Chiến lược xoay trục châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ dưới thời tổng thống Barack Obama (2011- 2016)

CHIẾN LƯỢC XOAY TRC CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG CỦA MỸ DƯỚI  
THI TNG THNG BARACK OBAMA (2011- 2016)  
SV: Ngô Hu Toàn  
Lớp: ĐHSSU 15A  
GVHD: ThS. Trn ThNhung  
Tóm tt: Cho đến khi kết thúc Chiến tranh lạnh, Mỹ vẫn coi châu Âu là trọng  
điểm chiến lược. Tkhi tng thng George Herbert Walker Bush lên cầm quyền, đồng  
thời với tăng cường thêm lực lượng ở châu Âu, Mỹ điều chỉnh chiến lược toàn cầu  
hướng schú ý sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương (CATBD) với mục đích duy  
trì địa vị siêu cường trong thế kỷ mới. Dưới thời của chính quyền Obama tiếp tục kể  
thừa chính sách đối với khu vực CATBD của các chính quyền tiền nhiệm với chiến  
lược “xoay trục” - tái cân bằng” đối với khu vực CATBD bao gồm các mục tiêu, nội  
dung, biện pháp chiến lược là một tổng thể toàn diện (cả chính trị, kinh tế, văn hóa,  
quân sự và ngoại giao), có mối quan hệ biện chứng với nhau; việc triển khai có mục  
tiêu rõ ràng, có trọng tâm, trọng điểm.  
Từ khóa: Tổng thống B.Obama, khu vực CA-TBD, chính sách “xoay trục”.  
1. Đặt vấn đề  
Châu Á - Thái Bình Dương (CA-TBD) chiếm 40% tng din tích lãnh th, 41%  
dân s(gn 3,6 tỷ người), 61% GDP, 47% tổng thương mại quc tế và 48% ngun vn  
đầu tư trực tiếp nước ngoài ca thế gii. CA-TBD tp trung 65% ngun nguyên liu  
toàn cu và có nhiu tuyến đường giao thông bin quan trng bc nht thế gii) [8].  
Trong chiến lược toàn cu, Mluôn coi CA-TBD là khu vực địa-chiến lược, địa-chính  
trtrng yếu, quan htrc tiếp đến an ninh quốc gia và vai trò lãnh đạo thế gii ca M.  
Tháng 10/2011, Tng thng MBarack Obama và Ngoại trưởng Mỹ khi đó là bà  
Hillary Clinton lần lượt tuyên bchiến lược “xoay trụcsang châu Á-Thái Bình  
Dương “là để đảm bảo và duy trì vai trò lãnh đạo thế gii của nước M”, trong đó nổi  
bt là kim chế Trung Quốc “vic Trung Quc ngày càng tăng cường quyn lc và nh  
hưởng ở Đông Á ở mức độ nhất định đe dọa li ích ca Mtrong khu vực”11. Chiến  
lược “xoay trục” này được chính quyn Obama thc hiện đã phản ánh tm quan trng  
ca khu vc CA-TBD trong nn kinh tế toàn cu và chính trquc tế. Nhng mc tiêu  
ca kế hoạch được gii chc Mmô tlà can dvkinh tế và quan tâm thường xuyên  
ti các thchế khu vc và bo vcác nguyên tc và lut pháp quc tế. Bài viết này tp  
trung phân tích mc tiêu, ni dung, bin pháp thc hin chiến lược xoay trc này ”  
ca Tng thng Barack Obama.  
2. Nội dung  
2.1. Bối cảnh ra đời của chiến lược “xoay trục”  
“Xoay trục châu Á - Thái Bình Dương”12 là thut ngữ dùng để nói vnhng thay  
đổi chiến lược trong chính sách đối ngoi ca Mti khu vc châu Á Thái Bình  
11 Nguyễn Thị Thanh Thủy, Chính quyền Obama đối với Trung Quốc trong lĩnh vực an ninh – quân sự, Tạp  
chí NCQT, số 1 (92), Hà Nội, 2013, tr.115.  
12 “Xoay trục – Pivot” hay “Tái cân bằng – Rebanlancing”. Đây là thuật ngữ đưc sdng lần đầu bi ngoi  
trưởng Hillary Clinton (năm 2011) trong bài viết “Thế kỉ Thái Bình Dương của nước Mỹ”.  
21  
Dương, thể hin vtrí quan trng ca khu vực này đối với nước M. Để tiến hành  
chiến lược xoay trc châu Á, Mỹ đã đưa ra rất nhiu các chính sách, các chương trình  
hành động cth.  
Thế kỷ XXI được đánh giá là thế kca châu Á – Thái Bình Dương, bởi đây là  
mt khu vực đông dân cư và có tốc độ phát triển nhanh, sôi động nht thế gii hin  
nay vi shp dẫn khó cưỡng trên mi khía cnh, tchiến lược ti kinh tế. Do đó, gn  
như tất cả các nước ln trên thế giới đều chú trng và có sự điều chnh chiến lược đối  
vi khu vc có tm quan trọng đặc bit này.  
Nhn thức được tm quan trng ngày càng ln ca khu vc châu Á Thái Bình  
Dương đối với nước Mỹ và trước nhng din biến phc tp ca tình hình thế gii,  
trong đó có sự tri dy mnh mca Trung Quc. Tnhim kca Tng thng  
Obama, nước Mỹ đã có những động thái và chiến lược thhin sthay đổi ln trong  
chính sách đối ngoi bng vic tuyên bố “Xoay trục Châu Á” nhm thc hin mc tiêu  
chiến lược xuyên sut là tiếp tc giữ vai trò lãnh đạo thế giới, không để xut hin bt  
cứ đối thnào có thcnh tranh hay thách thc vthế s1 ca Mỹ ở mt khu vc  
được đánh giá là phát triển nhanh và năng động nht thế gii này.  
2.2. Mục tiêu và quá trình triển khai chiến lược “xoay trục”  
2.2.1 Về kinh tế  
Mục tiêu: nhằm đưa nước Mỹ thoát khỏi khủng hoảng và suy thoái kinh tế, tiếp  
tục là đầu tàu kinh tế của khu vực và thế giới. Để đạt được mục tiêu đề ra Mỹ đã triển  
khai những biện pháp:  
Chính quyền Tổng thống Obama đang theo đuổi chiến lược hai mũi nhọn về kinh  
tế tại khu vực. Theo đó sử dụng chính sách ngoại giao để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế  
Mỹ (ngoại giao thương mại), đồng thời sử dụng can dự kinh tế để hỗ trợ cho các ưu  
tiên trong chính sách ngoại giao.  
Theo số liệu thống kê của Cơ quan đại diện thương mại Mỹ (USTR), ngay vào  
thời điểm năm 2009, tổng kim ngạch thương mại và dịch vụ giữa Mỹ và các nước  
thành viên APEC đã là 1,9 nghìn tỷ USD, 9 trong tổng số 15 thị trường xuất khẩu lớn  
nhất của Mỹ nằm ở CATBD. Và năm 2012, Mỹ xuất khẩu lượng hàng hóa trị giá 942  
tỷ USD sang thị trường các nước CATBD, chiếm 61% tổng kim ngạch xuất khẩu của  
Mỹ. Thị trường CATBD đã tạo ra công ăn việc làm cho gần 3 triệu người Mỹ. Đầu tư  
của Mỹ vào khu vực này năm 2012 đạt 622 tỷ USD, tăng hơn 35% so với thời điểm  
Obama bắt đầu lên cầm quyền. [10]  
Mỹ xác định TPP là sự tập trung chủ chốt trong chính sách thương mại của nước  
này tại CATBD, đồng thời là nền tảng cho chính sách tái cân bằng. Bắt đầu khởi động  
từ tháng 3-2010, đàm phán TPP đến tháng 9-2014 đã trải qua hàng chục phiên chính  
thức cũng như phiên giữa kỳ và được dự báo có thể hoàn tất trong nửa đầu năm 2015.  
TPP được kỳ vọng là mô hình mới về hợp tác kinh tế khu vực, tạo thuận lợi tối đa cho  
thương mại, đầu tư và nếu có thể, sẽ trở thành hạt nhân để hình thành FTA chung cho  
toàn khu vực CATBD. Theo tính toán của Mỹ, đến năm 2025, TPP có thể làm lợi thêm  
cho nền kinh tế Mỹ 70 tỷ USD mỗi năm.  
22  
Ngoài TPP, năm 2012, Mỹ đã hoàn tất Hiệp định thương mại tự do với Hàn  
Quốc, đang tiến hành tham vấn Hiệp định khung về thương mại và đầu tư (TIFA) với  
Đài Loan và Hiệp định đầu tư song phương với Trung Quốc và Ấn Độ.  
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) từng có lúc tiến triển suôn sẻ  
và được xem là thành công lớn của Chính quyền Obama. TPP được xem là thành tố  
quan trọng trong chính sách xoay trục sang châu Á của Mỹ, đó cũng là lý do mà Mỹ  
thúc đẩy hiệp định này. Sau “hành trình” đầy trắc trở có vẻ như TPP sắp đi hết được  
chặng cuối. Nhưng trong bối cảnh hiện nay tổng thống mới không ủng hộ TPP, hiệp  
định này được cho là sẽ còn rất lâu mới được thực hiện. Việc TPP thất bại, uy tín của  
Mỹ được dự báo chắc chắc sẽ bị ảnh hưởng nặng nề và “xoay trục” của Mỹ chắc chắn  
cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng [13].  
Các cơ quan tài chính liên bang đóng vai trò lớn trong can dự kinh tế của Mỹ với  
khu vực và đã chuyển hướng nguồn lực của họ tới CATBD trong những năm qua.  
Trong giai đoạn 2008-2013, nguồn lực của Ngân hàng Xuất nhập khẩu (Exim Bank)  
tại CATBD tăng 14 tỷ USD; nguồn lực của Tập đoàn đầu tư tư nhân hải ngoại (OPIC)  
tăng từ 1 tỷ lên 2,7 tỷ USD. Trong năm tài khóa 2013, 41% tổng chi tiêu của Cơ quan  
Phát triển và Thương mại Mỹ (USTDA) là tại khu vực CATBD. USTDA đã chi 7,5  
triệu USD cho các chương trình tại Đông Á và 9,7 triệu USD tại Nam Á và Đông Nam  
Á, trong đó có các dự án tại Inđônêxia và Việt Nam theo Sáng kiến Đối tác toàn diện  
Mỹ - CATBD vì Năng lượng Bền vững [11].  
2.2.2 Về quân sự  
Mục tiêu: đối phó với việc tăng cường sức mạnh quân sự của các cường quốc  
trong khu vực, nhất là Trung Quốc, hỗ trợ cho các đồng minh thân cận duy trì sức  
mạnh vượt trội về quân sự và răn đe tiến công các nước. Để đạt được mục tiêu đề ra  
Mỹ đã triển khai những biện pháp:  
Tại Diễn đàn Shangrila -2012, Mỹ khẳng định sẽ bố trí lại sức mạnh hải quân  
theo hướng tăng cường triển khai tàu sân bay, tàu tuần dương, tàu khu trục, tàu chiến  
ven bờ và tàu ngầm ở Thái Bình Dương. Nhằm tái cần bằng sức mạnh quân sự tại khu  
vực, Bộ Quốc phòng Mỹ đã có những điều chỉnh nguồn lực nhanh chóng để thích ứng  
với chiến lược mới của Mỹ tại CATBD. Dự tính đến năm 2020, Mỹ sẽ thay đổi tỷ lệ  
lực lượng hải quân hiện diện là 50-50 giữa hai khu vực thành 40% ở Đại Tây Dương  
và 60% ở Thái Bình Dương [9] . Việc bố trí lại lực lượng hải quân cho phép Mỹ can  
dự nhanh hơn, chủ động hơn vào diễn biến tình hình tại đây.  
Những diễn biến trong thời gian gần đây ở CATBD đã tạo điều kiện cho Mỹ thực  
hiện việc tái xác lập lực lượng, kèm theo là không gian ảnh hưởng, trên nền của những  
căng thẳng trong khu vực, cụ thể là: ở Đông Nam Á, cuộc tranh chấp giữa Trung Quốc  
với Philíppin chung quanh bãi cạn Scarborough nổi lên từ giữa năm 2012 và tiếp tục  
trong năm 2013 đã tạo điều kiện để Mỹ có thể tăng cường sự có mặt tại Philíppin,  
không loại trừ xác lập lại các căn cứ quân sự tại đây. Tình hình an ninh khu vực Đông  
Bắc Á năm 2013 là địa bàn giúp Mỹ có thể mạnh dạn triển khai kế hoạch “xoay trục”  
để “tái cân bằng” lực lượng ở khu vực CATBD. Tình trạng căng thẳng giữa Cộng hòa  
dân chủ nhân dân Triều Tiên và Hàn Quốc được đẩy lên đỉnh điểm vào thời điểm  
23  
tháng 3-2013 đã giúp cho Mỹ có cớ thực hiện hàng loạt cuộc tập trận chung Mỹ - Hàn,  
đồng thời triển khai thêm các trang thiết bị quân sự hiện đại trên bán đảo Triều Tiên,  
kể cả máy bay ném bom chiến lược B-52. Sự có mặt trên bán đảo Triều Tiên của máy  
bay tàng hình B-2, con chủ bài trong lực lượng không quân chiến lược Mỹ, là một  
thông điệp cứng rắn của Oasinhtơn với mục tiêu thể hiện cam kết “tái cân bằng” trên  
thực tế. Tiếp đó, Mỹ thể hiện lập trường ủng hộ Nhật Bản trong tranh chấp giữa Nhật  
Bản và Trung Quốc chung quanh quần đảo Nhật Bản gọi là Senkaku, Trung Quốc gọi  
là Điếu Ngư, với việc khẳng định quần đảo Senkaku/Điếu Ngư nằm trong phạm vi của  
Điều 5 Hiệp ước bảo hộ an ninh Nhật - Mỹ. Điều đó có nghĩa là nếu xung đột nổ ra  
chung quanh khu vực tranh chấp này, Mỹ sẽ đứng về phía Nhật Bản. Khi Trung Quốc  
bất ngờ tuyên bố về “Vùng nhận dạng phòng không trên biển Hoa Đông”, phản ứng  
của Mỹ khá nhanh, mạnh và kiên quyết, không chỉ tuyên bố không công nhận vùng  
nhận dạng này của phía Trung Quốc, Mỹ còn điều hai máy bay B-52 không mang theo  
vũ khí, bay vào vùng nhận dạng rồi quay về.  
Các kế hoạch điều chuyển lực lượng và trang thiết bị tới khu vực đã, đang và sẽ  
được triển khai bao gồm: điều 2.500 lính thủy đánh bộ tới Darwin (Ốxtrâylia); thêm 1  
tiểu đoàn lục quân tới Hàn Quốc; 2 tàu khu trục phòng vệ tên lửa tới Nhật Bản, tăng  
cường các cuộc tập trận với đồng minh và thăm viếng quân sự tới các nước trong khu  
vực [12]. Bộ Quốc phòng được đánh giá là có điều chỉnh trong việc tái cân bằng lực  
lượng phản ứng nhanh và thống nhất so với các bộ ngành khác.  
Mỹ khẳng định sự cần thiết phải củng cố và phát triển các liên minh quân sự với  
tất cả các nước trong khu vực,đặc biệt đối với các nước Đông Nam Á hiện đang có  
tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc trên biển Đông. Mỹ sẽ tăng cường hợp tác và làm  
sâu sắc hơn các mối quan hệ với Singapor, Inđônêxia, Malaixia và Ấn Độ, thậm chí cả  
Myanma.  
Tại Shangrila -2012, Mỹ và Singapor đã đạt được một số thỏa thuận hợp tác:  
Chính phủ Singapo cho phép 4 tàu tác chiến ven bờ của Mỹ đến thăm các căn cứ hải  
quân ở nước này theo đúng cam kết trong Thỏa thuận khung chiến lược giữa hai phía  
đã ký năm 2005; sử dụng cơ sở huấn luyện quân đội, diễn tập quân sự song phương là  
thành phố Murai và các tàu chiến Mỹ sẽ luân chuyển đến Singapor. Đối với Philíppin,  
nơi Mỹ đang triển khai 600 binh sỹ chuyên tham gia các chiến dịch chống nổi dậy với  
quân đội Philíppin. Trong các cam kết, hai phía sẽ tăng cường diễn tập quân sự chung  
cũng như nâng cao khả năng phối hợp tác chiến giữa quân đội hai nước. Binh sỹ, tàu  
chiến, tàu sân bay của Mỹ được phép sử dụng các căn cứ không quân và hải quân ở  
Subic và Clark. Đối với Thái Lan, trong khuôn khổ đồng minh, phía Mỹ đã đạt được ý  
định sử dụng căn cứ U - Tapao cho các hoạt động quân đội Mỹ trên danh nghĩa phục  
vụ mục đích nhân đạo, không ngoại trừ khả năng sử dụng để triển khai các chiến dịch  
lớn trong tương lai. Mỹ cung cấp nhiều trang thiết bị mới cho Thái Lan, cũng như đẩy  
mạnh các hoạt động diễn tập quân sự chung với các nước này. Đối với Việt Nam, sau  
8 năm đối thoại về quốc phòng, đến năm 2011, hai nước Mỹ - Việt Nam đã ký được  
“Tuyên bố hợp tác sơ khởi về quân y”. Đến năm 2012, trong chuyến thăm của Bộ  
trưởng Quốc phòng Mỹ tới Việt Nam, người phát ngôn của Lầu Năm Góc, Georger  
24  
Little nhấn mạnh: Mỹ củng cố cam kết lâu dài đối với việc thúc đẩy mối quan hệ quốc  
phòng song phương mạnh mẽ với Việt Nam dựa trên sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau.  
2.2.3 Về ngoại giao  
Mục tiêu: tăng cường củng cố quan hệ với các đồng minh để tạo sự cân bằng  
chiến lược giữa Đông và Tây, giữa châu Âu, châu Á, châu Mỹ, giữa nước Mỹ với các  
trung tâm quyền lực chính trị, sức mạnh kinh tế, quân sự trên thế giới; thu hút các  
nước khác đi theo Mỹ làm đối trọng với các nước trong khu vực, trước hết là hình  
thành các liên minh mới để bao vây, làm đối trọng với Trung Quốc, sau đó là  
Nga…Để đạt được mục tiêu đề ra Mỹ đã triển khai những biện pháp:  
Lấy chiêu bài “chống khủng bố”, “dân chủ”, “nhân quyền”, Mỹ thực hiện chính  
sách can dự vào khu vực. Trong quan hệ quốc tế, Mỹ coi trọng sách lược “cây gậy và  
củ cà rốt”, đối xử với các nước theo “tiêu chuẩn kép”, nhất là với các nước mà Mỹ cho  
là “bất trị”; thể hiện rõ nhất là cách giải quyết vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều  
Tiên. Đánh giá về chiến lược của Mỹ, các nhà phân tích cho rằng, đó là một chiến lược  
nhằm phát huy sức mạnh tổng thể để đạt mục tiêu của Mỹ ở khu vực; nhưng chiến  
lược đó chưa phù hợp với một CA-TBD đã có nhiều thay đổi. Đó là vì: Thứ nhất,  
chiến lược đó vẫn mang tư duy của thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”, là lấy sức mạnh để  
“ngăn chặn, kiềm chế” nước khác, nhằm bảo vệ an ninh, lợi ích quốc gia của mình.  
Điều đó làm cho mâu thuẫn giữa Mỹ với các nước, kể cả các nước đồng minh, ngày  
càng sâu sắc, phức tạp. Thứ hai, Mỹ tăng cường sức mạnh quân sự là nhân tố thúc đẩy  
chạy đua vũ trang, đe dọa đến đến an ninh, ổn định của khu vực, bị dư luận phản đối.  
Trong nhiệm kỳ đầu của Obama, chính sách “xoay trục” đã được thúc đẩy rất  
mạnh mẽ. Thực tế này phần nào được thể hiện qua thống kê về các chuyến công du tới  
khu vực CATBD của các lãnh đạo cấp cao của Mỹ. Tháng 11-2009, Tổng thống Mỹ  
thăm Singapor, Trung Quốc và Hàn Quốc. Tháng 11-2010, Tổng thống Mỹ thăm  
Inđônêxia, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tháng 11-2011, Tổng thống Mỹ thăm Ôxtrâylia và  
Inđônêxia. Tháng 3-2012, Tổng thống Mỹ thăm Hàn Quốc và tháng 11 cũng trong  
năm 2012, thăm Thái Lan, Myanma, Campuchia và dự Hội nghị cấp cao Đông Á; Bộ  
trưởng Quốc phòng Mỹ công du CATBD 2 lần trong năm 2009, 4 lần năm 2010, 3 lần  
năm 2011 và 3 lần năm 2012. Riêng đối với Ngoại trưởng Mỹ, chương trình làm việc  
của Hillary Clintơn kín đặc các chuyến đi tới các nước CATBD: 3 chuyến năm 2009, 5  
chuyến năm 2010, 4 chuyến năm 2011, 5 chuyến năm 2012. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ  
của mình, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clintơn dự đủ cả 4 kỳ ARF cũng như các cuộc  
Tham vấn cấp bộ trưởng Ốxtrâylia - Mỹ, Đối thoại chiến lược và kinh tế Mỹ - Trung,  
Tham vấn an ninh Mỹ - Nhật Bản. Bà Clintơn cũng đề xuất tổ chức Hội nghị Bộ  
trưởng Ngoại giao và Quốc phòng Mỹ - Hàn Quốc, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao và  
Quốc phòng Mỹ - Philíppin. Bà Clintơn là Ngoại trưởng Mỹ đầu tiên trong lịch sử  
thăm Myanma và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.  
Tháng 9-2013, sáng kiến về tham vấn chính thức liên quan đến Bộ quy tắc ứng  
xử các bên ở Biển Đông (COC) nhằm kiểm soát cách hành xử trên Biển Đông mang  
lại một cơ hội để cải thiện và nâng cao năng lực của các đồng minh và đối tác. Bộ  
Ngoại giao Mỹ cũng đã công bố gói trợ giúp hàng hải song phương và khu vực trị giá  
25  
32,5 triệu USD, trong đó có 18 triệu USD để cải thiện năng lực cho các đơn vị tuần tra  
duyên hải của Việt Nam, sẽ giúp nâng cao thực lực của các đối tác. Mỹ đang và sẽ tiếp  
tục trợ giúp các đồng minh và đối tác trong lĩnh vực này để tăng cường hợp tác khu  
vực trong lĩnh vực hàng hải. Một giải pháp ít tốn kém đang được giới chức Mỹ bàn  
thảo là đưa thêm các tàu khu trục nhỏ tới các quốc gia đối tác trong khu vực nhằm  
giúp các nước này tăng cường thực lực trên biển.  
Chuyến thăm 4 nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaixia và Philíppin (tháng 4-2014)  
của Tổng thống Mỹ được đánh giá là sự tái khẳng định chiến lược xoay trục của Mỹ.  
Trong chuyến đi này, Mỹ tuyên bố quần đảo tranh chấp trên biển Hoa Đông “nằm  
trong phạm vi bảo vệ của Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật”. Điều đó có nghĩa là các lực  
lượng Mỹ sẵn sàng đáp trả bất cứ sự đe dọa nào về quân sự nhằm vào Nhật Bản. Tại  
Hàn Quốc, vấn đề cốt lõi là Mỹ đồng ý hoãn việc chuyển giao Quyền chỉ huy thời  
chiến (OPCON) cho Hàn Quốc, trước đó được dự kiến vào tháng 12-2015. Động thái  
này thể hiện sự cam kết an ninh vững chắc của Mỹ dành cho Hàn Quốc trong bối cảnh  
căng thẳng đang tiếp tục leo thang trên bán đảo Triều Tiên. Nếu như với hai đồng  
minh truyền thống, các động thái của Mỹ nhằm củng cố lại sự hợp tác vững chắc đã  
được thiết lập từ nhiều năm, thì với Malaixia, việc nhất trí nâng cấp quan hệ song  
phương lên “quan hệ đối tác toàn diện” được xem là trang sử mới trong quan hệ không  
mấy gần gũi hàng thập kỷ qua giữa hai nước (lần đầu tiên một tổng thống đương  
nhiệm Mỹ đến Malaixia kể từ thời Giônxơn năm 1966).  
Mỹ tăng cường sự can dự vào các thể chế khu vực: tăng thêm một chức vụ Trợ lý  
Ngoại trưởng phụ trách các vấn đề đa phương trong Cục Đông Á-TBD, bổ nhiệm Đại  
sứ tại ASEAN, ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á(TAC), cử đại diện  
cấp nhà nước tới dự Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) và ở cấp ngoại trưởng tới  
dự Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF). Năm 2012, Ngoại trưởng Hillary Clinton cũng  
đã tham dự Diễn đàn các quốc đảo Thái Bình Dương (PIF) và là quan chức cấp cao  
nhất của Mỹ tham dự diễn đàn này từ trước tới nay.  
Mỹ theo đuổi một loạt các sáng kiến hợp tác với các thể chế đa phương châu  
Á,trong đó có các vấn đề năng lượng, y tế thông qua Sáng kiến Hạ lưu sông Mêkông  
(LMI), đầu tư và thương mại thông qua APEC, tăng trưởng kinh tế và biến đổi khí hậu  
thông qua ASEAN, tội phạm xuyên quốc gia và năng lượng sạch thông qua EAS. Mỹ  
đẩy mạnh và nhân rộng các sáng kiến mới được đề xuất tại diễn đàn APEC, chẳng hạn  
như lập quỹ tài trợ cải thiện tính liên tục của nguồn cung sản phẩm, thành lập Nhóm  
làm việc về minh bạch và chống tham nhũng. Bên cạnh đó, Mỹ sẽ tăng cường các nỗ  
lực hợp tác khu vực trong lĩnh vực cứu trợ nhân đạo, khắc phục thiên tai và tìm kiếm  
cứu hộ, chẳng hạn như trong vụ tìm kiếm máy bay mất tích tại Malaixia mới đây.  
Mỹ tích cực hợp tác với các nước tiểu vùng sông Mêkông; là quốc gia rất tích  
cực đưa ra các sáng kiến hợp tác với các nước vùng hạ lưu sông Mêkông. Điều này  
được giới nghiên cứu nhận thức như một sự trở lại khá linh hoạt và mềm dẻo của Mỹ ở  
khu vực Đông Nam Á. Họ nhìn nhận, đằng sau sự “quay trở lại” đó, còn là sự thể hiện  
vai trò không thể thiếu của nước Mỹ nhằm đối trọng với Trung Quốc tại khu vực Đông  
Nam Á nói chung và với tiểu vùng sông Mêkông nói riêng. Ngay trên tạp chí Foreign  
26  
Policy8-2010 (Mỹ), nhà nghiên cứu Jonh Lee nhận định: nếu Mỹ thực sự quan tâm  
đến việc tăng cường sự hiện diện của mình tại châu Á, Mỹ nên tập trung vào sông  
Mêkông vì nơi đây Mỹ gặt hái được nhiều lợi ích hơn.  
Tháng 7-2009, thông qua nhiều kênh khác nhau, phía Mỹ đề nghị tổ chức cuộc  
gặp giữa các Bộ trưởng Ngoại giao các nước hạ lưu Mêkông và Mỹ bên lề Hội nghị  
Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN và ARF. Lần đầu tiên Ngoại trưởng Mỹ công  
bố chính thức tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Phuket (Thái Lan) một “Sáng  
kiến Hạ lưu sông Mêkông” (US - Lower Mekong Initiative - LMI). Mục đích của sáng  
kiến là đẩy mạnh hợp tác, trợ giúp về môi trường, y tế, giáo dục và cơ sở hạ tầng của  
Mỹ đối với các nước thuộc hạ lưu sông Mêkông, bao gồm Thái Lan, Lào, Campuchia  
và Việt Nam. Các nước Mêkông đều bày tỏ hoan nghênh và quan tâm đến sáng kiến  
hợp tác và cho rằng sáng kiến này của Mỹ là kịp thời và bổ sung cho các cơ chế khác  
hiện có. Phía Mỹ đánh giá cao các nước ủng hộ và coi đây là một cuộc gặp mang tính  
lịch sử mở ra một cơ chế hợp tác mới. Mục tiêu địa - chính trị của sáng kiến này nằm  
trong chính sách “quay trở lại Đông Nam Á” của Mỹ, thể hiện vai trò đối trọng của  
Mỹ với Trung Quốc tại khu vực sông Mêkông. Đúng như lời khẳng định của Ngoại  
trưởng Hillary Clinton: Mỹ đang trở lại Đông Nam Á, và Mỹ hợp tác trọn vẹn với các  
đối tác trong khu vực này trong một loạt những thách thức đang đe dọa mọi người.  
Còn Thượng nghị sĩ Jim Webb thì khẳng định: “Mỹvà cộng đồng thế giới có một cam  
kết chiến lược và nghĩa vụ tinh thần nhằm bảo vệ sức khỏe và an sinh của cư dân sống  
phụ thuộc vào con sông Mêkông cùng với nguồn tài nguyên và nếp sống của họ.  
Để khẳng định sự có mặt của Mỹ tại khu vực hạ lưu Mêkông, ngay sau đó, một  
thông cáo có thể nói là chưa hề có từ trước tới nay giữa Mỹ và các nước Mêkông đã  
được ban bố rộng rãi liên quan tới những vấn đề quan tâm chung, đặc biệt là trong các  
lĩnh vực môi trường, y tế, giáo dục, và phát triển hạ tầng. Ngoại trưởng Mỹ đã nhấn  
mạnh tới tầm quan trọng của vùng hạ lưu sông Mêkông và mỗi quốc gia Mêkông đối  
với Mỹ, cùng với cam kết hỗ trợ nhằm bảo đảm hòa bình và thịnh vượng cho khu vực  
Đông Nam Á. Tại Hội nghị, các ngoại trưởng đã thảo luận sôi nổi về các lĩnh vực bao  
gồm ảnh hưởng biến đổi khí hậu và làm thế nào để đáp ứng có hiệu quả; phòng chống  
bệnh truyền nhiễm; mở rộng ứng dụng kỹ thuật cho giáo dục và đặc biệt quan tâm phát  
triển vùng nông thôn cũng như phát triển hạ tầng. Các Ngoại trưởng Thái Lan, Lào,  
Campuchia và Việt Nam cũng ghi nhận sự hợp tác chặt chẽ hơn của Mỹ với các nước  
hạ lưu Mêkông hiện nay nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững trong vùng. Sau những  
thảo luận chung đó, ngoại trưởng các nước đã xét duyệt những nỗ lực chung đang tiến  
hành, và đồng ý mở ra những lĩnh vực hợp tác mới. Để triển khai sáng kiến này, Mỹ  
cam kết tài trợ cho các lĩnh vực mà các nước lưu vực sông Mêkông đang thực sự khó  
khăn đó là: môi trường, y tế và giáo dục và phát triển cơ sở hạ tầng. Chương trình này  
kéo dài 3 năm nhằm giúp các nước ở lưu vực sông Mêkông triển khai chiến lược về  
các vấn đề cần thiết nêu trên, đặc biệt là nhằm đối phó với tác động do biến đổi khí  
hậu gây ra cho các nguồn nước và an ninh lương thực. Có thể nhận thấy, bước đầu,  
những khoản trợ giúp của Mỹ chưa lớn. Nguồn vốn này còn mang tính chất tượng  
trưng hơn là đầu tư thực sự tương xứng với tầm vóc của một cường quốc như Mỹ cũng  
27  
như nhu cầu của các nước lưu vực Mêkông. Do đó, khả năng “đối trọng” của Mỹ với  
Trung Quốc ngay tại lưu vực Mêkông cũng chưa được như mong muốn của chính  
quyền Mỹ, nhất là khi Trung Quốc lại đang ở thế “thượng phong” trong khu vực này  
Về vấn đề dân chủ - nhân quyền, một mặt, Mỹ khẳng định không thể và không  
muốn áp đặt hệ thống giá trị của Mỹ lên các nước khác, mặt khác, Mỹ lại cho rằng, có  
những giá trị nhất định mang tính phổ biến mà các nước cần tôn trọng. Mỹ tiếp tục  
thúc giục các nước tiến hành cải cách chính trị, tiếp tục truyền bá, cổ súy giá trị dân  
chủ - nhân quyền thông qua việc nêu đậm nội dung dân chủ - nhân quyền trong thúc  
đẩy các mối quan hệ song phương. Ví dụ, sau những cải cách dân chủ ở Myanma, Mỹ  
xem Myanma là biểu tượng thành công của tiến trình dân chủ hóa như nới lỏng cấm  
vận với Myanma thông qua việc Tổng thống Obama thăm Myanma ngay sau khi đắc  
cử. Ngoài việc ủng hộ các nhóm chống đối mang danh “các nhà hoạt động dân chủ” ở  
Trung Quốc, Việt Nam, Mỹ tiếp tục đầu tư vào các tổ chức phi chính phủ liên quan  
nhân quyền, nhân đạo, gắn vấn đề dân chủ - nhân quyền với các vấn đề kinh tế, phát  
triển, lệnh cấm bán vũ khí trong quan hệ với nhiều nước ở khu vực.  
Về hợp tác ứng phó biến đổi khí hậu, Mỹ tích cực tham gia vào các hành động  
đối phó biến đổi khí hậu nhằm cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Tổng  
thống Obama đã đưa ra chính sách mới toàn diện nhằm chống lại tác động của tình  
trạng biến đổi khí hậu toàn cầu, để đẩy mạnh nỗ lực phát triển năng lượng sạch, và gia  
tăng hiệu suất năng lượng của máy móc cũng như các tòa nhà. Mỹ đi đầu ủng hộ  
Tuyên bố Majuro - Hiệp ước mới của khu vực Thái Bình Dương, thành lập Quỹ Thái  
Bình Dương - Mỹ nhằm hỗ trợ các quốc đảo Thái Bình Dương dễ bị ảnh hưởng bởi  
vấn đề mực nước biển dâng cao. Hiện Mỹ đang tài trợ 24 triệu USD trong thời hạn 5  
năm cho các dự án tại “các cộng đồng duyên hải dễ bị ảnh hưởng” trong khu vực.  
3. Đánh giá kết quả của chiến lược xoay trục thời Tổng thống Obama  
Nhng kết qucủa chính sách này được cho là không nht quán. Rõ ràng, chính  
sách xoay trccủa nước Mỹ đạt kết qutốt hơn ở Đông Bắc Á - nơi Nhật Bn và Hàn  
Quc không còn công khai bày thoài nghi vnhng cam kết đảm bo an ninh ca  
Mna. Cả hai nước vn còn lo ngi vmối đe dọa đến tTriều Tiên cũng như tham  
vng ca Trung Quc. Tuy nhiên, những hành động ca M- trong đó có tuyên bố ca  
ông Obama tái khẳng định rng quần đảo Senkaku (Trung Quc gọi là Điếu Ngư) nằm  
trong hiệp ước an ninh M- Nhật đã giúp Wasinhton ghi điểm ti khu vc. Và vic  
nn kinh tế Trung Quốc đột nhiên long chong” sau 30 năm tăng trưởng ngon mc  
đã làm giảm bt nhng nghi ngi vthách thc ca Bắc Kinh đối vi trt tca khu  
vc.  
Tuy nhiên, ở Đông Nam Á, chính sách xoay trục ca Mỹ chưa đạt được kết quả  
như mong muốn. Nếu như ở Đông Bắc Á, Mhành xử như một đồng minh thì ở Đông  
Nam Á, Mcó cách hành xthiên về hướng mt nhà kiến to hòa bình. Skhác bit  
này chyếu được thhin qua cách tiếp cn ca Mỹ đối vi nhng tranh chp lãnh  
th. Mỹ không đưa ra quan điểm trước nhng tuyên bchquyn khác nhau trên vùng  
Biển Đông, và thường xuyên to ấn tượng rằng nước này không ng hcả đồng minh  
lẫn đối tác ca họ ở Đông Nam Á trong các cuộc tranh chp gia những nước này vi  
28  
Trung Quc. Và nhng tranh chp này có lstiếp tc dai dng cho dù nn kinh tế  
Trung Quốc đang bị chao đảo.  
Về phương diện đảm bo an ninh, cMlẫn các nước Đông Nam Á đều đang ở  
thế "đi trên dây". Các nước Đông Nam Á muốn có cảm giác được đảm bo rng Msẽ  
ng hh, song li không mun blôi kéo vào cuộc xung đột gia Mvà Trung Quc.  
Còn Wasinhton cũng rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan tương tự: Mmuốn các đồng  
minh ca mình có cảm giác được bo vệ, song cũng không muốn blôi kéo vào các  
cuộc xung đột không cn thiết. Do đó, nước Mbging xé gia nhng mc tiêu khác  
nhau.  
Mcn phi thhin rõ quyết tâm duy trì trt tan ninh hin nay ti khu vc  
mt cách mnh mgiống như Trung Quốc muốn thay đổi trt tự đó. Nước Mcn  
phải huy động các cường quốc đang nổi lên ti châu Á tham gia duy trì trt tlâu nay -  
mt trt tsvẫn đem lại cho khu vc sự ổn định, tdo và thịnh vượng. Cthể, nước  
Mỹ đang tìm kiếm mt Ấn Độ có trách nhiệm hơn, một Indonesia có trách nhiệm hơn  
và mt Australia có trách nhiệm hơn. Với ý nghĩa như vậy, "chính sách xoay trc"  
không phi là công cụ để khôi phc vthế vượt tri ca Mti khu vc thi knhng  
năm 1990. Thay vào đó, nó là một cơ chế để to thi gian cho sni lên ca mt lot  
cường quc tích cc tham gia gii quyết các vấn đề khu vc.  
Tng thng mi ca MDonald Trump nhm chc vào ngày 20/1/2017, trong  
bi cnh hết sc thun lợi, được chai viện (Thượng vin và Hvin) ng h, stiếp  
tc thực thi chính sách “Xoay trục sang CA-TBD” mà Tổng thng tin nhim Barack  
Obama đã công bố từ năm 2011. Bản thân chiến lược “xoay trục này” đã phản ánh tm  
quan trng ca khu vc CA-TBD trong nn kinh tế toàn cu và chính trquc tế cũng  
như trong chính sách đối ngoi ca M. Tuy nhiên, là một thương gia làm chính trị,  
với tư tưởng đề cao tinh thần “chấn hưng nước Mỹ”, lấy li ích Mlàm tiền đề, vì vy,  
các cách ng xử và phương thức hành động ca Tng thng D. Trump khi cm quyn  
scó nhng khác bit nhất định với người tin nhim. Vi tinh thn xuyên sut là vì  
lợi ích nước M, vì sự lãnh đạo thế gii ca M, Tng thng D. Trump svn tiếp tc  
thực thi chính sách “xoay trục” nhưng với cách làm mới và phương pháp mới. Vấn đề  
Biển Đông vẫn slà mt trong nhng trọng điểm trong chính sách “xoay trục” của  
M. Scnh tranh chiến lược ca Mvi Trung Quc Biển Đông sẽ din ra trong  
tình trạng “vừa hp tác, vừa đấu tranh”, nhưng mặt cạnh tranh, đấu tranh smạnh hơn  
nhiu, thm chí gay gắt hơn.  
Là mt quc gia khu vc Châu Á – Thái Bình Dương, Vit Nam dù mun hay  
không cũng chịu tác động bởi chính sách “xoay trục” của M. Tthc tế đó đặt ra yêu  
cu trong chính sách ngoi giao vi Mỹ làm sao để va givững được nền độc lp tự  
chvà bo vtoàn vn chquyn lãnh th, lãnh hi ca Tquc, vừa không để xy ra  
xung đột, chiến tranh givững môi trường hoà bình ổn định để phát trin. Chính sách  
ngoại giao đúng đắn của chúng ta là “ba không”: không liên minh quân sự, không căn  
cquân svà không sdng quan hệ song phương nhắm vào nước thba. Vi nhng  
gì đã diễn ra trong quá kh, chúng ta hiểu rõ được nhng hlụy đáng ngại ca nhng  
liên minh quân skiu này. Trong bi cnh quan hquc tế ở khu vc đầy bt n cha  
29  
đựng nhiu yếu tố khó lường, để đảm bo an ninh quc gia, mt mt phải tăng cường  
ni lực đất nước, mt khác phi tranh thsc mnh của xu hướng thời đại, đẩy mnh  
đấu tranh trên mt trn ngoi giao.  
Trong quan hVit - M, Vit Nam cn tiếp tc thc hin chính sách nht quán  
là hướng ti xây dng quan hệ đối tác chiến lược, nht là vkinh tế, tôn trng và n  
định vchính trvà hp tác van ninh, hai bên cùng có li. Vic tăng cường và thúc  
đẩy quan hvi Mlên tm cao mi sto rani lc kinh tế phát trin, nâng cao vthế  
ca Vit Nam trong khu vc và trên thế gii. Vit Nam cần tăng cường trao đổi, hc  
hi kinh nghiệm trong các lĩnh vực khác nhau ca M. Vit Nam cần tăng cường hp  
tác vi Mỹ trong các lĩnh vực như kinh tế và thương mại, khuyến khích các công  
ty,doanh nghip Mỹ đầu tư tại Vit Nam nht là về thăm dò và khai thác dầu khí, hc  
hi kinh nghiệm trong lĩnh vực an ninh hàng hi. Việt Nam cũng cần tranh thvai trò  
và tiếng nói ca Mtrong các diễn đàn đa phương, trong việc ng hASEAN vvn  
đề Biển Đông, nhằm đa phương hóa, quốc tế hóa vấn đề Biển Đông.  
Vit Nam cn kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng vi Mvnhng vn  
đề như lợi dng chiêu bài tdo ngôn lun, tôn giáo, dân chvà nhân quyền để công  
kích chế độ, tiến hành “diễn biến hòa bình” để to ra sbt n trong xã hi Vit Nam,  
chia rquan hgiữa Đảng Cng sn và nhân dân Vit Nam. Tuy nhiên, trong các vn  
đề cth, Vit Nam cn chủ động, khéo léo, linh hot, mm mng và kiên quyết; tránh  
để Mli dng làm quân tt phc vụ mưu đồ chống phá nước khác. Vit Nam cn chủ  
động và tăng cường trong đối ngoi quân sự để không bị động trước các động thái ca  
M.  
Chúng ta luôn phi cnh giác vì mc tiêu lâu dài ca Mlà lật đổ các nước xã hi  
chủ nghĩa, lật đổsự lãnh đạo của các Đảng Cng sn, phủ định hình thái ý thc ca chủ  
nghĩa Mác - Lênin, duy trì thng nht theo chủ nghĩa tư bản. Đảng ta đã chủ trương  
“kết hp cht chquá trình hi nhp kinh tế quc tế vi yêu cu givng an ninh,  
quc phòng, thông qua hi nhập để tăng cường sc mnh tng hp ca quc gia, nhm  
cng cchquyn và an ninh của đấn nước, cnh giác vi những mưu toan thông qua  
hi nhập để thc hiện ý đồ “Diễn biến hòa bình” đối với nước ta” [14]. Cn cnh giác  
vi mi quan hgia Mvà Trung Quốc để tránh rơi vào tình huống xu, nht là các  
nước ln vì li ích ca mình mà tha hip xâm hi li ích ca Vit Nam. Vit Nam cn  
có sự đoàn kết ni btt, phát huy cao độ khối đại đoàn kết cộng đồng Việt Nam, tăng  
cường sc mnh tng hp quc gia, tranh thtối đa sức mnh quc tế, sc mnh thi  
đại, shtrcủa các cơ quan công quyền quc tế, dựa trên cơ sở công pháp quc tế  
để bo vvng chắc độc lp dân tc, chquyn quc gia, không ngng nâng cao vị  
thế ở khu vc và trên thế gii. Vit Nam cn chủ động đối thoi, khuyến khích xu  
hướng mong mun duy trì, phát trin quan hvi Vit Nam ca M; tranh thrng rãi  
chính gii, doanh nghip, các tng lp xã hi, hn chế schng phá ca gii cực đoan  
Mỹ; xác định khuôn khquan hệ ổn định vi M.  
4. Kết luận  
Như vậy, chiến lược của Mỹ đối với CATBD sau Chiến tranh lạnh là bộ phận  
quan trọng trong chiến lược toàn cầu của chính quyền Mỹ, mà mục tiêu xuyên suốt,  
30  
nhất quán là sử dụng ưu thế về kinh tế, chính trị, quân sự, giành quyền bá chủ khu vực  
và thế giới. Đây là một trong những nhân tố quan trọng làm cho quan hệ giữa các nước  
lớn và cuộc cạnh tranh chiến lược giữa các nước này ở khu vực càng gay gắt, quyết  
liệt trên tất cả các lĩnh vực chiến lược về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối  
ngoại. Các nước trong khu vực CATBD cần hết sức quan tâm, theo dõi và có những  
điều chỉnh chính sách thích hợp, gắn phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố  
quốc phòng, an ninh, xây dựng quân đội tinh nhuệ, hiện đại, đủ sức bảo vệ vững chắc  
độc lập, tự chủ, an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ đất nước trong mọi tình huống.  
Đồng thời, tăng cường, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong cuộc đấu tranh chống  
các mối đe dọa chung, vì mục tiêu xây dựng khu vực CATBD và thế giới hòa bình,  
hợp tác và phát triển.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
[1]. Phan Doãn Nam (2009), Về chính sách đối ngoại của chính quyền Obama,  
Cộng sản, số 797 (3).  
[2]. Phan Duy Khoa (2017), Những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành chính  
sách hướng Đông của Ấn Độ, Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm  
học 2017 – 2018, Khoa sư phạm Sử - Địa & GDCT, Trường Đại học Đồng Tháp, tr  
5,6.  
[3]. Nhiu tác gi(2012), Vit Nam vi tiến trình hi nhp kinh tế quc tế, Nxb.  
Thng kê, tr.7.  
[4]. TTXVN (2006), Mỹ với Đông Á và Inđônêxia, Tài liệu tham khảo đặc biệt,  
ngày 18-01.  
[5]. TTXVN (2006), Ảnh hưởng của sự kiện 11-9 đối với sự cân bằng chiến lược  
châu Á Thái Bình Dương, Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 11-6.  
[6]. Tình hình chính trị - quân sự ở Đông Nam Á và khu vực châu Á Thái Bình  
Dương, Sự kiện và nhân vật nước ngoài, số 1-2004.  
[7]. Tạp chí Lý luận chính trị, số 3/2015  
[8]. Vũ Lê Thái Hoàng (2012), Sức mạnh thông minh, thế kỷ Thái Bình Dương và  
học thuyết đối ngoại Obama.  
[9]. Lê Minh Quang, Chiến lược ca mt số nước lớn đối vi khu vc châu Á -  
ngày: 01/3/2019].  
[10]. Nguyễn Trần Lê, Từ “xoay trục” đến “tái cân bằng” - câu hỏi về một chính  
sách. Kcuối: Ý đồ xuyên sut ca Obama. http://www.baobariavungtau.com.vn/the-  
xuyen-suot-cua-obama-543841/, [truy cập ngày: 01/3/2019].  
[11]. Nguyn ThQuế, Nguyn ThThúy Chiến lược xoay trc, tái cân bng ca  
Mỹ đối vi châu Á - Thái Bình Dương, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/quoc-  
duong.html, truy cập ngày: 01/3/2019].  
31  
[12]. Nguyn Viết, Chiến lược “xoay trục” của M: Du ấn 5 năm và trắc trở  
va-trac-tro-truoc-mat-20161101074426602.htm, truy cập ngày: 01/3/2019].  
Trần Quang, Đánh giá chiến lược tái cân bng ca Mti châu Á - Thái Bình  
Dương”,  
[13]. Trần Thị Quỳnh Nga, Vấn đê biển Đông trong chính sách châu Á - Thái  
Bình Dương của Mtsau Chiến tranh Lnh, http://nghiencuubiendong.vn/nghien-  
cua-my-sau-chien-tranh-lanh, [truy cập ngày: 01/3/2019].  
[14]. Trần Quang, Đánh giá chiến lược tái cân bng ca Mti châu Á - Thái  
01/3/2019].  
[truy  
cập  
ngày:  
32  
pdf 12 trang Thùy Anh 13/05/2022 2420
Bạn đang xem tài liệu "Chiến lược xoay trục châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ dưới thời tổng thống Barack Obama (2011- 2016)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfchien_luoc_xoay_truc_chau_a_thai_binh_duong_cua_my_duoi_thoi.pdf