Định giá đất khu vực nông thôn khi nhà nước thu hồi - Những vấn đề đặt ra cần giải quyết

ĐỊNH GIÁ ĐẤT KHU VỰC NÔNG THÔN KHI NHÀ NƯỚC  
THU HỒI- NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN GIẢI QUYẾT  
ThS Trần Thị Minh Thư  
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân  
Tóm tắt  
Để phục vụ cho quá trình đô thị hóa, tại các khu vực nông thôn trong cả nước, nhà  
nước cần tiến hành thu hồi đất, bao gồm cả đất ở nông thôn, đất nông nghiệp, đất sản  
xuất kinh doanh phi nông nghiệp… phục vụ cho việc phát triển các dự án kinh tế xã hội,  
xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình công cộng… Đi kèm với quá trình thu hồi đất là công  
tác bồi thường cho những người dân có đất bị thu hồi. Muốn bồi thường được thỏa đáng  
thì việc định giá đất để tính tiền bồi thường một cách chính xác, đúng quy định pháp luật  
là yêu cầu tất yếu. Bài viết đề cập đến các quy định pháp lý hiện hành về định giá đất  
phục vụ bồi thường khi nhà nước thu hồi đất, và tình hình thực tế của công tác định giá  
đất để tính tiền bồi thường tại khu vực nông thôn ở nước ta, những vấn đề còn tồn tại và  
đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục các vấn đề đó.  
Từ khóa: Định giá đất, nông thôn, bồi thường, thu hồi đất  
1. Đặt vấn đề  
Song song với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là quá trình đô thị  
hóa cũng đang diễn ra nhanh chóng. Việc biến các khu vực nông thôn trở thành thành thị  
dẫn tới việc nhà nước phải thu hồi đất tại khu vực nông thôn phục vụ cho các mục đích  
như xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, phát triển đô thị mới …  
Để đảm bảo cho quá trình thu hồi đất diễn ra thuận lợi, nhanh chóng thì định giá đất phục  
vụ bồi thường chính xác, theo đúng pháp luật nhằm đảm bảo hài hòa các lợi ích cho người  
dân có đất bị thu hồi, cho nhà nước và cho doanh nghiệp là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên  
thực tế hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thực sự thỏa đáng diễn ra xung quanh công  
tác xác định giá đất khu vực nông thôn khu nhà nước thu hồi cần phải được nghiên cứu  
và giải quyết.  
2. Những quy định của Nhà nước về định giá bồi thường về đất khi Nhà nước thu  
hồi tại khu vực nông thôn  
Nghị định 69/2009/NĐ- CP “Quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất,  
thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư”, Nhà nước đã quy định khi thu hồi đất thì  
giá đất phải được xác định sát với giá thị trường. Luật Đất đai 2013 quy định, giá đất của  
nhà nước phải “phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường”. Theo Điều 74 Luật đất đai  
2013 thì trong trường hợp tổ chức, cá nhân có đất bị thu hồi mà đủ điều kiện được bồi  
thường thì sẽ được Nhà nước bồi thường. Nếu không có đất để bồi thường thì sẽ được bồi  
thường bằng tiền theo giá đất cụ thểcủa loại đất thu hồi do UBND tỉnh quyết định tại  
thời điểm quyết định thu hồi đất. Theo Điều 114 Luật đất đai 2013 “Ủy ban nhân dân cấp  
441  
tỉnh quyết định giá đất cụ thể. Cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh có trách nhiệm giúp Ủy  
ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức việc xác định giá đất cụ thể. Trong quá trình thực hiện, cơ  
quan quản lý đất đai cấp tỉnh được thuê tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất để  
tư vấn xác định giá đất cụ thể.” Bên cạnh đó, “việc xác định giá đất cụ thể phải dựa trên  
cơ sở điều tra, thu thập thông tin về thửa đất, giá đất thị trường và thông tin về giá đất  
trong cơ sở dữ liệu đất đai; áp dụng phương pháp định giá đất phù hợp. Căn cứ kết quả  
tư vấn xác định giá đất, cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh trình Hội đồng thẩm định giá đất  
xem xét trước khi trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định.”  
Nguyên tắc xác định giá đất là “Theo mục đích sử dụng đất hợp pháp tại thời điểm  
định giá; Theo thời hạn sử dụng đất; Phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại  
đất có cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu giá QSDĐ đối với những  
nơi có đấu giá QSDĐ hoặc thu nhập từ việc sử dụng đất; Cùng một thời điểm, các thửa  
đất liền kề nhau có cùng mục đích sử dụng, khả năng sinh lợi, thu nhập từ việc sử dụng  
đất tương tự như nhau thì có mức giá như nhau” (điều 112 Luật đất đai 2013).  
Theo nghị định 44/2014/NĐ-CP ngày 15-5-2014 của Chính Phủ quy định về giá  
đất, thông tư 36/2014/TT-BTNMT ngày 30-6-2014 quy định chi tiết phương pháp định  
giá đất, xây dựng điều chỉnh bảng giá đất, định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất  
quy định có 5 phương pháp xác định giá đất như sau:  
- Phương pháp so sánh trực tiếp: Đây là phương pháp định giá đất thông qua việc  
phân tích mức giá của các thửa đất trống tương tự về mục đích sử dụng đất, vị trí, khả  
năng sinh lợi, điều kiện kết cấu hạ tầng, diện tích, hình thể, tính pháp lý về quyền sử dụng  
đất đã chuyển nhượng trên thị trường, trúng đấu giá quyền sử dụng đất để so sánh, xác  
định giá của thửa đất cần định giá. Để áp dụng phương pháp so sánh đòi hỏi phải có dữ  
liệu từ các cơ quan hữu quan về các giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất có tính  
chất tương đồng, đã thành công.  
- Phương pháp chiết trừ: Đây là phương pháp định giá đất đối với thửa đất có tài  
sản gắn liền với đất bằng cách loại trừ phần giá trị tài sản gắn liền với đất ra khỏi tổng giá trị  
bất động sản (bao gồm giá trị đất và giá trị tài sản gắn liền với đất). Phương pháp chiết trừ  
được áp dụng để định giá đối với thửa đất có tài sản gắn liền với đất trong trường hợp có đủ  
số liệu về giá các bất động sản (gồm đất và tài sản gắn liền với đất) tương tự với thửa đất cần  
định giá đã chuyển nhượng trên thị trường, trúng đấu giá quyền sử dụng đất;  
- Phương pháp thu nhập: Đây là phương pháp định giá đất tính bằng thương số giữa  
mức thu nhập ròng thu được bình quân một năm trên một đơn vị diện tích đất so với lãi  
suất tiền gửi tiết kiệm bình quân một năm tính đến thời điểm định giá đất của loại tiền gửi  
VNĐ kỳ hạn 12 tháng tại ngân hàng thương mại nhà nước có mức lãi suất tiền gửi tiết  
kiệm cao nhất trên địa bàn cấp tỉnh. Phương pháp thu nhập được áp dụng để định giá đối  
với thửa đất xác định được các khoản thu nhập, chi phí từ việc sử dụng đất;  
- Phương pháp thặng dư: Đây là phương pháp định giá đất đối với thửa đất có tiềm  
năng phát triển theo quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng hoặc được phép chuyển  
mục đích sử dụng đất để sử dụng cao nhất và tốt nhất bằng cách loại trừ tổng chi phí ước  
442  
tính ra khỏi tổng doanh thu phát triển giả định của bất động sản. Phương pháp thặng dư  
được áp dụng để định giá đối với thửa đất có tiềm năng phát triển do thay đổi quy hoạch  
hoặc chuyển mục đích sử dụng đất khi xác định được tổng doanh thu phát triển giả định  
và tổng chi phí ước tính. Phương pháp này không được sử dụng để xác định giá bồi thường  
về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì phương pháp này áp dụng để xác định giá đất sau khi  
đã chuyển đổi mục đích sử dụng, trong khi định giá đất để bồi thương cần xác định giá  
đất với mục đích đang sử dụng tại thời điểm thu hồi đất.  
- Phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất: Đây là phương pháp định giá đất bằng  
cách sử dụng hệ số điều chỉnh giá đất nhân (x) với giá đất trong bảng giá đất do Ủy ban  
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành. Phương pháp hệ số điều chỉnh  
giá đất áp dụng trong các trường hợp xác định giá đất để làm giá khởi điểm đấu giá quyền  
sử dụng đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất thu tiền thuê đất  
một lần cho cả thời gian thuê mà thửa đất hoặc khu đất của dự án có giá trị (tính theo giá  
đất trong bảng giá đất) dưới 30 tỷ đồng đối với các thành phố trực thuộc trung ương; dưới  
10 tỷ đồng đối với các tỉnh miền núi, vùng cao; dưới 20 tỷ đồng đối với các tỉnh còn lại;  
xác định giá đất để làm căn cứ tính tiền thuê đất khi Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê  
đất hàng năm mà phải xác định lại đơn giá thuê đất để điều chỉnh cho chu kỳ tiếp theo;  
xác định giá đất để làm cơ sở xác định giá khởi điểm đấu giá quyền sử dụng đất khi Nhà  
nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm; Đối với dự án có các thửa đất liền kề nhau,  
có cùng mục đích sử dụng, khả năng sinh lợi và thu nhập từ việc sử dụng đất tương tự  
nhau hoặc trường hợp tại khu vực thu hồi đất không bảo đảm yêu cầu về thông tin để áp  
dụng các phương pháp định giá đất khác để xác định giá đất cụ thể của từng thửa đất.  
3. Thực trạng định giá đất nông thôn khi nhà nước thu hồi và các vấn đề đặt ra  
Sau khi Luật Đất đai 2013 ra đời, các địa phương trên cả nước đều đã ban hành các quy  
định tại địa phương mình về định giá đất để bồi thường khi nhà nước thu hồi, cho phù hợp  
với quy định mới của pháp luật. Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định 28/2018/QĐ-  
UBND; Hà Nội ban hành Quyết định 10/2017/QĐ-UBND; An Giang ban hành Quyết định  
văn bản của các tỉnh, thành phố đều có quy định là xác định giá đất bồi thường dựa trên các  
thông tin thị trường và các phương pháp định giá đất được quy định tại Nghị định  
44/2014/-CP; từ đó xác định hệ số điều chỉnh so với bảng giá đất tại địa phương để trình  
UBND tỉnh xác định mức giá bồi thường về đất.  
Ở hầu hết các địa phương, do chưa có trung tâm định giá đất chuyên nghiệp, nên  
công việc định giá đất cho bồi thường giải phóng mặt bằng, thường do một bộ phận thuộc  
Sở tài nguyên môi trường, Trung tâm phát triển quỹ đất hoặc ban giải phóng mặt bằng  
thực hiện. Do thiếu chuyên nghiệp và làm thường xuyên nên thường xảy ra tình trạng  
thiếu thông tin để phục vụ cho việc định giá đất, hoặc là thông tin không có tính hệ thống  
và hạn chế về việc cập nhật thông tin.  
Trong thực tế, việc định giá đất để bồi thường khi nhà nước thu hồi ở khu vực nông  
443  
thôn khá khó khăn. Nhiều địa phương do khó khăn về nhân sự, trình độ, chỉ tiến hành  
định giá đất dựa trên bảng giá đất và hệ số điều chỉnh. Trong khi bảng giá đất tại nhiều  
tỉnh thấp hơn rất nhiều so với giá đất phổ biến trên thị trường. Tại các tỉnh Bắc Bộ, Trung  
Bộ, mức giá đất nông nghiệp trong bảng giá đất phổ biến là không quá 200.000đ/m2, thậm  
chí có nơi giá đất nông nghiệp cao nhất là 20.000đ/m2… Tại các địa phương khác, điều  
này cũng diễn ra tương tự, ví dụ như giá đất trong bảng giá đất tại đồng bằng Sông Cửu  
Long tối đa là 210.000đ/m2 với đất trồng cây hàng năm, và 250.000đ/m2 với đất trồng  
cây lâu năm. Vì vậy, với hệ số điều chỉnh giá đất như hiện nay, số tiền bồi thường khi  
Nhà nước thu hồi đất tại nhiều khu vực nông thôn tại các địa phương chỉ bằng 1,5 lần giá  
tối đa trong khung giá đất, như vậy là thấp hơn rất nhiều so với giá đất trên thị trường,  
khiến cho người dân thiệt thòi. Hậu quả của điều này là người dân không chịu di dời để  
giải phóng mặt bằng, gây chậm trễ cho quá trình thu hồi đất và triển khai thực hiện các  
dự án, thậm chí có những địa phương còn xảy ra tình trạng khiếu kiện kéo dài.  
Đối với nhóm đất nông nghiệp có giao dịch, hoặc đất ở khu vực nông thôn, phương  
pháp định giá phù hợp là phương pháp so sánh, sử dụng giá đất đã giao dịch tại địa phương  
của các thửa đất có cùng mục đích sử dụng để rút ra giá thị trường của mảnh đất cần định  
giá. Với các mảnh đất có công trình trên đất, phương pháp chiết trừ thường được sử dụng  
để xác định giá đất, bằng cách trừ giá trị công trình đi khỏi giá bán bất động sản để nhận  
được giá thị trường của mảnh đất. Tuy nhiên việc điều tra về giá giao dịch cũng mang  
tính chính xác thấp, do giá giao dịch thường được xác định là giá ghi trên hợp đồng, mà  
mức giá này người dân thường khai thấp hơn so với giá thực tế.  
Tại khu vực nông thôn, nhóm đất bị thu hồi còn bao gồm các mảnh đất không có  
giao dịch trên thị trường như đất sản xuất nông nghiệp, đất nuôi trông thủy sản, làm muối,  
đất rừng…Đối với các trường hợp này, không sử dụng được phương pháp so sánh để định  
giá mà phương pháp phù hợp là phương pháp thu nhập, do đây là nhóm đất tạo thu nhập.  
Tuy nhiên, để áp dụng được phương pháp thu nhập, cần xác định được chính xác thu nhập  
tạo ra từ đất, chi phí đầu tư sản xuất của các hộ gia đình, và tỉ lệ vốn hóa phù hợp. Việc  
xác định thu nhập và chi phí trong thực tế đều khó khăn do có nhiều loại sản phẩm được  
sản xuất trên cùng một thửa đất, thời vụ sản xuất khác nhau, chi phí sản xuất lại bao gồm  
cả nhân công thuê ngoài và lao động của hộ gia đình nên khó xác định. Tỉ lệ vốn hóa  
thường được sử dụng là lãi suất tiền gửi ngân hàng bình quân hàng năm cao nhất tại địa  
phương. Vì vậy khi lãi suất tiền gửi ngân hàng cao sẽ dẫn tới giá đất được xác định ra  
thấp. Nếu định giá đất để bồi thường vào thời điểm đó, thì số tiền người dân nhận được  
do bồi thường về đất thấp, khiến người dân phản đối chính sách bồi thường.  
Tại các khu vực nông thôn, diện tích đất cần được thu hồi để thực hiện các dự án  
phát triển kinh tế xã hội là rất nhiều, có những khu đất thu hồi rộng tới hàng trăm ha. Tuy  
nhiên giá đất được xác định để bồi thường được tính dựa trên hiện trạng sử dụng đất là  
đất nông thôn, nhất là những mảnh đất bị thu hồi phục vụ cho các mục đích công cộng,  
an ninh quốc phòng thường có giá bồi thường thấp hơn so với giá bồi thường đất phục vụ  
cho các mục đích kinh doanh. Nhưng vì lợi ích của toàn xã hội người dân vẫn chấp nhận  
mức giá thấp. Ví dụ, có diện tích đất khi thu hồi thông báo sẽ được sử dụng để xây dựng  
444  
công trình phục vụ xã hội nhưng sau khi thu hồi đất lại giao cho doanh nghiệp xây dựng  
các công trình mang tính kinh doanh như trung tâm thương mại, các công trình nhà ở.  
Điều này dẫn tới người dân cảm thấy bị thiệt thòi, nhiều trường hợp quay ra phản đối chủ  
đầu tư, gây khó khăn cho quá trình thực hiện các dự án.  
Giá đất để tính bồi thường khi nhà nước thu hồi đất theo quy định pháp luật được  
xác định là “giá đất cụ thể” tại “thời điểm quyết định thu hồi đất”, rất nhiều trường hợp  
thấp hơn nhiều so với số tiền mà người dân phải bỏ ra để nộp tiền sử dụng đất tại nơi tái  
định cư - là giá do UBND cấp tỉnh quyết định. Điều này gây khó khăn cho người dân  
trong việc ổn định cuộc sống sau khi bị thu hồi đất.  
Ngoài ra, do giá đất có tính thời điểm, vì vậy thời gian định giá là ngày nào hoàn  
toàn có thể ảnh hưởng tới mức giá được xác định cho việc tính giá bồi thường về đất cho  
người dân. Tuy nhiên việc lấy thời điểm “quyết định thu hồi đất” để làm căn cứ xác định  
thời điểm định giá trong thực tế vận dụng lại nảy sinh vấn đề. Theo Điều 69, Luật đất đai  
2013, ngày ban hành quyết đinh thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương án bồi  
thường, hỗ trợ, tái định cư là cùng một ngày, trong đó có ghi “mức bổi thường” và thông  
báo cho người dân. Như vậy là thực tế công việc định giá đất để phục vụ bồi thường phải  
tiến hành trước đó. Với quy định không rõ ràng về thời điểm định giá, có thể dẫn tới giá  
đất được xác định chênh lệch so với giá đất phổ biến trên thị trường vào thời điểm ban  
hành quyết định thu hồi đất.  
4. Kết luận và khuyến nghị  
Để khắc phục các vấn đề còn tồn tại trong thực tế của công tác định giá đất để bồi  
thường khi nhà nước thu hồi đất ở khu vực nông thôn, nhằm giúp xác định số tiền bồi  
thường hợp lý, vừa đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật, vừa đảm bảo kết hợp hài  
hòa các quyền lợi của người dân có đất bị thu hồi, của Nhà nước và của các doanh nghiệp  
cần thực hiện một số giải pháp sau:  
- Mặc dù Luật đất đai cho phép người dân thuộc diện bị thu hồi đất được quyền  
tham gia đóng góp ý kiến vào phương án đền bù, tuy nhiên cần bổ sung thêm quy định về  
việc cơ quan xây dựng và thực hiện phương án bồi thường cần phải điều chỉnh phương  
án khi có bao nhiêu % ý kiến phản đối của người dân, nhằm đảo bảo quyền lợi hợp pháp  
cho người dân.  
- Tại các địa phương cần thành lập các tổ chức định giá đất chuyên nghiệp, vừa  
phục vụ công tác xây dựng bảng giá đất, định giá đất phục vụ thu tiền sử dụng đất, cho  
thuê đất, và bồi thường khi nhà nước thu hồi đất. Việc thành lập được cơ quan chuyên  
môn về định giá đất, với nhân sự có chuyên môn về nghiệp vụ định giá sẽ giúp công tác  
định giá chính xác hơn, đảm bảo nguyên tắc sát với giá thị trường. Có vậy mới hạn chế  
được tình trạng định giá không chính xác, gây thiệt hại cho người dân có đất bị thu hồi.  
Song song với việc thành lập các tổ chức định giá chuyên nghiệp là xây dựng hệ  
thống thông tin về các giao dịch đất đai và bất động sản phục vụ công tác định giá được  
chính xác. Đồng thời hệ thống thông tin phải đảm bảo thường xuyên cập nhật để bắt kịp  
với tình hình biến động giá đất và giá bất động sản trên thị trường.  
445  
- Cần áp dụng linh hoạt các phương pháp định giá đất cho phù hợp. Muốn vậy,  
người định giá cần có kiến thức chuyên môn và hiểu biết về thị trường để lựa chọn phương  
pháp định giá tương ứng với từng loại đất vị thu hồi với những mục đích chuyển đổi sử  
dụng cụ thể. Riêng với phương pháp thu nhập, cần sửa đổi việc sử dụng lãi suất tiền gửi  
ngân hàng cao nhất hàng năm làm tỉ lệ vốn hóa mà thay bằng lãi suất của trái phiếu chính  
phủ, do đây là lãi suất không có rủi ro, phù hợp với hình thức đầu tư ít rủi ro là đầu tư vào  
đất đai, và phù hợp với thông lệ của nhiều nước trên thế giới.  
- Cần bổ sung quy định rõ ràng hơn về thời điểm định giá đất để tính tiền bồi thường  
về đất khi nhà nước thu hồi, vừa tránh được việc người dân thắc mắc, khiếu kiện, vừa  
đảm bảo giá đất được xác định là sát với giá thị trường tại thời điểm thu hồi đất nhất.  
- Trong trường hợp mục đích thu hồi đất có thay đổi từ việc sử dụng vào mục đích  
công cộng sang sử dụng vào mục đích kinh doanh cần có sự điều chỉnh về giá bồi thường  
về đất cho dù giữa thời điểm thu hồi và thời điểm thay đổi mục đích là khác nhau hoặc  
có chính sách ưu đãi như được mua hoặc thuê diện tích kinh doanh trong khu vực phát  
triển với giá ưu đãi cho những người có đất bị thu hồi để bảo đảm cho họ có sinh kế mới.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014): Thông tư 36/2014/TT-BTNMT ngày 30-  
6-2014 quy định chi tiết phương pháp định giá đất, xây dựng điều chỉnh bảng  
giá đất, định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất  
2. Chính Phủ (2009): Nghị định 69/2009/NĐ- CP ngày 13-8-2009 của Chính Phủ  
quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ  
trợ và tái định cư.  
3. Chính Phủ (2014): Nghị định 44/2014/NĐ-CP ngày 15-5-2014 của Chính Phủ  
về giá đất  
4. Phan Trung Hiền, 2017, “Xác định giá đất để tính bồi thường khi Nhà nước thu  
hồi đất”, tuphaptamky.gov.vn  
5. Luật Đất đai 2013  
6. Nguyễn Văn Xa, 2019, “Những bất cập trong giá đất và hệ lụy”, dantri.com.vn  
7. Tào Minh, 2019, “Giá đất bồi thường không sát thị trường: Dân thiệt thòi, chủ  
đầu tư cũng mang tiếng”, bsc.com.vn  
8. UBND Thành phố Hà Nội (2014): Quyết định 23/2014/QĐ-UBND thành phố  
Hà Nội ngày 20-6-2014 quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa  
bàn thành phố Hà Nội.  
9. UBND Thành phố Hồ Chí Minh (2015): Quyết định số 23/2015/QĐ-UBND TP  
Hồ Chí Minh ngày 15-5-2015 quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi  
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố hồ Chí Minh  
446  
pdf 6 trang Thùy Anh 18/05/2022 560
Bạn đang xem tài liệu "Định giá đất khu vực nông thôn khi nhà nước thu hồi - Những vấn đề đặt ra cần giải quyết", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdinh_gia_dat_khu_vuc_nong_thon_khi_nha_nuoc_thu_hoi_nhung_va.pdf