do chủ thể giao kết không tự nguyện theo quy định của bộ nguyên tắc chung về luật hợp đồng châu Âu - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO CHỦ THỂ GIAO KẾT KHÔNG TỰ NGUYỆN
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ NGUYÊN TẮC CHUNG VỀ LUẬT
HỢP ĐỒNG CHÂU ÂU - BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Lê Thị Giang*
Người phản biện: TS. Hoàng Thị Hải Yến
Tóm tắt: Tự nguyện giao kết hợp đồng là một trong những nguyên tắc cơ bản,
quan trọng và đƣợc thừa nhận trong các hệ thống pháp luật trên thế giới. Khi một hoặc
các bên chủ thể giao kết hợp đồng không tự nguyện thì hệ quả có thể phát sinh là hợp
đồng bị vô hiệu. Trong cả Bộ nguyên tắc chung về Luật Hợp đồng Châu Âu (tên gốc
tiếng Anh: “The Principles on European Contract Law”; sau đây gọi tắt là “PECL”) và
Bộ luật dân sự (sau đây gọi tắt là “BLDS”) năm 2015 của nƣớc ta đều ghi nhận về vấn
đề này với các trƣờng hợp tƣơng đồng là: hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn, lừa dối và
đe dọa. Bài vết tập trung phân tích các trƣờng hợp hợp đồng vô hiệu do chủ thể giao
kết hợp đồng không tự nguyện theo quy định của PECL. Trên cơ sở đó, tác giả bài viết
rút ra một số bài học kinh nghiệm cho nƣớc ta trong việc hoàn thiện quy định về hợp
đồng vô hiệu do chủ thể giao kết không tự nguyện trong BLDS năm 2015.
Từ khóa: hợp đồng vô hiệu; chủ thể giao kết hợp đồng không tự nguyện; Bộ
nguyên tắc chung về luật hợp đồng Châu Âu.
Résumé: Le consentement de la conclusion du contrat qui est l‟un des principles
principaux, importants et est reconnu par les systèmes de droit dans le monde. Lorsque
les parties du contrat n‟a pas de consentement, le contrat conclu sera nul. Les
principles du droit euroéen des contrats (le nom en anglais “The Principles on
European Contract Law” ci-après appelé PECL) et le Code civil vietnamien (ci-après
appelé BLDS) en 2015 prévoient cette question avec les analogies: l‟erreur, le dol et la
violence sont les causes de nullité du contrat. Cet article analyse les cas de nullité du
contrat en raison de l‟absence du consentement des parties du contrat d‟après les règles
des PECL. De ces analyses, l‟auteur tire des experiences pour la perfection des règles
du Code civil vietnamien relatives à la nullité du contrat en raison de l‟absence du
consentement des parties du contrat.
* ThS., Trƣờng Đại học Luật Hà Nội
244
Mots clés: Nullité du contrat, Absence du consentement des parties du contrat,
Principes du droit européen des contrats.
I. Hợp đồng vô hiệu do chủ thể giao kết không tự nguyện theo quy định của
Bộ nguyên tắc chung về Luật Hợp đồng Châu Âu
1. Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn
Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn là vấn đề đƣợc quy định tƣơng đối chi tiết
trong Chƣơng 4 của PECL. Điều 4:103 PECL quy định về các trƣờng hợp nhầm lẫn là
nguyên nhân dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng đồng gồm:
(i) Sự nhầm lẫn xuất phát từ thông tin được đưa ra bởi bên kia;
Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn là trƣờng hợp khá phổ biến trên thực tế khi một
bên tham gia vào hợp đồng trên cơ sở hiểu lầm về các sự kiện hoặc luật làm ảnh
hƣởng đến hợp đồng. Điều này đồng nghĩa, sự hiểu lầm về các sự kiện hoặc luật là tiền
đề để các bên giao kết hợp đồng. Nếu không có sự hiểu lầm về các sự kiện hoặc quy
định của luật thì bên bị nhầm lẫn đã không kí kết hợp đồng hoặc kí kết hợp đồng với
nội dung khác nội dung đã kí kết.
Trƣớc hết, theo quy định tại Điều 4: 103 PECL, sự nhầm lẫn của một bên về các
nội dung của hợp đồng hoặc nhầm lẫn về luật xuất phát từ thông tin do chính đối tác
cung cấp. Đây là trƣờng hợp một bên bị nhầm lẫn xuất phát từ thông tin do phía bên
kia đƣa ra. Do đó, trong trƣờng hợp này bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp
đồng do bị vô hiệu.
(ii) Bên kia biết hoặc phải biết về sự nhầm lẫn và sẽ trái với nguyên tắc thiện chí
và công bằng khi để mặc một bên nhầm lẫn;
Khác với trƣờng hợp trên, một bên chủ động đƣa ra thông tin và những thông tin
mà họ đƣa ra là nguyên nhân dẫn đến sự nhầm lẫn của phía đối tác còn lại. Đối với
trƣờng hợp này, một bên không đƣa ra thông tin mà họ biết hoặc phải biết về sự nhầm
lẫn của bên kia nhƣng để mặc đối tác nhầm lẫn trong quá trình giao kết hợp đồng. Tuy
nhiên, không phải trƣờng hợp nào mà một bên để mặc bên khác nhầm lẫn cũng đƣợc
coi là căn cứ tuyên bố hợp đồng vô hiệu mà sự nhầm lẫn này phải dẫn tới hệ quả là
hợp đồng đƣợc kí kết trái với nguyên tắc thiện chí và công bằng. Điều này cũng đƣợc
hiểu, nếu một bên để mặc bên kia nhầm lẫn nhƣng sự nhầm lẫn đó không gây ra hệ
245
quả trái với nguyên tắc thiện chí và công bằng thì hiệu lực của hợp đồng không bị ảnh
hƣởng.
(iii) Bên kia cũng nhầm lẫn tương tự.
Đối với hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn thì có thể xảy ra hai khả năng: một bên
trong hợp đồng nhầm lẫn hoặc cả hai bên trong hợp đồng đều nhầm lẫn. Đối với
trƣờng hợp cả hai bên trong hợp đồng đều nhầm lẫn về cùng một nội dung thì hợp
đồng đƣợc xác định vô hiệu. Chủ thể yêu cầu tuyên bố vô hiệu trong trƣờng hợp này
có thể là một hoặc cả hai bên trong hợp đồng.
Ngoài ba trƣờng hợp trên, điểm b khoản 1 Điều 4: 103 PECL còn quy định thêm
trƣờng hợp: “Bên kia biết hoặc phải biết rằng bên bị nhầm lẫn, trong trường hợp biết
được sự thật, sẽ không giao kết hợp đồng hoặc nếu giao kết sẽ dựa trên các điều
khoản cơ bản khác”. Trong trƣờng hợp, một bên biết hoặc phải biết bên kia đang bị
nhầm lẫn và sự nhầm lẫn của đối tác là nguyên nhân thúc đẩy họ giao kết hợp đồng thì
hợp đồng sẽ bị vô hiệu. Quy định này là phù hợp bởi lẽ nếu nhƣ họ không bị nhầm lẫn
thì họ sẽ không giao kết hợp đồng; do vậy, để đảm bảo tính tự nguyện của họ thì trong
trƣờng hợp này họ có quyền yêu cầu tuyên hợp đồng vô hiệu.
Nhƣ đã phân tích ở trên, không phải bất cứ sự nhầm lẫn về nội dung hay về sự
nhầm lẫn về pháp luật nào cũng dẫn tới hậu quả pháp lý hợp đồng bị vô hiệu. Khoản 2
Điều 4:103 PECL đã quy định cụ thể hai trƣờng hợp mà sự nhầm lẫn của các bên
không là nguyên nhân làm mất hiệu lực của hợp đồng, cụ thể:
Một là, trong trường hợp sự nhẫm lẫn của một bên là không thể chấp nhận được;
Nguyên nhân dẫn tới sự nhầm lẫn phải hợp lý và có thể chấp nhận đƣợc. Việc
một bên viện dẫn họ bị nhầm lẫn nên giao kết hợp đồng nhƣng sự nhầm lẫn của họ hết
sức phi lý, không thể chấp nhận đƣợc thì hợp đồng vẫn có hiệu lực nhƣ bình thƣờng.
Bởi với mỗi cá nhân với trình độ nhận thức bình thƣờng thì họ không thể nào có sự
nhầm lẫn “vô lý” nhƣ sự nhầm lẫn họ đƣa ra.
Hai là, bên bị nhầm lẫn đã suy đoán được rủi ro nhầm lẫn hoặc trong trường
hợp bên bị nhẫm lẫn buộc phải chịu rủi ro nhầm lẫn do khách quan.
Theo quy định này, mặc dù có sự nhầm lẫn tồn tại trong hợp đồng đã đƣợc giao
kết giữa các bên nhƣng sự nhầm lẫn này không ảnh hƣởng tới hiệu lực của hợp đồng
nếu thuộc vào một trong hai trƣờng hợp sau đây:
246
(i) Bên bị nhầm lẫn đã suy đoán đƣợc rủi ro nhầm lẫn: đây là trƣờng hợp chính
bên bị nhầm lẫn họ đã lƣờng trƣớc, dự liệu đƣợc khả năng nhầm lẫn có thể xảy ra. Tuy
vậy, chính bản thân họ lại không thực hiện các biện pháp để đƣa bản thân mình thoát
khỏi tình trạng nhầm lẫn. Do vậy, đối với trƣờng hợp bên bị nhầm lẫn đã suy đoán
đƣợc rủi ro nhầm lẫn thì họ không có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do
nhầm lẫn.
(ii) Bên bị nhẫm lẫn buộc phải chịu rủi ro nhầm lẫn do khách quan: đây là trƣờng
hợp các bên trong hợp đồng đều không thể lƣờng trƣớc đƣợc yếu tố nhầm lẫn tồn tại
trong hợp đồng. Bên kia hợp đồng không đƣa ra thông tin hoặc họ cũng không phải
chịu trách nhiệm cho sự nhầm lẫn của phía đối tác. Sự nhầm lẫn của một bên trong
hợp đồng hoàn toàn xuất phát từ các yếu tố khách quan nên bên bị nhầm lẫn là chủ thể
buộc phải chịu các hệ quả do sự nhầm lẫn đó gây ra. Điều này đƣợc hiểu hợp đồng vẫn
đƣợc công nhận hiệu lực nhƣ bình thƣờng và các bên phải thực hiện theo đúng các
nghĩa vụ đã cam kết với nhau trong hợp đồng.
Một trong các trƣờng hợp hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn điểm hình là do một
bên cung cấp thông tin không chính xác. Vấn đề này đƣợc quy định tại Điều 4:104 nhƣ
sau: “Thông tin không chính xác trong việc thể hiện hoặc truyền đạt một tuyên bố một
bên đưa ra được coi như bên đó gây ra nhầm lẫn và Điều 4:103 sẽ được áp dụng”272.
Theo quy định này, việc thông tin không chính xác gồm các trƣờng hợp sau đây:
- Thể hiện thông tin không chính xác
- Truyền đạt thông tin không chính xác
Chủ thể đã thông tin không chính xác phải chịu trách nhiệm khiến cho đối tác bị
nhầm lẫn trong quá trình giao kết hợp đồng. Do vậy, hợp đồng đã giao kết có thể bị
tuyên bố vô hiệu do bị nhầm lẫn theo Điều 4:103 PECL. Tuy vậy, bên đã bị cung cấp
thông tin không chính xác khi thực hiện quyền hủy bỏ hợp đồng phải chứng minh
đƣợc yếu tố thông tin không chính xác của phía bên kia.
Pháp luật về hợp đồng của các quốc gia trên thế giới cũng nhƣ PECL đều đƣợc
xây dựng dựa trên nguyên tắc thúc đẩy giao dịch, giao thƣơng buôn bán, trao đổi giữa
các bên chủ thể trong xã hội. Đây là một trong các động lực phát triển kinh tế đất
272 Article 4:104: Inaccuracy in Communication
“An inaccuracy in the expression or transmission of a statement is to be treated as a mistake of the person who
made or sent the statement and Article 4:103 applies”.
247
nƣớc. Do đó, pháp luật về hợp đồng nói chung không mong muốn và không khuyến
khích các bên hủy hợp đồng. Các quy định về hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn trong Bộ
nguyên tắc chung về Luật Hợp đồng Châu Âu cũng đƣợc xây dựng dựa trên nguyên lý
này. Theo đó, Điều 4:105273 PECL quy định kể cả khi đã tồn tại sự nhầm lẫn trong khi
giao kết hợp đồng nhƣng hợp đồng vẫn không bị hủy bỏ nếu rơi vào một trong hai
trƣờng hợp sau đây:
Thứ nhất, nếu một bên có quyền tuyên bố hủy hợp đồng do nhầm lẫn nhƣng bên
kia chỉ ra rằng họ sẵn sàng thực hiện hoặc đã thực sự thực hiện hợp đồng theo nhƣ
cách hợp đồng đƣợc hiểu bởi bên có quyền tuyên bố hủy, hợp đồng đƣợc xem nhƣ đã
giao kết theo cách hiểu của bên đó. Bên kia phải chỉ ra ý định thực hiện, hoặc cam kết
thực hiện hợp đồng, ngay sau khi nhận đƣợc thông báo về cách ứng xử của bên có
quyền hủy hợp đồng và trƣớc khi bên này hành động dựa trên thông báo hủy hợp
đồng.
Sau khi bên kia đã chỉ ra hoặc hành động nhƣ vậy, quyền hủy hợp đồng bị mất và
bất kỳ thông báo hủy hợp đồng trƣớc đó đều vô hiệu.
Thứ hai, khi cả hai bên đều nhầm lẫn, theo yêu cầu của một trong các bên, tòa án
có thể điều chỉnh hợp đồng theo nhƣ hợp đồng có thể đƣợc thỏa thuận nếu không có
nhầm lẫn
2. Hợp đồng vô hiệu do lừa dối
Cũng giống nhƣ pháp luật của nƣớc ta, bên cạnh yếu tố nhầm lẫn thì lừa dối cũng
là một trong các nguyên nhân dẫn tới sự vô hiệu của hợp đồng. Điều 4: 107 PECL quy
định về vấn đề hủy bỏ hợp đồng do có yếu tố lừa dối nhƣ sau:
273 Article 4:105: Adaptation of Contract
(1) If a party is entitled to avoid the contract for mistake but the other party indicates that it is willing to
perform, or actually does perform, the contract as it was understood by the party entitled to avoid it, the
contract is to be treated as if it had been concluded as the that party understood it. The other party must indicate
its willingness to perform, or render such performance, promptly after being informed of the manner in which
the party entitled to avoid it understood the contract and before that party acts in reliance on any notice of
avoidance.
(2) After such indication or performance the right to avoid is lost and any earlier notice of avoidance is
ineffective.
(3) Where both parties have made the same mistake, the court may at the request of either party bring the
contract into accordance with what might reasonably have been agreed had the mistake not occurred”.
248
“(1) Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng nếu hợp đồng được giao kết dựa trên sự
lừa dối, dù bằng hành vi hay lời nói của bên kia, hoặc dựa trên việc không tiết lộ
thông tin phù hợp mà theo nguyên tắc thiện chí và công bằng bên kia có nghĩa vụ đó.
(2) Một bên bị xem là lừa dối nếu trình bày hoặc thực hiện việc không tiết lộ
thông tin như trên nhằm lừa gạt.
(3) Để xác định nguyên tắc thiện chí và công bằng yêu cầu một bên chịu nghĩa vụ
tiết lộ thông tin cụ thể, cần phải lưu ý đến mọi hoàn cảnh, bao gồm:
(a) Liệu bên đó có chuyên môn đặc biệt hay không;
(b) Chi phí cho việc thu thập thông tin liên quan;
(c) Liệu bên kia có thể thu thập thông tin một cách hợp lý bằng khả năng của
chính họ; và
(d) Tầm quan trọng rõ ràng của thông tin đến phía bên kia”274.
Theo quy định trên, lừa dối đƣợc hiểu là các trƣờng hợp sau đây:
Một là, một bên đƣa ra thông tin không chính xác nhằm lừa dối đối tác để giao
kết hợp đồng. Đây là trƣờng hợp bên lừa dối thực hiện hành vi lừa dối dƣới dạng hành
động – chủ động thực hiện các hành vi lừa dối. Hình thức đƣa ra các thông tin sai lệch
của bên lừa dối có thể là bằng hành vi hoặc lời nói. Trƣờng hợp bên lừa dối không nói
bất cứ một thông tin sai lệch nào nhƣng họ cố tình thực hiện bằng hành vi và dựa trên
hành vi họ thực hiện mà phía bên kia hiểu sai thì có thể xác định hợp đồng đã giao kết
có tồn tại yếu tố lừa dối.
Hai là, một bên không thực hiện việc lừa dối bằng bất cứ hành động hay lời nói
nào nhƣng họ lại không tiết lộ thông tin phù hợp mà theo nguyên tắc thiện chí và công
bằng họ có nghĩa vụ đó thì hành vi không tiết lộ thông tin đƣợc xác định là lừa dối đối
tác. Khác với trƣờng hợp trên, bên lừa dối cố ý đƣa ra thông tin sai lệch dƣới dạng
hành động – bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể thì trƣờng hợp này bên lừa dối thực hiện
274 Article 4:107: Fraud
“(1) A party may avoid a contract when it has been led to conclude it by the other party's fraudulent
representation, whether by words or conduct, or fraudulent non-disclosure of any information which in
accordance with good faith and fair dealing it should have disclosed.
(2) A party's representation or non-disclosure is fraudulent if it was intended to deceive.
(3) In determining whether good faith and fair dealing required that a party disclose particular information,
regard should be had to all the circumstances, including:
(a) whether the party had special expertise;
(b) the cost to it of acquiring the relevant information;
(c) whether the other party could reasonably acquire the information for itself; and
(d) the apparent importance of the information to the other party”.
249
hành vi thừa dối dƣới dạng không hành động – không tiết lộ thông tin mà họ phải tiết
lộ theo yêu cầu của nguyên tắc thiện chí và công bằng.
Quy định về lừa dối trong PECL tƣơng đối chặt chẽ và chính xác. Bên cạnh việc
mô tả hành vi lừa dối nhƣ trên, khoản 2 Điều 4:107 PECL còn xác định rõ: “Một bên
bị xem là lừa dối nếu trình bày hoặc thực hiện việc không tiết lộ thông tin như trên
nhằm lừa gạt”. Nhƣ vậy, việc thực hiện hành vi cung cấp thông tin sai lệch hoặc
không cung cấp thông tin của một bên đƣợc xem là lừa dối thì cần phải gắn với mục
đích nhằm “lừa gạt” đối tác. Điều này đƣợc hiểu, không phải mọi trƣờng hợp đƣa ra
thông tin sai lệch hoặc việc không tiết lộ thông tin đều đƣợc xác định là hành vi lừa
dối của của một bên trong hợp đồng. Điều này hoàn toàn chính xác vì việc đƣa ra
thông tin không chính xác của một bên có thể do nhầm lẫn hoặc vì một lý do gì đó
nhƣng họ không nhằm mục đích lừa gạt đối tác để ký kết hợp đồng.
Bên bị lừa dối có quyền yêu cầu hủy hợp đồng do hợp đồng bị vô hiệu bởi đƣợc
ký kết dựa trên sự lừa dối của phía bên kia. Khi bên bị lừa dối thực hiện quyền yêu cầu
hủy bỏ hợp đồng thì họ cần chứng minh đƣợc họ đã bị lừa dối bởi phía bên kia. Việc
chứng minh, phƣơng thức chứng minh của bên bị lừa dối đƣợc dựa theo hai trƣờng
hợp sau đây:
- Trƣờng hợp bên bị lừa dối nhận đƣợc thông tin sai lệch bằng lời nói hoặc hành
vi của bên lừa dối thì bên bị lừa dối cần chứng minh đƣợc yếu tố này. Bên bị lừa dối
cần xuất trình đƣợc các giấy tờ, tài liệu hoặc bản ghi âm, tin nhắn...chứa đựng thông
tin sai lệch do bên kia cung cấp. Hoặc sự lừa dối của một bên đƣợc minh chứng thông
qua ngƣời làm chứng...vv.
- Trƣờng hợp một bên bị lừa dối do bên kia không tiết lộ thông tin mà họ có
nghĩa vụ phải tiết lộ theo yêu cầu của nguyên tắc thiện chí và công bằng thì bên bị lừa
cũng cần phải chứng minh điều này. Trƣờng hợp này việc chứng minh thƣờng khó
khăn hơn so với trƣờng hợp trên, bên bị lừa dối phải chứng minh đƣợc hai yếu tố: (i)
Có thông tin đƣợc che giấu bởi phía bên kia. Thông tin này có ý nghĩa quan trọng, tác
động đến việc giao kết hợp đồng; (ii) Thông tin đƣợc che giấu phải đƣợc tiết lộ bởi
bên không đƣa ra thông tin theo yêu cầu của nguyên tắc thiện chí và công bằng. Chỉ
khi chứng minh đƣợc hai yếu tố này thì một bên mới khẳng định đƣợc họ bị lừa dối
bởi đối tác. Với những thông tin mà một bên không bắt buộc phải tiết lộ t