Cơ chế khai thác huy động nguồn lực cho cải tạo chỉnh trang đô thị - trường hợp cải tạo các khu chung cư cũ trên địa bàn Thành phố Hà Nội

CƠ CHẾ KHAI THÁC HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC CHO CẢI TẠO  
CHỈNH TRANG ĐÔ THỊ - TRƯỜNG HỢP CẢI TẠO CÁC KHU  
CHUNG CƯ CŨ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI  
TS. Nguyễn Thị Hải Yến  
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân  
Tóm tắt  
Trong khuôn khổ đề tài cấp thành phố 01X-10/06-2016-3 “Nghiên cứu cơ chế khai  
thác, huy động nguồn lực để xây dựng, cải tạo chỉnh trang đô thị trên địa bàn Hà Nội đến  
năm 2025”, đề tài đã tiến hành nghiên cứu cơ sở khoa học về các nguồn lực trong cải  
tạo chỉnh trang đô thị; đánh giá thực trạng khai thác, huy động nguồn lực trong cải tạo  
đô thị, trường hợp cải tạo các khu chung cư cũ trên địa bàn thành phố Hà Nội, trong đó  
làm rõ thực trạng các cơ chế chính sách trong việc khai thác, huy động nguồn lực để cải  
tạo các khu chung cư cũ; đánh giá những vướng mắc, khó khăn, bất cập trong cải tạo  
chung cư cũ trên địa bàn thành phố Hà Nội; đánh giá thực trạng các nguồn lực (ngoài  
ngân sách) có thể khai thác, huy động trong cải tạo các khu chung cư cũ trên địa bàn  
thành phố Hà Nội - Qua khảo sát nghiên cứu thí điểm dự án khu tập thể Nam Đồng. Trên  
cơ cở đó, đề tài đề xuất cơ chế khai thác, huy động nguồn lực ngoài ngân sách để xây  
dựng, cải tạo chỉnh trang đô thị, vận dụng cho các khu chung cư cũ trên địa bàn thành  
phố Hà Nội. Bài viết tập trung trình bày phương hướng cơ chế huy động, khai thác  
nguồn lực để cải tạo chỉnh trang đô thị - trường hợp cải tạo chung cư cũ trên địa bàn  
thành phố Hà Nội.  
1. Đặt vấn đề  
Trong quá trình phát triển, các thành phố cũ luôn cần thiết phải tiến hành cải tạo,  
chỉnh trang để tạo ra bộ mặt độ thị hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển. Cải tạo, chỉnh  
trang đô thị là một nội dung quan trọng trong quá trình đô thị hóa, quá trình phát triển của  
mỗi thành phố. Bản chất của việc cải tạo, chỉnh trang đô thị chính là những công việc làm  
cho bộ mặt đô thị trở nên hiện đại, khang trang trong một khu vực sẵn có.  
Cải tạo, chỉnh trang đô thị bao hàm nhiều nội dung, trong đó cải tạo các khu đô thị  
cũ, nhất là các khu chung cư nằm ở các vị trí trọng yếu thuộc các quận trung tâm Thủ đô với  
thiết kế, quy hoạch lạc hậu, công trình xây dựng xuống cấp, giao thông chật hẹp, không có  
không gian xanh, thiếu các công trình hạ tầng xã hội đang là vấn đề bức xúc đặt ra đối với  
việc xây dựng Thủ đô hiện đại.  
Trong những năm qua, các quy định khung và khuôn khổ pháp lý về cải tạo chung  
cư cũ nói chung và huy động nguồn lực nói riêng cho xây dựng, cải tạo chỉnh trang các  
khu chung cư cũ tại đô thị thời gian qua đã liên tục được ban hành, điều chỉnh và sửa đổi  
bổ sung nhằm đẩy mạnh quá trình cải tạo các khu chung cư cũ. Trong đó, nội dung cơ  
bản của khung chính sách trong huy động nguồn lực trong qua trình cải tạo là chung cư  
305  
cũ là phương thức xã hội hóa; khuyến khích chủ đầu tư dự án và các chủ sở hữu căn hộ  
hợp pháp thỏa thuận thực hiện dự án bằng phương thức hợp tác kinh doanh. Đáng chú ý  
đó là nguồn lực từ ngân sách đóng vai trò định hướng làm “vốn ban đầu”, “vốn dẫn dắt”  
cho giai đoạn đầu (đánh giá hiện trạng, lập phương án quy hoạch, đầu tư), xúc tiến, chuẩn  
bị đầu tư cải tạo hoặc nguồn vốn dành cho các công trình hạ tầng giao thông công cộng  
tại các khu chung cư cũ sau cải tạo. Ngoài ra, nguồn vốn ngân sách đóng vai trò quan  
trọng trong quá trình đầu tư các công trình hạ tầng tại các khu chung cư cũ trong quá trình  
cải tạo. Tuy nhiên, các cơ chế chính sách hiện hành chưa tạo điều kiện để có thể có thể  
huy động được các nguồn lực ngoài ngân sách vào cải tạo chỉnh trang đô thị nói chung  
và cải tạo chung cư cũ nói riêng: (1) Chưa huy động, khai thác được nguồn lực từ chính  
những tiềm năng lợi thế vị trí đất đai của các khu chung cư cũ, trong khi đây là nguồn lực  
tiềm tàng lớn nhất trong cải tạo chung cư cũ nếu có cơ chế phù hợp để khai thác và huy  
động. Các cơ chế chính sách hiện hành chưa khai thông giải phóng được nguồn lực từ đất  
đai để thông qua quy hoạch và và đầu tư làm gia tăng giá trị khu vực tạo lợi ích thu hút  
các nhà đầu tư, sự đồng thuận của người dân và cải tạo được bộ mặt đô thị; (2) Chưa huy  
động được nguồn lực lớn nhất từ người dân có thể huy động và đóng góp cho cải tạo  
chỉnh trang đô thị, cải tạo các khu chung cư cũ, trong đó quan trọng nhất là chưa tạo được  
sự đồng thuận của người dân trong việc thay đổi, chia sẻ các nguồn lực công cộng mà  
mỗi người đang có một phần quyền chiếm giữ như cấu trúc công trình hoặc thay đổi các  
điều kiện hạ tầng khu vực sinh sống; (3) Chưa huy động được nguồn lực từ doanh nghiệp,  
các nhà đầu tư tham gia vào cải tạo chung cư cũ. Vì chưa có cơ chế để huy động, khai  
thác được nguồn lực từ lợi thế vị trí đất đai của các khu chung cư cũ, chưa có cơ chế gắn  
lợi ích của nhà đầu tư với mức độ phát triển của các khu đô thị sau cải tạo, nên doanh  
nghiệp không có cơ chế để cân đối hiệu quả tài chính khi đầu tư dự án. Hơn nữa sự không  
đồng thuận từ phía người dân khiến cho doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí  
là không mặn mà với cải tạo các khu chung cư cũ.  
2. Phương hướng huy động, khai thác nguồn lực để cải tạo chung cư cũ  
Huy động nguồn lực cải tạo chung cư cũ phải đủ nguồn lực để cải tạo tổng  
thể cả khu chung cư cũ bao gồm toàn bộ các tòa nhà cao tầng trong cả khu chung cư  
và các nhà thấp tầng đan xen (thay cho cải tạo từng tòa nhà chung cư riêng lẻ); Lập  
quy hoạch tổng thể cải tạo từng khu chung cư, gắn kết với quy hoạch cải tạo các khu  
chung cư khác trên địa bàn Thành phố để tạo thành một hệ thống kết nối đồng bộ giữa  
từng khu với nhau và với quy hoạch phát triển chung của Thành phố.  
Quy hoạch cải tạo chung cư cũ của Hà Nội phải được lập không chỉ cho một hoặc  
một số dãy nhà chung cư mà phải lập thành một quy hoạch cải tạo tổng thể của cả khu  
chung cư trong tổng thể các khu chung cư trong toàn thành phố. Do vị trí các khu chung  
cư cũ ở Hà Nội phân bố rải rác ở các quận nội thành nên toàn bộ các khu này cần phải  
nằm trong phương án quy hoạch phát triển chung của cả thành phố, do một cơ quan thuộc  
UBND thành phố điều phối và quản lý chung. Quy hoạch các khu chung cư cũ vừa phải  
tuân thủ định hướng quy hoạch chung phát triển đô thị trung tâm (quy hoạch chung, quy  
hoạch phân khu, quy hoạch ngành), vừa phải được thiết kế với các đặc thù riêng phù hợp  
306  
với điều kiện khai thác các tiềm năng, lợi thế và nguồn lực cho đầu tư cải tạo phát triển  
riêng của từng khu vực, không bị chi phối với các chỉ tiêu trong quy hoạch chung của Thủ  
đô. Không nên áp đặt một quy chuẩn quy hoạch cho các dự án cải tạo các khu chung cư  
cũ, mà nên xác định các nguyên tắc quy hoạch để các phương án quy hoạch riêng cho  
từng dự án trên cơ sở vừa đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiệp, đảm bảo cân đối các chỉ  
tiêu phát triển đô thị và tạo sự kết nối giữa các khu sau cải tạo với các trung tâm của  
Thành phố.  
Cấu trúc khu chung cư sau cải tạo không nhất thiết phải lặp lại mô hình đơn vị ở  
phổ biến như cũ mà có thể trở thành một khu đô thị đa chức năng, theo mô hình đô thị  
hiện đại, có độ nén cao tạo không gian phát triển. Các khu chung cư cũ sau cải tạo phải  
hình thành nên các khu phố ngầm trên toàn bộ diện tích khu vực để đưa toàn bộ các hoạt  
động kinh doanh dịch vụ thương mại trên mặt đất xuống “khu phố ngầm” dưới mặt đất,  
hình thành thêm các trung tâm thương mại dịch vụ mới phục vụ cho cộng đồng dân cư  
sau cải tạo. Toàn bộ không gian mặt đất chuyển thành diện tích công viên, cây xanh và  
hạ tầng giao thông để kết nối giao thông giữa các khu chung cư sau cải tạo với các khu  
khác và các trục giao thông của thành phố.  
Thành phố tổ chức xây dựng nhiệm vụ thiết kế, lấy ý kiến cộng đồng một mặt thu  
nhận ý kiến góp ý cho các phương án thiết kế, mặt khác tạo sự nhận thức mới về sự phát triển  
và lợi ích của người dân được hưởng sau khi dự án cải tạo chung cư được thực hiện để tạo sự  
đồng thuận, ủng hộ của người dân. Thành phố nên thực hiện xã hội hoá việc lập quy hoạch  
thiết kế các mô hình phát triển cải tạo và dự án để thông qua đó lựa chọn chủ đầu tư hoặc có  
các dự án tốt đưa ra đấu thầu chọn chủ đầu tư. Thí điểm mô hình "Doanh nghiệp cộng đồng"  
với sự tham gia của Nhà nước và doanh nghiệp kinh doanh BĐS, doanh nghiệp về xây dựng.  
Các đồ án quy hoạch thiết kế và dự án đã lập cần công bố công khai, lấy ý kiến của cộng  
đồng dân cư khu vực quy hoạch và ý kiến rộng rãi của các cơ quan, đơn vị, tổ chức. Từ đó  
thẩm định phê duyệt có tính đến cân đối, hài hoà lợi ích của nhà đầu tư, Nhà nước và cộng  
đồng không chỉ trong khu vực lập quy hoạch mà có thể cân đối trong phạm vi toàn thành phố.  
Thành phố cũng có thể giao nhà đầu tư đủ năng lực tự bỏ kinh phí thuê đơn vị tư  
vấn có kinh nghiệm lập quy hoạch, khuyến khích mời, thuê tư vấn nước ngoài nghiên cứu  
lập quy hoạch tổng thể cả khu chung cư cũ. Việc quy hoạch trên tổng thể cả khu chung  
cư cũ thống nhất đồng bộ HTKT, HTXH cũng như khớp nối với hạ tầng chung của khu  
vực; đảm bảo đủ tái định cư (TĐC) tại chỗ cho dân cư của khu chung cư cũ hiện hữu. Các  
đồ án quy hoạch chi tiết sau khi hoàn thành, tập hợp toàn Thành phố tổ chức trưng bày  
triển lãm, công bố công khai lấy ý kiến rộng rãi của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cộng  
đồng dân cư.  
Phương hướng khai thác các nguồn lực: Huy động nguồn lực từ khai thác hợp  
lý lợi thế về vị trí của đất đai và bất động sản thông qua quy hoạch và đầu tư phát triển  
đồng bộ hệ thống hạ tầng, tạo lập thành các trung tâm phát triển. Lấy lợi ích kinh tế thu  
được từ khai thác nguồn lực về lợi thế phát triển là động lực thu hút các nhà đầu tư.  
Bản thân các khu chung cư cũ đều nằm ở các khu vực lõi trung tâm của Thành phố  
307  
nhưng chưa được đầu tư để các nguồn lực từ lợi thế vị trí thành nguồn lực phát triển.  
Thông qua quy hoạch và đầu tư phát triển công trình hạ tầng tạo điều kiện tiếp cận, khai  
thác, phát triển một khu vực đất đai và kết nối nó với các khu vực khác. Lợi ích đem lại  
do thay đổi quy hoạch và đầu tư phát triển hạ tầng đem lại cho nền kinh tế được thể hiện  
qua giá trị gia tăng của đất đai và bất động sản trong phạm vi khu vực chịu tác động.  
Khoản 2 Điều 19 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Nhà nước điều tiết phần giá trị gia  
tăng từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại thông qua chính sách  
thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, đầu tư cơ sở hạ tầng và chính sách hỗ trợ cho người  
có đất bị thu hồi”. Việc huy động và tập trung nguồn lực tài chính từ đất đai chính là  
phương thức tập trung phần giá trị gia tăng của đất đai và bất động sản để trang trải chi  
phí đầu tư cho dự án hạ tầng cho đầu tư và xây dựng các nhà chung cư mới. Do vậy, ở  
đây sử dụng cơ chế để biến nguồn lực tiềm tàng của các khu chung cư cũ thành nguồn lợi  
được khai thác cho nhà đầu tư sau khi đầu tư cải tạo khu chung cư cũ để lấy đó làm động  
lực kinh tế cho việc thu hút các nhà đầu tư.  
Nhà nước cho phép áp dụng các cơ chế chính sách đặc thù trong sử dụng nguồn  
ngân sách và các nguồn tài chính khác để tạo lợi thế để huy động, thu hút các nguồn đầu  
tư ở trong nước và từ nước ngoài (đổi mới, đa dạng hóa cơ chế, chính sách và hình thức  
thu hút vốn đầu tư; làm tốt công tác quy hoạch, chuẩn bị tốt dự án đầu tư và quỹ đất sạch;  
đổi mới, cải cách thủ tục hành chính…). Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các  
nguồn vốn từ quỹ đất, từ tài sản công thuộc sở hữu nhà nước, các nguồn vốn tín dụng và  
nguồn vốn từ dân; xây dựng cơ chế chính sách phù hợp để đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư  
phát triển đô thị, phát triển hạ tầng đô thị, phát triển nhà ở trong các dự án cải tạo chung  
cư cũ.  
Phương hướng tạo lập mở rộng các nguồn lực bằng phát triển không gian dưới  
mặt đất để “hạ ngầm” các hoạt động dịch vụ, dành không gian trên mặt đất cho phát triển  
công viên, cây xanh và khu tổ chức các hoạt động, đi dạo ngoài trời cho cư dân  
Các khu đô thị hiện đại trên thế giới đều tận dụng triệt để không gian ngầm tạo ra  
làm nơi tổ chức các hoạt động dịch vụ, kinh doanh thương mại và bãi đỗ xe giao thông  
tĩnh. Không gian ngầm không phải chỉ là tầng hầm cuả từng tòa nhà mà là toàn bộ không  
gian của cả khu vực như một khu phố ngầm trong lòng đất. Tất cả các hoạt động dịch vụ  
trên mặt đất được “hạ ngầm” dành không gian trên mặt đất làm sân chơi, vườn cây phục  
vụ các hoạt động sinh hoạt công cộng. Việc “hạ ngầm” các hoạt động dịch vụ sẽ tạo lập  
một bộ mặt đô thị mới hiện đại, có diện tích công viên cây xanh, có mặt bằng sân chơi và  
khu vực đi dạo bộ cho cư dân. Đồng thời, việc hạ ngầm các hoạt động kinh doanh dịch  
vụ xuống tầng ngầm dưới mặt đất sẽ xóa bỏ được tình trạng kinh doanh hàng hóa lộn xộn,  
mất mỹ quan, không kiểm soát được như các hoạt động kinh doanh tại các khu chung cư  
cũ hiện nay.  
Hầu hết các khu chung cư cũ hiện nay đều nằm ở các quận trung tâm với mật độ  
dân cư tập trung rất cao. Hầu hết diện tích tầng 1 của các nhà chung cư đều đã cơi nới  
thành diện tích kinh doanh dịch vụ phục vụ tiện ích cho người dân tại chỗ cũng như khách  
vãng lai. Các hoạt động kinh doanh này được phát triển một cách tự phát không theo Quy  
308  
hoạch về không gian và sản phẩm dịch vụ, không có cơ chế kiểm soát phát triển lộn xộn  
không chỉ làm mất mĩ quan đô thị mà còn gây nhiêu hệ lụy cho đời sống, sinh hoạt, an  
ninh và trật tự đô thị. Nếu sau khi cải tạo các khu chung cư cũ không tạo lập mới được  
không gian để tổ chức và bố trí lại các hoạt động kinh doanh này thì không chỉ ảnh hưởng  
đến việc đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt của người dân mà còn làm mất công ăn việc làm,  
ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội của một bộ phận không nhỏ của cư dân đang sinh  
sống nhờ vào các hoạt động kinh doanh buôn bán.  
Việc phát triển không gian ngầm, bao gồm toàn bộ diện tích của cả khu vực các  
chung cư cũ sẽ không chỉ “hạ ngầm” được toàn bộ các hoạt động kinh doanh buôn bán  
hiện hữu trên mặt đất tầng 1, mà quan trọng hơn còn quy hoạch lại mặt bằng kinh doanh  
một cách hiện đại, đồng bộ; tổ chức sắp xếp các hoạt động kinh doanh dịch vụ theo các  
tiêu chí phân khu để vừa thuận tiện cho người kinh doanh và khách hàng, vừa thuận tiện  
cho công tác kiểm tra, giám sát và bảo đảm an ninh, an toàn. Diện tích không gian thương  
mại ngầm rộng hơn nhiều lần so với không gian kinh doanh hiện hữu của các hộ dân ở  
tầng 1, nên không gian ngầm sẽ là nơi thu hút thêm các hoạt động kinh doanh lớn, tập  
trung thành một trung tâm thương mại ngầm trông thành phố. Đây là mô hình phát triển  
khá phổ biến ở các khu đô thị hiện đại, có độ nén cao, tập trung đông dân cư. Phát triển  
không gian ngầm thành các trung tâm thương mại cũng là giải pháp tạo nguồn lực từ  
nguồn thu mặt bằng thương mại để bù đắp cho chí phí xây dựng nhà TĐC mới. Việc phát  
triển các trung tâm thương mại lớn tập trung sẽ tạo nguồn thu thường xuyên cho ngân  
sách thành phố để phát triển các dịch vụ công cộng trên mặt đất.  
Phương hướng tạo nguồn lực cho phát triển không gian xanh và phát triển  
các hoạt động công cộng trong cải tạo chỉnh trang đô thị thông qua việc nâng chiều  
cao giảm mật độ xây dựng dành không gian trống để phát triển không gian xanh, sân  
chơi và các hoạt động công cộng cho cộng đồng dân cư.  
Khu đô thị hiện đại văn minh phải có đủ không gian xanh, sân chơi, nơi đi bộ, thể  
dục và tổ chức các hoạt động công cộng ngoài trời cho cư dân. Điểm hạn chế lớn nhất  
của các khu chung cư cũ hiện nay là mật độ xây dựng các dãy nhà chung cư quá cao, thêm  
vào đó các phần diện tích trống đều tận dụng làm nhà ở thấp tầng chật chội, chen chúc  
không còn không gian trống cho các hoạt động ngoài trời của cư dân. Việc cải tạo các  
khu chung cư cũ phải đảm bảo nguyên tắc TĐC cho người dân ngay tại chỗ để đảm bảo  
ổn định cuộc sống và các quan hệ xã hội gắn bó với cuộc sống và cộng đồng dân cư.  
Muốn thỏa mãn được cả hai ràng buộc: giảm mật độ xây dựng để tăng diện tích không  
gian đất trống, vừa có đủ diện tích xây dựng mới lớn hơn để TĐC, cải thiện mở rộng điều  
kiện chỗ ở cho người dân, vừa có thêm diện tích kinh doanh cho nhà đầu tư thì chỉ có một  
phương án duy nhất là nâng cao tầng các tòa nhà chung cư mới.  
Việc nâng cao tầng các tòa nhà mới xây dựng sẽ giúp cho mật độ xây dựng giảm  
xuống, chuyển các nhà thấp tầng chiếm nhiều diện tích không gian mặt đất thành các căn  
hộ trên tầng cao để dành diện tích trống cho phát triển không gian xanh, không gian sinh  
hoạt cộng đồng, nơi dạo chơi, đi bộ, thể dục và phát triển các công trình công cộng.  
Việc nâng cao tầng không, phát triển không gian thương mại dưới tầng ngầm không  
309  
chỉ làm giảm mật độ xây dựng mà còn mang lại giá trị nhiều mặt cho các khu đô thị mới  
sau cải tạo. Việc phát triển các trung tâm thương mại ngầm và tăng không gian trên mặt  
đất sẽ làm cho các khu chung cư cũ được tái thiết trở nên đáng sống hơn khi mà các khu  
chung cư đó được đặt trong một khu vực được đảm bảo về tính đa dạng. Về lý thuyết, đa  
dạng hay còn được gọi là “đa dụng”, “đa năng” hay “hỗn hợp”, đề cập tới khoảng cách  
giữa các địa điểm cho các hoạt động khác nhau như nhà ở, thương mại, dịch vụ và cửa  
hàng… Vì vậy một khu vực da dạng sẽ có nhiều nhà ở, nơi làm việc, trường học, dịch vụ,  
cửa hàng, không gian công cộng ngoài trời … mà mọi người có thể dễ dàng tiếp cận bằng  
cách đi bộ, xe đạp hoặc giao thông công cộng. Đối với những khu vực cùng có mật độ  
cao nhưng đa dạng khác nhau, các nghiên cứu đều chỉ ra rằng mọi người sẽ đi bộ và đi xe  
đạp nhiều hơn các khu vực đa dạng cao. Sử dụng đất đa dạng quan trọng ở cả xung quanh  
các khu nhà ở cũng như khu làm việc, văn phòng. Khi mọi người đi làm, họ cũng sẽ tranh  
thủ thời gian trong ngày cho các việc vặt quanh chỗ làm. Nhưng nếu quanh chỗ làm lại  
không có các dịch vụ thì điều đó cũng hạn chế việc họ đi bộ hoặc xe đạp. Do đó đảm bảo  
đa dạng các dịch vụ và tiện ích cho cả khu vực nhà ở và nơi làm việc là rất quan trọng.  
Trong quá trình tái thiết các khu chung cư cũ thì việc xem xét tính đa dạng của các công  
trình chức năng trong một khu vực nhất định là rất quan trọng và cần thiết.  
Việc nâng cao tầng các tòa nhà mới xây dựng lại sau tái thiết sẽ tạo điều kiện tập  
trung với mật độ cao hơn về dân số cư trú và khách vãng lai đến các trung tâm thương  
mại tại tầng ngầm. Đây là điều kiện tốt để phát triển hệ thống giao thông công cộng hiện  
đại của các đô thị lớn như tàu điện ngầm. Tàu điện ngầm chỉ phát huy hiệu quả khi tại  
mỗi bến đỗ có số lượng dân cư tập trung đông, người dân có thể dễ dàng di chuyển bằng  
cách đi bộ, và đi bộ cũng là cách di chuyển phù hợp, hiệu quả nhất, từ nơi cư trú đến bến  
tàu điện ngầm. Thường khoảng cách này được xác định đến bến gần nhất không quá 1  
km. Do vậy, chính phát triển các điểm đô thị nén sẽ là cơ sở để tổ chức tốt nhất giao thông  
công cộng kết nối giữa các điểm tập trung đông dân cư đó, thay vì việc phân tán dân cư  
với mật độ thấp buộc người dân phải di chuyển xa mới có thể tiếp cận được các phương  
tiện công cộng. Do vậy, nâng cao tầng các tòa nhà sau tái thiết, phát triển mô hình đô thị  
nén ở các khu chung cư cũ vừa là yêu cầu vừa là điều kiện để phát triển thành công có  
hiệu quả hệ thống giao thông công cộng.  
Đi kèm với đó, việc thiết kế và xây dựng những không gian có chất lượng cho người  
đi bộ cùng với phát triển giao thông công cộng là cơ sở để mọi người lựa chọn loại hình  
giao thông chủ động, thân thiện với các khu đô thị cũ sau cải tạo. Nhu cầu và mong muốn  
di chuyển nhanh của một số người cần được cân bằng với quyền được đi lại an toàn của  
những người khác, đặc biệt là người già và trẻ em.  
Kèm theo đó là các chính sách phát triển khác như chính sách về thương mại, giáo  
dục, giao thông, … cũng cần lưu ý tạo điều kiện và khuyến khích người dân đi lại bằng  
phương thức giao thông chủ động và giao thông công cộng. Nếu không có các chính sách  
khuyến khích như vậy thì việc quy hoạch tốt cũng sẽ không hoàn toàn đạt kết quả như mong  
đợi. Các chính sách có thể sẽ tạo ra những hạn chế về tiện lợi cho một số người nhưng quan  
trọng là chúng sẽ đảm lại sức khỏe, chất lượng sống tốt hơn cho cả cộng đồng dân cư đô  
310  
thị và giảm chi phí xã hội nhiều mặt. Nếu thực hiện đồng bộ các vấn đề trên thì phát triển  
các tòa chung cư cao tầng thay cho phát triển chung cư thấp tầng và nhà mặt đất là phương  
hướng căn bản để biến các khu đô thị cũ lụp xụp, thiếu tiện nghi thành các khu đô thị mới  
văn minh, tiện nghi và hiện đại.  
3. Đề xuất một số cơ chế khai thác nguồn lực cải tạo khu chung cư cũ phát triển  
thành trung tâm đô thị hiện đại  
Nguồn lực chủ yếu cho cải tạo chung cư cũ phải được huy động, khai thác từ chính  
những tiềm năng lợi thế vị trí đất đai của các khu chung cư đó. Do vậy, cơ chế tạo nguồn  
lực đất đai khu chung cư vừa là tài nguyên có giá trị sử dụng để tái thiết chung cư, vừa là  
tài sản mà giá trị của nó phụ thuộc vào vị trí và mật độ xây dựng của từng lô đất.  
Cơ chế 1: Cho phép xây dựng các nhà cao tầng để dồn các nhà chung cư cũ  
thấp tầng với mật độ xây dựng cao thành nhà cao tầng với mật độ xây dựng thấp,  
tăng diện tích trống cho phát triển các công trình công cộng  
Mật độ dân cư và việc làm tại một khu vực đô thị nhất định ảnh hưởng tới hành  
vi đi lại của cư dân do khoảng cách giữa các điểm đến cũng như số lượng các điểm có  
thể đi bộ hoặc xe đạp. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng khi mật độ tăng lên thì thời gian  
và quãng đường di chuyển bằng phương tiện cơ giới giảm, trong khi đó đi bộ, xe đạp  
và phương tiện công cộng lại tăng lên. Càng có nhiều người, nhiều việc làm, nhiều  
dịch vụ và cửa hàng trong một khu vực nhất định, người dân càng dễ có khả năng sử  
dụng các phương tiện giao thông công cộng hoặc các hình thức đi lại chủ động để đi  
đến các địa điểm họ cần.  
Mật độ xây dựng quá cao nhưng độ nén dân số lại không tập trung vào từng điểm  
đầu mối giao thông như tại các khu đô thị cũ của Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh gây ra các  
hậu quả như tắc nghẽn, tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, dịch vụ và các cửa hàng  
không đáp ứng được nhu cầu, thiếu không gian công cộng ngoài trời dẫn tới làm giảm  
chất lượng sống của người dân khá nhiều.  
Mật độ xây dựng các nhà chung cư cũ thấp tầng hiện rất cao, không còn nhiều  
khoảng trống để phát triển các công trình công cộng, tạo lập khoảng không, cây xanh cho  
các khu đô thị hiện đại. Việc dồn nhiều tòa nhà thấp tầng vào thành một tòa nhà cao tầng  
sẽ tạo ra khoảng không gian trống cho phát triển các công trình công cộng và phát triển  
không gian xanh cho người dân. Phần diện tích trống phải đạt tiêu chuẩn của các khu đô  
thị hiện đại, như công viên cây xanh tạo khoảng không đi dạo cho người dân, không gian  
phát triển giao thông công cộng đủ khả năng đáp ứng cho quy mô dân số tập trung sau  
khi xây dựng lại và có không gian dự trữ có đủ khả năng kết nối với các trung tâm khác  
bằng hệ thống tàu điện ngầm trong tương lai.  
Cho phép phát triển cao tầng mới tăng thêm được diện tích thương mại để chủ đầu  
tư thu hồi vốn sau khi đã đền bù cho người dân diện tích không thu tiền bằng diện tích  
chung cư cũ. Phát triển nhà cao tầng còn tạo nên sự tập trung dân số đang phân bố phân  
tán vào một khu vực (nén dân số vào một điểm) là điều kiện cốt yếu để phát triển các  
311  
phương tiện giao thông công cộng kết nối giữa các điểm dân cư với các trung tâm hành  
chính, văn hóa và kinh tế. Các khu vực trung tâm dễ tiếp cận, có mật độ xây dựng càng  
cao thì diện tích sàn tầng dưới của các tòa nhà trên lô đất này, thậm chí cả không gian  
ngầm đều thuận tiện cho mở cửa hàng kinh doanh thương mại và dịch vụ, đặt văn phòng  
doanh nghiệp và các căn hộ cao cấp, vì vậy có giá trị rất cao.  
Các khu chung cư cũ cần cải tạo hiện nay mặc dù nằm trong khu vực đô thị lõi  
nhưng đều nằm xa trung tâm khu phố cổ cần bảo tồn không gian kiến trúc. Do vậy, việc  
điều chỉnh cho phép xây dựng các nhà cao tầng mặc dù là vượt quá chiều cao trong Quy  
hoạch đô thị Hà Nội đã được phê duyệt nhưng vẫn không làm phá vỡ kiến trúc tổng thể  
đô thị Hà Nội, mà còn tạo được điểm nhấn về các trung tâm phát triển và tập trung dân  
cư cho phát triển các phương tiện giao thông công cộng.  
Cơ sở để đề xuất cơ chế nâng cao tầng xây dựng là dựa trên các căn cứ pháp lý có  
thể cho phép áp dụng thực hiện các cơ chế đặc thù cho Hà Nội được quy định trong Luật  
Thủ đô, Luật Nhà ở và các văn bản pháp luật về quy hoạch, xây dựng có liên quan25.  
Cơ chế 2: Thiết kế đa dạng quy mô diện tích căn hộ phù hợp với yêu cầu và  
khả năng trang trải của các hộ dân khi TĐC; Phát triển không gian ngầm trong toàn  
bộ mặt bằng dự án làm không gian thương mại, dich vụ và hạ tầng giao thông tĩnh  
của cả khu vực dự án  
Để chủ đầu tư có phương án thiết kế các căn hộ phù hp vi nhu cầu TĐC và khả  
năng thanh toán cho người dân TĐC tại ch, cn cho phép thiết kế các căn hộ có din tích  
căn hộ trong các dán ci to, xây dng mới chung cư cũ trên địa bàn Thành phphải đảm  
bo không nhỏ hơn 30m2 đối với các căn hộ dành để bố trí TĐC ti chỗ và 45m2 đối vi  
các căn hộ kinh doanh thương mại (tính theo din tích thông thy).  
Việc đề xuất cơ chế thiết kế din tích ti thiểu căn hộ như trên là hoàn toàn có cơ  
spháp lý cho phép vì mc dù theo Lut Nhà ở 2005 (Điều 40) quy định: Đối vi căn hộ  
chung cư phải thiết kế căn hộ khép kín, có din tích sàn xây dng mỗi căn hộ không thp  
hơn 45m2 nhưng đến Lut Nhà ở 2014 (Điều 24) quy định: Đối với căn hộ chung cư thì  
phi thiết kế, xây dng theo kiểu căn hộ khép kín, có diện tích sàn căn htheo tiêu chun,  
quy chun xây dựng (không quy định diện tích căn hộ ti thiu). Nghị định số  
101/2015/NĐ-CP không quy định diện tích căn hộ ti thiu, trong khi Quyết định số  
10/2017/QĐ-UBND ngày 29/3/2017 ca UBND Thành phố ban hành quy định các ni  
dung thuc thm quyn ca UBND Thành phvbồi thường, htrợ và TĐC khi Nhà  
nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố (điểm a khoản 2 Điều 7) có quy định điện tích  
25  
- Khoản 5 Điều 8 Nghị định số 101/2015/NĐ-CP quy định UBND cấp tỷnh quyết định việc cho phép  
điều chỉnh tăng hệ số sử dụng đất, chiều cao công trình. Trường hợp nếu điều chỉnh tăng hệ số sử dụng đất,  
chiều cao công trình khi cải tạo, xây dựng mới nhà chung cư thuộc khu vực nội đô tại các đô thị mà theo  
quy hoạch chung đã được phê duyệt là khu vực phải hạn chế phát triển công trình cao tầng, giảm mật độ  
xây dựng và mật độ cư trú thì phải được Thủ tướng Chính phủ xem xét, chấp thuận.  
- Khoản 2 Điều 8 Luật Thủ đô có quy định việc điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô do Thủ  
trướng Chính phù phê duyệt sau khi có ý kiến của Quốc hội  
312  
căn hộ được bồi thường, TĐC không thấp hơn suất TĐC tối thiu là 30m2.  
Theo báo cáo kho sát din tích các căn hộ chung cư cũ trên địa bàn bàn Thành phố  
hin nay có nhiều căn hộ chung cư cũ có điện tích nhỏ hơn 30m2; điển hình như trường  
hợp KTT Văn Chương, số lượng căn hộ chung cư cũ có diện tích nhỏ hơn 30m2 chiếm  
70% số lượng căn hộ.  
Do vy, việc đề xut diện tích căn hộ ti thiểu như trên là phù hợp với điều kin  
hin trng vdin tích nhà ở chung cư hiện có trên địa bàn Thành ph, phù hp vi Quy  
định các ni dung thuc thm quyn ca UBND Thành phvbồi thường, htrợ và TĐC  
khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố đã được UBND Thành phphê duyt  
ti Quyết định số 10/2017/QĐ- UBND ngày 29/3/2017.  
Vic phát trin các tng hầm là quy định bt buộc đối vi xây dng các nhà chung  
cư cao tầng và các công trình kinh doanh hn hp. Tuy nhiên, quy định ca pháp lut mi  
chdng li ở quy định stng hầm, chưa đề cập đến tng din tích không gian ngm.  
Đối vi các dán ci to chỉnh trang đô thị nói chung và ci to ckhu vực chung cư cũ  
thành một khu đô thị mi hiện đại như đề xut của Đề tài, din tích dành cho xây dng  
các toà chung cư mới chchiếm không quá 30% din tích mt bng, phn còn lại đều là  
khong không dành cho phát trin din tích không gian xanh và các hoạt động dạo chơi  
đi bộ của người dân cũng như các trục giao thông công cng. Do vy, toàn bcác hot  
động kinh doanh buôn bán hin hu ca các hộ dân đang kinh doanh trên mặt bng tng  
1 của các khu chung cư cũ và các hộ dân có nhà thp tng sphi dch chuyn vào các  
sàn kinh doanh thương mại hoc hngm xuống dưới mặt đất. Do vy, vic thiết kế tng  
hm ca các khu vc dán không gii hn trong phm vi din tích xây dng ca các toà  
chung cư mới mà phát trin mrng hu hết din tích ca toàn khu vc (chiếm t80-  
85% din tích mt bng, dành khng 15% cho các trc giao thông công cng và công  
trình ngm kthut như đường điện ngm, ng cấp thoát nước, và tương lai là xây dựng  
đường tàu điện ngầm đô thị) để làm nơi đỗ xe và phát triển các khu thương mại dưới lòng  
đất như các thành phố hiện đại trên thế gii.  
Cơ chế 3: Nhà nước trực tiếp thu hồi đất, giải phóng mặt bằng các nhà ở  
thấp tầng trong phạm vi lập quy hoạch dự án, bao gồm cả nhà thấp tầng đan xen  
trong khu chung cư cũ và nhà lân cận để đảm bảo tính trọn vẹn, đồng bộ của dự án.  
Thành phố dành đất TĐC ngoài khu đô thị trung tâm cho các hộ dân có nhà ở thấp  
tầng bị thu hồi để tạo cơ chế đền bù thỏa đáng cho các hộ dân có đất bị thu hồi  
Vướng mắc lớn nhất trong công tác cải tạo chung cư cũ hiện nay là công tác bồi  
thường, giải phóng mặt bằng. Tình trạng phổ biến là một bộ phận người dân không đồng  
ý với phương án bồi thường, dù số đông đã đồng thuận dẫn đến việc dự án bị chững lại.  
Ngoài ra, còn một khó khăn khác, đó là việc một số chung cư cũ trong thời gian sử dụng  
hầu hết đều có việc cơi nới, xây dựng lấn chiếm đất trống, sân chung, cơi nới trái phép  
phần diện tích công cộng của các hộ dân tại tầng 1 do lấn chiếm không gian chung làm  
nơi kinh doanh. Do vậy, mật độ xây dựng hầu hết tăng gấp đôi so với thiết kế ban đầu,  
dân cư tăng khoảng 1,5 lần. Việc này dẫn đến công tác giải phóng mặt bằng rất phức  
313  
tạp, chi phí bồi thường rất cao. Các hộ dân tại tầng 1 thường có những đòi hỏi vượt quá  
mức quy định chung. Khi chủ đầu tư không đồng ý đồng nghĩa với việc họ không chịu  
di dời, gây khó cho chủ đầu tư.  
Hầu hết các dự án cải tạo chung cư cũ tại Hà Nội gặp vướng mắc đều do mẫu thuẫn  
về lợi ích giữa doanh nghiệp và người dân. Đặc biệt là sự không đồng thuận của người  
dân ở tầng một và các hộ dân có nhà thấp tầng đan xen giữa các nhà chung cư cao tầng.  
Vì những khó khăn này nên hầu hết các dự án cải tạo chung cư cũ hiện nay do các doanh  
nghiệp tự thỏa thuận với người dân đều phải chấp nhận phát triển các khu nhà ở thấp tầng  
bên cạnh các toà chung cư mới đưc cải tạo để thoả mãn yêu cầu của các hộ dân cư đang  
ở nhà thấp tầng trước khi cải tạo. Phương án quy hoạch này làm mất hoàn toàn giá trị các  
khu chung cư sau cải tạo vẫn không đạt được tiêu chuẩn của các khu đô thị văn minh hiện  
đại, không tạo lập được các giá trị mới cho cộng đồng và không tạo được luồng giá trị  
mới cho cư dân sau khi triển khai dự án.  
Do vậy, Nhà nước cần coi việc quy hoạch cải tạo chung cư cũ, cải tạo chỉnh trang  
đô thị là dự án vì lợi ích và sự phát triển chung của cộng đồng nên việc thu hồi đất, đền  
bù giải phóng mặt bằng không phải trách nhiệm của nhà đầu tư mà thuộc trách nhiệm của  
Nhà nước trực tiếp đứng ra triển khai thực hiện thu hồi đất, đền bù, giải phóng mặt bằng.  
Nguồn kinh phí dành cho việc này nhà đầu tư sẽ ứng ra thay vì dùng ngân sách nhà nước.  
Các hộ dân đang có nhà ở thấp tầng đan xen trong khu cao tầng cần cải tạo sẽ được  
nhận chế độ đền bù và TĐC thỏa đáng. Về đền bù đất và tài sản trên đất sẽ thực hiện theo  
đúng quy định về chế độ đền bù cho người dân khi bị thu hồi đất và tài sản trên đất cho  
các dự án đầu tư phát triển hạ tầng, các mục đích công cộng.  
Ngoài ra, các hộ có nhà ở thấp tầng bị thu hồi để cải tạo chỉnh trang đô thị sẽ được  
nhận bổ sung các chế độ bồi thưỡng để hỗ trợ TĐC theo mong muốn và đảm bảo các điều  
kiện tái lập cuộc sống từ hoạt động kinh doanh tại chỗ ở cũ bằng các mặt bằng kinh doanh  
thương mại mới, với những cơ chế như sau:  
- Nhà nước cần dành một quỹ đất TĐC ở các khu vực đô thị mới phát triển mở rộng  
để khuyến khích các hộ đang sinh sống ở khu vực trung tâm di chuyển ra các khu đô thị  
mới sinh sống nếu muốn.  
- chủ đầu tư dự án sẽ đảm bảo TĐC chỗ ở cho các hộ có nhà ở thấp tầng bằng diện  
ch nhà ở chung cư cao tầng sau cải tạo bằng việc cấp không thu tiền diện tích chung cư  
tương ứng với một tỷ lệ diện tích nhà ở cũ các hộ dân đang sinh sống. Việc đó sẽ đảm  
bảo các hộ dân được TĐC tại chỗ không làm ảnh hưởng đến sự thay đổi địa điểm tiếp cận  
đến các nơi người dân đang học tập sinh hoạt và làm việc.  
- Người dân được ưu tiên mua mặt bằng sàn kinh doanh theo giá ưu đãi để các hộ có  
nhu cầu tái lập cuộc sông bằng các hoạt động buôn bán kinh doanh tại chỗ.  
314  
Với cơ chế thu hồi, bồi thường và hỗ trợ ưu đãi như trên sẽ đảm bảo thoả mãn tất  
cả các nhu cầu của người dân sau khi dự án được triển khai nên sẽ dễ dàng lôi kéo được  
sự đồng tình của đông đảo người dân.  
Cơ chế 4: Thành phố quy định thống nhất môt cơ chế đền bù áp dụng chung  
cho tất cả các dự án cải tạo chung cư cũ trên địa bàn Thành phố vừa đảm bảo cho  
người dân có chỗ ở tốt hơn sau cải tạo, có điểm kinh doanh cho những hộ trước đây  
sinh sống ở tầng 1 hoặc nhà riêng lẻ đồng thời đảm bảo công bằng giữa các hộ dân  
Cần có quy định diện tích nhà mới được bồi thường tối thiểu “bằng hoặc lớn hơn  
diện tích nhà ở cũ”, nhưng trong giới hạn “mức diện tích tối đa” mà người dân có nhu cầu  
TĐC tại chỗ có thể được bồi thường để chủ đầu tư xây dựng các phương án thiết kế các  
dạng quy mô căn hộ và tính toán phương án bồi thường TĐC. Điều này sẽ tạo điều kiện  
thuận lợi hơn cho việc thương thảo giữa người dân và chủ đầu tư. Tuy nhiên, cũng phải  
có cơ chế đảm bảo sự tham gia tích cực của người dân trong việc chia sẻ các lợi ích của  
việc đóng góp quyền sử dụng nhà ở cho dự án. Họ không chỉ được hưởng mức đền bù  
hợp lý mà phải có quyền thương lượng với nhà đầu tư theo những cách mới mẻ nhằm  
chia sẻ lợi ích trong dự án sau khi cải tạo để người dân nhận thấy những lợi ích trực tiếp  
cũng như những lợi ích gián tiếp sau khi dự án được triển khai.  
Bên cạnh đó, ghi nhận sự góp ý từ người dân, sự linh hoạt của phương án bồi thường  
nên được tăng cường các hình thức khuyến khích để tạo thêm cơ hội cho người dân được  
lựa chọn và khuyến khích những hộ gia đình tham gia tích cực trong dự án như ưu tiên  
quyền thuê mặt bằng thương mại đối với các hộ tầng 1, ưu tiên đối với các gia đình bàn  
giao sớm, hỗ trợ di chuyển đối với các hộ gia đình neo đơn, các hộ gia đình quyết định  
TĐC tại nơi ở khác.  
Do vậy, Thành phố cần thống nhất một cơ chế đền bù như sau:  
- Người dân được đền bù diện tích TĐC bằng với diện tích cũ trước khi cải tạo  
không phải trả tiền cho chủ đầu tư. Phần diện tích tích căn mới sau khi cải tạo lớn hơn  
diện trước khi cải tạo thì người dân phải thanh toán cho nhà đầu tư bằng chi phí + 10%  
lợi nhuận. Đối với các hộ dân sinh sống tại tầng 1, ngoài diện tích căn hộ được đền bù  
như các hộ khác còn được quyền mua diện tích kinh doanh thương mại, dịch vụ (tối đa  
bằng diện tích căn hộ cũ sở hữu hợp pháp) với giá thành bằng giá thành đầu tư cộng thêm  
10% lợi nhuận của nhà đầu tư.  
- Đối với người có nhà ở riêng lẻ nằm trong khu vực phát triển của dự án (bao gồm  
cả các hộ dân trong khu chung cư cũ và các hộ dân liền kề) sẽ được TĐC bằng căn hộ do  
chủ đầu tư thực hiện, được quyền mua diện tích mặt bằng kinh doanh, dịch vụ và được  
nhà nước TĐC bằng đất thuộc quỹ đất TĐC của Thành phố. Phần diện tích nhà TĐC được  
tính bằng tổng của diện tích nhà ở cũ từng tầng nhân với hệ số của từng tầng (hệ số tầng  
được tính bằng 1 chia cho số thứ tự tầng: tầng 1 hệ số 1/1, tầng 2 hệ số ½, tầng 3 hệ số  
1/3,... tầng 10 hệ số 1/10). Phần diện tích thương mại, dịch vụ được mua tối đa bằng diện  
315  
tích đất sử dụng hợp pháp được đền bù. Phần diện tích nhà tăng thêm và phần diện tích  
thương mại, dịch vụ được mua theo giá thành xây đầu tư cộng thêm 10% lợi nhuận. Nếu  
người dân tự nguyện nhận phần diện tích nhà TĐC ít hơn diện tích được TĐC (đã tính  
theo hệ số), chủ đầu tư phải bù lại bằng tiền phần diện tích TĐC ít hơn (bằng giá thành  
xây dựng cộng 10%).  
- Trường hợp người dân không có tiền để thanh toán phần diện tích căn hộ tăng  
thêm và người dân ở tầng 1 hoặc người dân ở nhà thấp tầng không có tiền để mua diện  
tích sàn thương mại thì sẽ được bố trí TĐC vào căn hộ có diện tích là 30 m2. Nhà nước  
sẽ cho vay theo chính sách cho vay mua nhà ở đối với người thu nhập thấp để thanh toán  
cho phần diện tích tăng thêm hoặc mua sàn thương mại, dịch vụ.  
Với cơ chế như trên, phần đông người dân đã nhận thức rõ lợi ích được sống trong  
căn hộ mới khang trang, sạch sẽ, được sống trong khu đô thị hiện đại với các tiện ích đầy  
đủ và đồng bộ hơn.  
Cơ chế 5: Thành phố ưu tiên đầu tư nguồn ngân sách hỗ trợ các bên tham  
gia, nhất là người dân trong quá trình cải tạo, chỉnh trang đô thị và ngân sách cho  
việc đầu tư các công trình giao thông công cộng đồng bộ trong dự án và hệ thống  
giao thông kết nối từ bên ngoài vào khu vực dự án; đầu tư tái lập lại lại hoặc xây  
dựng mới các công trình của nhà nước như trụ sở làm việc, trường học, cơ sở y tế  
công lập trong khu vực dự án. Nguồn vốn đầu tư cho các hạng mục này chỉ chiếm  
một tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư của dự án nhưng đóng vai trò hết sức quan  
trọng như là vốn mồi, thể hiện sự cam kết của Nhà nước để người dân sẵn sàng chấp  
nhận dự án cải tạo mới, doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư cho dự án  
Các khu chung cư cũ sau cải tạo sẽ là các trung tâm đô thị có mức tập trung dân số  
cao nên nhu cầu đi lại bằng phương tiện giao thông công cộng sẽ tăng lên nhiều so với  
trước. Không gian trống dành cho phát triển giao thông công cộng sau cải tạo cũng tăng  
lên vừa là điều kiện vừa đòi hỏi Thành phố phải có mức đầu tư thỏa đáng cho khai thác  
không gian này đưa vào phát triển giao thông công cộng. Để khuyến khích người dân sinh  
sống trong khu đô thị mới sau khi cải tạo chuyển từ sử dụng phương tiện giao thông cá  
nhân sang sử dụng các phương tiện giao thông công cộng, thì việc kết nối giao thông công  
cộng giữa khu chung cư mới cải tạo với các khu vực khác của thành phố cần phải được  
phát triển thuận lợi. Đầu tư phát triển giao thông công cộng là trách nhiệm của nhà nước  
và thuộc phạm vi của đầu tư công.  
Các công trình là trụ sở làm việc của các cơ quan nhà nước, trường học và cơ sở y  
tế công lập sẽ phải xây dựng lại cho phù hợp với quy hoạch và sự phát triển đồng bộ của khu  
đô thị mới hiện đại. Đây là các công trình thực hiện các dịch vụ công, là đối tượng của đầu  
tư công từ ngân sách nhà nước. Do vậy, Thành phố phải bố trí ưu tiên nguồn ngân sách cải  
tạo chỉnh trang đô thị cho đầu tư phát triển các công trình này đảm bảo hiện đại, đồng bộ với  
các công trình do chủ đầu tư phát triển. Ngoài ra, ngân sách thành phố cần dành để cấp bù lãi  
suất đối với các khoản vay ưu đãi đối với những người không có khả năng thanh toán phần  
chênh lệch diện tích nhà ở hoặc tiền mua diện tích thương mại, dịch vụ.  
316  
Việc thành phố dành quỹ đất TĐC tại các khu đô thị mới phát triển bên ngoài các  
khu đô thị trung tâm cho các hộ dân có nhà thấp tầng lựa chọn di chuyển TĐC nếu muốn  
sẽ mang lại tác động nhiều mặt: vừa giải quyết nhu cầu và tâm lý của người dân muốn  
vẫn có đất nhà ở riêng như trước khi triển khai dự án, vừa khuyến khích lôi kéo người  
dân từ các khu đô thị trung tâm dịch chuyển ra TĐC tại các khu đô thị mới phát triển.  
Có thể thấy, các cơ chế, chính sách đặc thù về cải tạo chung cư cũ trên địa bàn thành  
phố Hà Nội là hết sức cần thiết nhằm giải quyết, tháo gỡ các khó khăn vướng mắc để  
chính quyền, người dân và nhà đầu tư có cơ sở để triển khai thực hiện xây dựng mới các  
chung cư cũ đã xuống cấp trên địa bàn thành phố, đảm bảo yêu cầu về nhà ở, điều kiện  
sinh hoạt cho người dân, đồng thời cải tạo chỉnh trang đô thị, xây dựng hệ thống kết cấu  
hạ tầng đô thị theo hướng văn minh hiện đại.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
Danh mục tài liệu trong nước  
1. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Tái thiết chung cư cũ thành không gian đô thị sống tốt”  
2. Nguyễn Thị Hải Yến và cộng sự (2019), Nghiên cứu cơ chế khai thác, huy động  
nguồn lực để xây dựng, cải tạo chỉnh trang đô thị trên địa bàn Hà Nội đến năm  
2025, Đề tài cấp thành phố.  
Danh mục mục tài liệu ngoài nước:  
1. ADB (2008, 2012), Public private partnership (PPP) Hanbook.  
2. ADB (2008), Revitalization of Historic Inner-City Areas in Asia, The  
Potential for Urban Renewal in Ha Noi, Jakarta, and Manila, Mandaluyong  
City, Phil.: Asian Development Bank  
3. ADB (2007), Compensation and Valuation in Resettlement: Cambodia,  
People’s Republic of China, and India, Rural Development Institute.  
4. André Sorensen (2000), Land readjustment and metropolitan growth: an  
examination of suburban land development and urban sprawl in the Tokyo  
metropolitan area, Progress in Planning 53 (2000) 217±330.  
5. Adrienne La Grange, Chi-Oh Chang và Ngai Ming Yip (2006),  
Commodification and Urban Development: A Case Study of Taiwan,  
Housing Studies, Volume 21, Issue 1, 2006, pp 53-76.  
6. Andri Supriatna (2011), The feasibility study of land readjustment for  
Kampung upgrading in Jakarta, Thesis master of Science, Enschede, The  
Netherlands.  
7. Anne-Marie Broudehoux (1994), Neighborhood Regeneration in Beijing: An  
Overview Of Projects Implemented in the Inner City Since 1990, McGill  
University.  
317  
8. Aron Hendrix (2009), A case study on urban renewal through community  
governance in two Berlin neighborhoods, Masters Thesis, Lund University.  
9. Brenda SA Yeoh (1999), The conservation-redevelopment dilemma in  
Singapore: The case of the Kampong Glam historic district, Cities, Volume  
13, Issue 6, December 1996, Pages 411422.  
10. Chetan Vaidya (2009), Urban issues, reforms and way forward in India,  
Working Paper for the Economic Survey 2008-09.Shari Turitz và David  
Winder (2003), Private Resources for public ends: Grantmakers in Brazil,  
Ecuador and Mexico, in Cythia Sanborn and Felipe Portocareto (eds)  
Philanthropy and Social change in Latin America, Harvar University Press.  
11. C.K. Law, Joseph C.W. Chan, Ernest W.T. Chui, Y.C. Wong, K.M. Lee, Feon  
L.Y. Chau (2009), Urban Renewal Policies in Asian Cities for the Urban  
Renewal Strategy Review, University of Hong Kong  
12. C.K. Law, Ernest W.T. Chui, Y.C. Wong,Y.C. Wong, L.S. Ho (2010), The  
Achievements and Challenges of Urban Renewal in Hong Kong, The  
Hongkong University.  
13. Couch (1990), Urban Renewal: Theory and Practice, Macmillan  
14. FAO (2008), Compulsory acquisition of land and compensation, Rome.  
15. George E. Peterson và Vasudha Thwaka (2013), Capturing the Value of  
Public Land for Urban Infrastructure Centrally Controlled Landholdings, The  
World Bank Sustainable Development Network, Policy Research Working  
Paper, Finance Economics and Urban Department  
16. George E. Peterson (2008), Washington, Unlocking Land Values to Finance  
Urban Infrastructure, Washington, DC, World Bank  
17. George E. Peterson (2013), Unlocking Land Values for Urban Infrastructure  
Finance: International Experience Considerations for Indian Policy, The  
World Bank Sustainable Development.  
18. Yau. Yung và Cheng. Ching Yin (2010), Applicability of land readjustment  
in urban regeneration in Hong Kong, Journal of Urban Regeneration and  
Renewal 04/2010; 4(1):19-32.  
ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ ĐẤT SO SÁNH  
THỬA ĐẤT CHUẨN TRONG XÂY DỰNG BẢNG GIÁ ĐẤT  
PHỤC VỤ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI:  
NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH TẠI PHƯỜNG HẢI CHÂU 1,  
QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG  
318  
pdf 14 trang Thùy Anh 18/05/2022 780
Bạn đang xem tài liệu "Cơ chế khai thác huy động nguồn lực cho cải tạo chỉnh trang đô thị - trường hợp cải tạo các khu chung cư cũ trên địa bàn Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfco_che_khai_thac_huy_dong_nguon_luc_cho_cai_tao_chinh_trang.pdf