Về vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài và xác định nội dung pháp luật nước ngoài ở Việt Nam hiện nay

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA  
PHÁP LUẬT KINH DOANH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP  
18.  
VỀ VẤN ĐỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI  
VÀ XÁC ĐỊNH NỘI DUNG PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI  
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY  
ThS.Trần Thị Nguyệt(*)  
Tóm tắt  
Pháp luật nước ngoài không thực sự quen thuộc với thẩm phán Việt Nam. Khi vấn  
đề áp dụng pháp luật nước ngoài được đặt ra, dù là do đương sự hay do chính Tòa  
án khởi xướng, thì Tòa án cũng phải giải quyết các vấn đề: Ai chịu trách nhiệm xác  
định nội dung của pháp luật nước ngoài; Nội dung pháp luật nước ngoài được xác  
định như thế nào. Bài viết này tập trung làm sáng tỏ thể thức việc áp dụng pháp luật  
nước ngoài với các vấn đề căn bản tại sao phải áp dụng pháp luật nước ngoài, việc  
xác định nội dung pháp luật nước ngoài, các trường hợp và các yêu cầu khi áp dụng  
pháp luật nước ngoài.  
Từ khóa: Pháp luật nước ngoài; Áp dụng pháp luật nước ngoài; Xác định luật  
nước ngoài.  
(*) Trường Đại học Kinh tế quốc dân  
Email: nguyettt@neu.edu.vn  
216  
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA  
PHÁP LUẬT KINH DOANH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP  
1. ĐẶT VẤN ĐỀ  
Áp dụng pháp luật nước ngoài là một trong những vấn đề quan trọng và nhạy  
cảm, đòi hỏi được nghiên cứu sâu sắc, ngày càng có ý nghĩa xã hội và pháp lý trong  
bối cảnh hội nhập sâu rộng hiện nay. Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại  
Việt Nam luôn là một vấn đề phức tạp và khó khăn. Bài viết này nhằm nêu rõ những  
vướng mắc, khó khăn trong việc áp dụng pháp luật nước ngoài điều chỉnh các quan hệ  
dân sự có yếu tố nước ngoài ở tòa án và trọng tài của Việt Nam hiện nay.  
2. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT  
NƯỚC NGOÀI  
1.1. Bản chất pháp lý của các quan hệ xã hội trong Tư pháp quốc tế là các quan  
hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài ở đây được xem xét và kết luận  
dựa vào một trong ba tiêu chí:  
Hoặc là căn cứ vào chủ thể: hai bên không cùng quốc tịch hoặc ít nhất một bên là  
người Việt Nam định cư ở nước ngoài.  
Hoặc là căn cứ vào khách thể: Khách thể của mối quan hệ dân sự đó ở nước ngoài;  
Hoặc là căn cứ vào sự kiện pháp lý làm xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ dân  
sự xảy ra ở nước ngoài.  
Xuất phát từ các mối quan hệ xã hội dân sự có tính chất như thế cho nên khi giải  
quyết các mối quan hệ này nếu không có các quy phạm pháp luật thực chất thống nhất  
trực tiếp điều chỉnh thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền bắt buộc phải sử dụng các  
quy phạm pháp luật xung đột.  
Áp dụng quy phạm pháp luật xung đột là một trong các phương pháp đặc thù và  
phổ biến trong Tư pháp quốc tế. Thừa nhận quy phạm pháp luật xung đột cũng là thừa  
nhận việc có thể phải áp dụng pháp luật nước ngoài ở một mức độ nhất định được  
thừa nhận ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.1  
1.2. Việc áp dụng pháp luật nước ngoàilà một nhu cầu khách quan, tất yếu trong  
quan hệ quốc tế nhằm đảm bảo lợi ích của nhà nước áp dụng, đảm bảo quyền lợi của  
các bên tham gia quan hệ và để thúc đẩy mối quan hệ giữa các quốc gia trong quan  
hệ quốc tế. Trong nhiều trường hợp, việc áp dụng pháp luật nước ngoài là phương án  
1 Trường Đại học Pháp lý, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 1992, trang 52.  
217  
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA  
PHÁP LUẬT KINH DOANH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP  
hợp lý nhất có thể đảm bảo trọn vẹn lợi ích mọi khía cạnh2. Nhìn vào tình huống minh  
họa dưới đây, ta sẽ thấy rõ việc áp dụng pháp luật nước ngoài thực sự xuất phát từ đòi  
hỏi của thực tế khách quan đó. Giả sử hai công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài kết  
hôn với nhau theo những điều kiện và nghi thức kết hôn do pháp luật nước sở tại quy  
định. Về điều kiện kết hôn thì giữa pháp luật của nước đó và pháp luật của Việt Nam  
không có gì mâu thuẫn. Nhưng về nghi thức, kết hôn thì có sự khác biệt giữa hai hệ  
thống pháp luật này. Và đương sự đã kết hôn theo nghi thức tôn giáo, phù hợp với quy  
định của pháp luật nước sở tại. Vấn đề đặt ra là việc kết hôn đó có được thừa nhận tại  
Việt Nam hay không. Nếu căn cứ vào pháp luật Việt Nam thì việc kết hôn đó trái pháp  
luật Việt Nam về nghi thức kết hôn. Bởi việc kết hôn ở Việt Nam theo nghi thức dân  
sự tức là việc kết hôn phải được tiến hành trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì  
thế, việc kết hôn theo nghi thức tôn giáo trên sẽ không được công nhận ở Việt Nam.  
Thế nhưng cuộc hôn nhân này hoàn toàn phù hợp với pháp luật nơi cuộc kết hôn diễn  
ra. Vì vậy nó cần phải được thừa nhận để đảm bảo lợi ích cho các bên cũng như tôn  
trọng ý chí của các bên và nhà nước nước ngoài. Nếu công nhận việc kết hôn này thì  
tức là Việt Nam đã thừa nhận áp dụng pháp luật nước ngoài, mà cụ thể ở đây là pháp  
luật nước nơi tiến hành kết hôn. Xét thấy, nếu thừa nhận việc kết hôn này thì không  
những không ảnh hưởng gì đến pháp luật Việt Nam vì bản chất quan hệ là một cuộc  
hôn nhân đúng nghĩa. Việc áp dụng pháp luật nước ngoài không trái nguyên tắc cơ bản  
của pháp luật Việt Nam. Vì vậy, cuộc kết hôn này được pháp luật Việt Nam công nhận  
với căn cứ pháp lý đó là nó đã phù hợp với pháp luật nước nơi tiến hành kết hôn, hay  
phù hợp với pháp luật nước ngoài.  
Một căn cứ nữa của việc áp dụng pháp luật nước ngoài là pháp luật nước ngoài  
chỉ được áp dụng trên cơ sở của sự quy định của các quy phạm pháp luật xung đột  
do pháp luật quốc gia hoặc Điều ước quốc tế mà quốc gia đã tham gia dẫn chiếu đến.  
3. CÁC TRƯỜNG HỢP ÁP DỤNG PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI  
Việc áp dụng pháp luật nước ngoài như trên đã phân tích là một điều tất yếu trong  
khi giải quyết các vụ việc của Tư pháp quốc tế. Tuy vậy, việc áp dụng pháp luật nước  
ngoài luôn phải đảm bảo độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và bảo đảm trật tự  
pháp luật quốc gia. Việc áp dụng pháp luật nước ngoài cũng chỉ được thực hiện trong  
các trường hợp nhất định. Và trong các trường hợp đó thì việc áp dụng pháp luật nước  
2 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Hà Nội, Nhà xuất bản Tư pháp, 2017.  
218  
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA  
PHÁP LUẬT KINH DOANH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP  
ngoài là nghĩa vụ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của đương sự, chứ không phải  
là nên áp dụng hay biết thì áp dụng, không biết thì không áp dụng. Các trường hợp  
phải áp dụng pháp luật nước ngoài đó là:  
3.1. Phải áp dụng pháp luật nước ngoài khi quy phạm pháp luật xung đột  
thông thường dẫn chiếu đến  
Quy phạm pháp luật xung đột là quy phạm ấn định luật pháp nước nào cần phải  
áp dụng để điều chỉnh quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài trong một tình  
huống cụ thể. Như vậy, quy phạm pháp luật xung đột là quy phạm dẫn chiếu luật hoặc  
quy phạm chọn luật áp dụng. Vì thế, khi quy phạm pháp luật xung đột dẫn chiếu đến  
thi pháp luật nước ngoài phải được áp dụng. Có như vậy thì hiệu lực của quy phạm  
mới được tôn trọng và pháp luật mới được thực thi theo đúng quy định, bởi quy phạm  
pháp luật xung đột thông thường là quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành ra.  
Pháp luật nước ngoài khi được quy phạm pháp luật xung đột thông thường dẫn  
chiếu đến cần được hiểu là toàn bộ hệ thống pháp luật nước ngoài bao gồm cả các quy  
phạm pháp luật thực chất lẫn các quy phạm pháp luật xung đột. Nên khi quy phạm  
pháp luật xung đột thông thường dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài sẽ có thể dẫn đến  
dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba.  
3.2. Phải áp dụng pháp luật nước ngoài khi quy phạm pháp luật xung đột  
thống nhất dẫn chiếu đến  
Giống như quy phạm pháp luật xung đột thông thường, các quy phạm pháp luật  
xung đột thống nhất dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài thì phải áp dụng pháp luật  
nước ngoài, bởi quỵ phạm pháp luật xung đột thống nhất tuy không do Nhà nước xây  
dựng nên nhưng do các Nhà nước thỏa thuận xây dựng nên trong các Điều ước quốc  
tế song phương hoặc Điều ước quốc tế đa phương, hoặc do Nhà nước chấp thuận tham  
gia bằng cách gia nhập các điều ước quốc tế đa phương. Tuy nhiên, ở đây có một sự  
khác biệt hết sức quan trọng giữa sự dẫn chiếu của quy phạm pháp luật xung đột thông  
thường và quy phạm pháp luật xung đột thống nhất, đó là pháp luật nước nào được  
quy phạm pháp luật thống nhất dẫn chiếu đến thì chỉ có nghĩa là phần luật thực định  
của pháp luật nước đó chứ không phải là toàn bộ hệ thống pháp luật của nước đó bao  
gồm cả quy phạm xung đột như khi quy phạm pháp luật xung đột thông thường dẫn  
chiếu đến. Vì vậy, đối với quy phạm pháp luật thống nhất khi dẫn chiếu luật không xảy  
219  
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA  
PHÁP LUẬT KINH DOANH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP  
ra hiện tượng dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba3..  
3.3. Phải áp dụng pháp luật nước ngoài khi các bên trong hợp đồng không  
thỏa thuận lựa chọn được áp dụng và lúc này, cơ quan nhà nước có thẩm  
quyền xác định luật áp dụng cho hợp đồng là hệ thống pháp luật có mối liên  
hệ gắn bó nhất.  
Thông thường, việc xác định pháp luật áp dụng để điều chỉnh quan hệ dân sự có  
yếu tố nước ngoài sẽ cho quy phạm pháp luật xung đột, hoặc do các đương sự thỏa  
thuận lựa chọn khi được phép. Tuy nhiên, nếu các trường hợp trên đã được xem xét  
mà vẫn không xác định được pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước có mối liên hệ  
gắn bó nhất sẽ được viện dẫn để áp dụng. Đây chính là 1 giải pháp nữa đã được áp  
dụng. Quốc hội (2015) đã quy định vhợp đồng tại Điều 683 Bộ luật Dân sự Việt Nam  
2015:“Trường hợp các bên không có thỏa thuận về pháp luật áp dụng thì pháp luật  
của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp dụng”. Cơ quan nhà  
nước có thẩm quyền giải quyết vụ việc sẽ có trách nhiệm xác định pháp luật có mối  
quan hệ gắn bó nhất hay pháp luật nơi có mối liên hệ mật thiết nhất. Nếu pháp luật có  
mối quan hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự có yếu tố nhà nước này là pháp luật nước  
ngoài thì dứt khoát pháp luật nước ngoài sẽ được áp dụng. Truyền thống này đã có ở  
nhiều quốc gia và đây là một quy định mới của Tư pháp quốc tế Việt Nam nhằm đảm  
bảo sẽ luôn xác định được pháp luật áp dụng để giải quyết vụ việc.  
4. CÁC YÊU CẦU KHI ÁP DỤNG PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI  
Quốc hội (2015) cũng đã quy định về áp dụng pháp luật nước ngoài tại Điều 667  
Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015 như sau: “Trường hợp pháp luật nước ngoài được  
áp dụng nhưng có cách hiểu khác nhau thì việc áp dụng phải theo sự giải thích của  
cơ quan có thẩm quyền tại nước đó”. Ở đây, pháp luật nước ngoài khi được áp dụng  
cần phải tuân thủ các nguyên tắc nhất định. Bởi pháp luật nước ngoài được xây dựng  
trên cơ sở lý luận và thực tiễn của xã hội nước ngoài, vì vậy pháp luật nước ngoài sẽ  
phản ánh ý chí cũng như các điều kiện vật chất của xã hội nước ngoài đó. Khi áp dụng  
pháp luật nước ngoài mà nước áp dụng không đặt pháp luật nước ngoài trong bối cảnh  
chung, trong hệ thống thống nhất của nước ngoài thì sẽ làm sai lệch pháp luật nước  
ngoài. Như vậy để đảm bảo pháp luật nước ngoài thực sự là pháp luật nước ngoài chứ  
không phải pháp luật được giải thích theo ý chí chủ quan của người áp dụng, yêu cầu  
3 Vũ ị Phương Lan, Xung đột pháp luật, Giáo trình Tư pháp quốc tế - Trường Đại học Luật Hà Nội, 2017  
220  
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA  
PHÁP LUẬT KINH DOANH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP  
pháp luật nước ngoài phải được áp dụng một cách đầy đủ, đảm bảo pháp luật nước  
ngoài được áp dụng và giải thích như nó được áp dụng và được giải thích ở nước đã  
ban hành ra nó.  
5. XÁC ĐỊNH NỘI DUNG PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI  
Xác định nội dung pháp luật nước ngoài để áp dụng không phải một công việc  
đơn giản. Bởi như đã phân tích ở trên, viêc áp dụng pháp luật nước ngoài phải được  
áp dụng và giải thích nó được áp dụng nhưng có cách giải thích ở quốc gia được ban  
hành ra nó. Trường hợp pháp luật nước ngoài được áp dụng nhưng có cách hiểu khác  
nhau thì việc áp dụng phải theo sự giải thích của cơ quan có thẩm quyền tại nước đó.  
Một vấn đề khó khăn mà các cơ quan có thẩm quyền và các bên đương sự gặp phải khi  
áp dụng pháp luật nước ngoài đó là phải xác định pháp luật nước ngoài như thế nào,  
ai là người có trách nhiệm tìm hiểu và xác định pháp luật nước ngoài để việc áp dụng  
pháp luật nước ngoài đáp ứng được yêu cầu như đã nêu ở trên.  
Tại một số quốc gia, pháp luật nước ngoài được như chứng cứ. Nghĩa là áp dụng  
pháp luật nước ngoài hay không áp dụng pháp luật nước ngoài, đương sự phải thuyết  
phục cơ quan nhà nước về sự phù hợp của pháp luật nước ngoài đó. Điều này đặt lên  
vai đương sự một trọng trách rất nặng nề. Nếu không chứng minh được điều đó thì  
cơ quan nhà nước có quyền suy luận pháp luật nước ngoài giống như pháp luật nước  
mình, và sẽ áp dụng pháp luật nước mình. Tại Việt Nam, việc xác định áp dụng pháp  
luật nước ngoài lần đầu tiên được quy định cụ thể tại Điều 481 Bộ luật Tố tụng dân sự  
2015. Đây là một quy định hoàn toàn mới. Theo đó, trường hợp Tòa án Việt Nam áp  
dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài theo quy  
định của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, thì trách  
nhiệm xác định và cung cấp pháp luật nước ngoài được thực hiện như sau:  
Trường hợp đương sự được quyền lựa chọn pháp luật áp dụng là pháp luật nước  
ngoài và đã lựa chọn áp dụng pháp luật nước ngoài đó thì có nghĩa vụ cung cấp pháp  
luật nước ngoài đó cho Tòa án đang giải quyết vụ việc. Các đương sự chịu trách nhiệm  
về tính chính xác và hợp pháp của pháp luật nước ngoài đã cung cấp. Nếu các đương  
sự không thống nhất được với nhau về pháp luật nước ngoài hoặc trong trường hợp  
cần thiết, Tòa án yêu cầu Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, cơ quan đại diện của quốc gia  
Việt Nam tại nước ngoài hoặc thông qua Bộ Ngoại giao đề nghị cơ quan đại diện ngoại  
giao của nước ngoài tại Việt Nam cung cấp pháp luật nước ngoài.  
221  
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA  
PHÁP LUẬT KINH DOANH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP  
Trường hợp pháp luật Việt Nam, Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên  
quy định phải áp dụng pháp luật nước ngoài thì đương sự có quyền cung cấp pháp luật  
nước ngoài cho Tòa án hoặc Tòa án yêu cầu Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao hoặc cơ quan  
đại diện Việt Nam ở nước ngoài cung cấp pháp luật nước ngoài.  
Tòa án có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có chuyên môn về pháp luật nước  
ngoài cung cấp thông tin về pháp luật nước ngoài.  
Hết thời hạn 6 tháng kể từ ngày Tòa án yêu cầu cung cấp pháp luật nước ngoài  
theo quy định trên mà không có kết quả thì Tòa án áp dụng pháp luật Việt Nam để giải  
quyết vụ việc dân sự đó.  
Như vậy, trong trường hợp pháp luật nước ngoài do các bên lựa chọn thì việc xác  
định pháp luật nước ngoài trước hết thuộc về trách nhiệm của các bên tham gia quan  
hệ đó. Bởi vậy áp dụng pháp luật nước ngoài cuối cùng cũng là để đảm bảo lợi ích của  
các đương sự, nên họ không thể đứng ngoài công việc này. Hơn nữa đây lại là trường  
hợp luật do chính các bên lựa chọn nên họ trước khi chọn ít nhiều cũng đã tìm hiểu và  
biết về nội dung pháp luật nước ngoài. Vì vậy cũng không quá khó khăn cho các bên  
khi cung cấp về nội dung pháp luật nước ngoài. Thêm vào đó, để đảm bảo tính chính  
thống thì phần cung cấp nội dung pháp luật nước ngoài của các đương sự sẽ được Tòa  
án chấp nhận nếu đã có sự thẩm định của Bộ Tư pháp.  
Trong trường hợp việc áp dụng pháp luật nước ngoài là do sự dẫn chiếu của quy  
phạm pháp luật xung đột trong nước hoặc quy phạm pháp luật xung đột thống nhất  
trong các Điều ước quốc tế dẫn chiếu đến, không phải do các bên thỏa thuận, thì việc  
xác định pháp luật nước ngoài thuộc về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước mà cụ  
thể là Tòa án và Bộ Tư pháp.  
Bởi việc áp dụng pháp luật nước ngoài lúc này là do pháp luật quy định nên cơ  
quan có thẩm quyền phải tuân thủ sự quy định đó và để tuân thủ được thì cơ quan nhà  
nước sẽ phải tự mình xác định pháp luật nước ngoài.  
Nếu khi đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết mà vẫn không xác định được nội  
dung của pháp luật nước ngoài để áp dụng thì Tòa án sẽ áp dụng pháp luật Việt Nam  
để giải quyết vụ việc. Lúc này, pháp luật Việt Nam được áp dụng với tư cách là pháp  
luật của nước có Tòa án hay nguyên tắc Lex fori đã được sử dụng.  
222  
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA  
PHÁP LUẬT KINH DOANH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP  
5. KẾT LUẬN  
Áp dụng pháp luật nước ngoài là một trong những vấn đề quan trọng và có ý  
nghĩa trong giao lưu quốc tế. Việc áp dụng pháp luật nước ngoài xuất phát từ đòi hỏi  
của thực tiễn khách quan. Việc xác định nội dung pháp luật nước ngoài để giải quyết  
tranh chấp dân sự quốc tế đóng vai trò quan trọng đối với Tòa án. Bài viết đã cố gắng  
phân tích sâu sắc vấn đề này nhằm giúp cán bộ Tòa án thuận tiện hơn khi vấn đề áp  
dụng pháp luật nước ngoài được đặt ra trong khi họ giải quyết các vụ việc dân sự có  
yếu tố nước ngoài.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Trường Đại học Pháp lý, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Hà Nội, Nhà xuất bản Công an  
nhân dân, 1992  
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Hà Nội, Nhà xuất bản Tư  
pháp, 2017.  
3. Bộ luật Tố tụng Dân sự Việt Nam 2015.  
4. Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015.  
5. Đỗ Minh Tuấn, Xác định nội dung pháp luật nước ngoài để giải quyết tranh chấp dân sự  
quốc tế bởi Tòa án, thongtinphapluatdansu.edu.vn.  
223  
pdf 8 trang Thùy Anh 5820
Bạn đang xem tài liệu "Về vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài và xác định nội dung pháp luật nước ngoài ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfve_van_de_ap_dung_phap_luat_nuoc_ngoai_va_xac_dinh_noi_dung.pdf