Tài liệu Tập huấn Bộ luật hình sự năm 2015

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO  
TÀI LIỆU TẬP HUẤN  
BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015  
Hà Nội, tháng 5/2016  
* Lãnh đạo VKSNDTC duyệt tài liệu:  
Đ/c Trần Công Phàn, Phó Viện trưởng VKSNDTC  
* Thành viên tham gia biên soạn tài liệu:  
- Đ/c Nguyễn Duy Giảng, Vụ trưởng Vụ THQCT&KSĐT án kinh tế,  
VKSNDTC;  
- Đ/c Nguyễn Tố Toàn, Vụ trưởng Vụ THQCT&KSĐT án an ninh,  
VKSNDTC;  
- Đ/c Lê Thị Tuyết Hoa, Vụ trưởng Vụ THQCT&KSĐT án trật tự xã  
hội, VKSNDTC;  
- Đ/c Nguyễn Minh Đức, Vụ trưởng Vụ THQCT&KSĐT án ma túy,  
VKSNDTC;  
- Đ/c Trương Minh Mạnh, Phó Vụ trưởng Vụ THQCT&KSĐT án tham  
nhũng, chức vụ, VKSNDTC;  
- Đ/c Tạ Quang Khải, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung  
ương, VKSNDTC;  
- Đ/c Lại Viết Quang, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, VKSNDTC;  
- Đ/c Nguyễn Xuân Hà, Trưởng phòng Vụ Pháp chế và Quản lý khoa  
học, VKSNDTC.  
* Đơn vị thẩm định tài liệu:  
Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, VKSNDTC  
2
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015  
1. Bộ luật hình sự (BLHS) hiện hành được Quốc hội khóa X thông qua  
ngày 21/12/1999 trên cơ sở kế thừa truyền thống của pháp luật hình sự Việt  
Nam, phát huy thành tựu của BLHS năm 1985 (đã được sửa đổi, bổ sung vào  
các năm 1989, 1991, 1992 và 1997). Sau hơn 14 năm thi hành, BLHS năm  
1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã có những tác động tích cực đối với  
công tác phòng, chống tội phạm, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã  
hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững  
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tốt hơn quyền con người,  
quyền công dân, thể hiện trên một số điểm lớn như sau:  
Thứ nhất, từ khi được ban hành vào năm 1999, BLHS đã sớm đi vào  
cuộc sống và phát huy vai trò, tác dụng tích cực là công cụ sắc bén, hữu hiệu  
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Với những quy định tương đối có hệ  
thống, toàn diện về các nguyên tắc xử lý, chế định chung của chính sách hình  
sự, về tội phạm và hình phạt cũng như việc hình sự hóa khá nhiều hành vi  
nguy hiểm cao cho xã hội, BLHS một mặt đã thể hiện được tinh thần chủ động  
phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tội phạm, mặt khác tạo cơ sở  
pháp lý góp phần nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, đặc biệt  
là các tội xâm phạm an ninh quốc gia; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân  
phẩm, danh dự của con người; tội phạm về kinh tế, ma túy và tội phạm tham  
nhũng... qua đó góp phần kiểm soát và kìm chế tình hình tội phạm, bảo đảm ổn  
định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển  
kinh tế - xã hội của đất nước.  
Thứ hai, BLHS đã có nhiều quy định thể hiện tinh thần nhân đạo, chính  
sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh phòng, chống tội  
phạm, cụ thể như quy định về khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn  
khai báo, tố giác người đồng phạm, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt  
hại đã gây ra; về các trường hợp loại trừ hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự;  
về miễn trách nhiệm hình sự, miễn giảm hình phạt… Đặc biệt, BLHS đã quy  
định chặt chẽ hơn các điều kiện áp dụng hình phạt tử hình; mở rộng diện đối  
tượng không áp dụng, không thi hành hình phạt tử hình và thu hẹp các tội danh  
có quy định hình phạt tử hình. Các quy định này đã góp phần bảo vệ tốt hơn  
quyền con người, quyền công dân, nâng cao vai trò giáo dục, cảm hóa đối với  
người phạm tội, đồng thời giáo dục người dân ý thức tuân thủ pháp luật, chủ  
động phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.  
Thứ ba, BLHS có những quy định phù hợp với xu hướng chung của  
quốc tế, tạo tiền đề quan trọng cho việc tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu  
tranh phòng, chống tội phạm, nhất là các tội phạm mang tính quốc tế, tội phạm  
có tổ chức xuyên quốc gia như tội phạm về ma túy, mua bán người, rửa tiền,  
khủng bố, tài trợ khủng bố; các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ cao… qua  
đó, góp phần vào việc thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng và Nhà nước  
ta về hội nhập quốc tế.  
2. Tuy nhiên, kể từ sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tình hình  
3
đất nước ta đã có những thay đổi to lớn về mọi mặt. Việc thực hiện đường lối,  
chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng  
XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN mà nội dung cơ bản là ghi  
nhận và bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền cơ bản của công dân;  
chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật, chiến lược cải cách tư pháp và chủ  
động hội nhập quốc tế của Việt Nam đã mang lại những chuyển biến lớn, tích  
cực về kinh tế - xã hội và đối ngoại của đất nước. Bên cạnh đó, tình hình tội  
phạm nhìn chung vẫn diễn biến hết sức phức tạp với những phương thức, thủ  
đoạn tinh vi, xảo quyệt. Số lượng tội phạm luôn có xu hướng gia tăng, nghiêm  
trọng hơn cả về quy mô và tính chất, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, môi  
trường. Điều này đã làm cho BLHS hiện hành trở nên bất cập không đáp ứng  
được yêu cầu của thực tiễn. Mặc dù, năm 2009, Quốc hội khoá XII đã sửa đổi,  
bổ sung một số điều của BLHS, nhưng do phạm vi sửa đổi chỉ giới hạn trong  
một số điều, nên chưa thể khắc phục được đầy đủ, toàn diện những bất cập của  
BLHS trong thực tiễn. Những bất cập, hạn chế của BLHS hiện hành được thể  
hiện ở một số điểm chủ yếu như sau:  
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng định hướng XHCN của  
nước ta đã có những bước phát triển quan trọng, từng bước hội nhập sâu rộng  
vào nền kinh tế thế giới và đã mang lại những lợi ích to lớn, nhưng đồng thời  
cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết, trong đó có vấn đề đấu tranh  
phòng chống tội phạm. Cùng với các luật khác trong hệ thống pháp luật nước  
ta, BLHS phải thể hiện đúng vai trò là công cụ hữu hiệu để bảo vệ và thúc đẩy  
sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, BLHS hiện hành nhìn  
chung vẫn là sản phẩm mang đậm dấu ấn của thời kỳ đầu của quá trình chuyển  
đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định  
hướng XHCN, do vậy, chưa thực sự phát huy tác dụng trong việc bảo vệ và  
thúc đẩy các nhân tố tích cực của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN  
phát triển một cách lành mạnh. Một số quy định của Bộ luật tỏ ra không còn  
phù hợp với điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường. Mặt khác, nhiều tội  
phạm mới phát sinh trong quá trình vận hành nền kinh tế chưa được kịp thời  
bổ sung hoặc tuy đã được bổ sung, nhưng chưa đầy đủ, toàn diện, nhất là các  
tội phạm trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, thương mại, tài chính, ngân hàng,  
thuế, bảo hiểm, chứng khoán, tội phạm trong lĩnh vực môi trường,… Những  
hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế cũng  
như hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và đòi hỏi cần phải  
tiếp tục hoàn thiện BLHS để góp phần bảo vệ và thúc đẩy hơn nữa sự phát  
triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.  
Thứ hai, do ban hành từ năm 1999, nên BLHS chưa thể chế hoá được  
những quan điểm, chủ trương mới của Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện  
trong Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị  
về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (Nghị quyết  
số 08/NQ-TW); Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về  
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm  
2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48/NQ-TW) và Nghị quyết số  
4
49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải  
cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49/NQ-TW). Trong các nghị quyết  
này Đảng ta chỉ rõ cần phải “coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và  
thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong  
việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền,  
hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp  
dụng hình phạt tử hình theo hương chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm  
đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số  
loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân  
sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm  
cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học,  
công nghệ và hội nhập quốc tế”. Đồng thời, “xử lý nghiêm khắc hơn đối với  
những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người  
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi  
dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm  
gương cho người khác”. Đây là những quan điểm mới của Đảng và Nhà nước  
ta về chính sách hình sự mà BLHS cần phải được thể chế hóa một cách đầy đủ.  
Đặc biệt, sự phát triển của Hiến pháp năm 2013 về việc ghi nhận và đảm  
bảo thực hiện tốt hơn các quyền con người, quyền công dân đặt ra yêu cầu phải  
tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cả hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật hình  
sự với tính cách là công cụ pháp lý quan trọng và sắc bén nhất trong việc bảo  
đảm và bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Theo đó, một  
mặt, BLHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng bảo đảm xử lý nghiêm các  
hành vi xâm hại các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; mặt khác  
cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và  
tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; tạo điều kiện thuận lợi để  
người bị kết án tái hòa nhập cộng đồng. Thực tiễn cho thấy, vẫn còn tình trạng  
quyền con người, quyền cơ bản của công dân, nhất là đối với các đối tượng  
yếu thế trong xã hội vẫn chưa được tôn trọng một cách đầy đủ, toàn diện. Nhìn  
chung, người dân chưa thực sự cảm thấy an toàn về môi trường sống, vẫn còn  
xảy ra những vụ giết người, cướp của tàn bạo gây chấn động trong dư luận và  
gây tâm lý hoang mang trong một bộ phận nhân dân; người dân chưa thực sự  
yên tâm phát huy tính sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như  
tích cực, chủ động tham gia phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật.  
Tình trạng ô nhiễm môi trường, mất vệ sinh an toàn thực phẩm, mất an toàn  
trong lao động, trong xây dựng, trong khi tham gia giao thông đã đến mức báo  
động. Đối với người bị kết án thì việc xóa án tích, nhất là đương nhiên được  
xóa án tích hiện nay rất phức tạp, thủ tục rườm rà chưa tạo điều kiện thuận lợi  
cho họ tái hòa nhập cộng đồng. Vì vậy, BLHS phải được tiếp tục hoàn thiện để  
góp phần tạo ra một khung pháp lý đủ mạnh nhằm bảo vệ một môi trường  
sống an lành cho người dân; bảo vệ tốt hơn các quyền con người, quyền tự do,  
dân chủ của công dân; động viên khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân yên tâm  
tham đấu tranh phòng, chống tội phạm, phát triển kinh tế, sáng tạo khoa học.  
Thứ ba, BLHS hiện hành chưa cập nhật được đầy đủ, kịp thời các hành  
5
vi vi phạm có tính chất phổ biến, nguy hiểm cao cho xã hội để có biện pháp xử  
lý hình sự thích đáng. Điển hình có thể kể tới các hành vi lạm dụng lao động  
trẻ em; chiếm đoạt, mua bán trái phép mô tạng, các bộ phận cơ thể người; vi  
phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ; lợi dụng bán hàng đa cấp để  
chiếm đoạt tiền, tài sản; các vi phạm trong các lĩnh vực ngân hàng, chứng  
khoán, bảo hiểm, môi trường, công nghệ cao. Điều này chưa đáp ứng được yêu  
cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.  
Thứ tư, BLHS hiện hành được ban hành từ năm 1999 trong bối cảnh  
nước ta chưa hội nhập sâu vào thế giới, nhiều điều ước quốc tế chúng ta chưa  
có điều kiện gia nhập, do vậy, chưa phản ánh được những đặc điểm và yêu cầu  
đấu tranh phòng, chống tội phạm trong điều kiện hội nhập quốc tế, chưa tạo cơ  
sở pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng,  
chống tội phạm. Ngày nay, xu thế chủ động hội nhập quốc tế đã trở thành nhu  
cầu nội tại của Việt Nam. Trên thực tế, nước ta đã tham gia nhiều tổ chức quốc  
tế, tổ chức khu vực và đã trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế đa  
phương, trong đó có các công ước về phòng chống tội phạm. Bên cạnh đó,  
cùng với quá trình hội nhập quốc tế, nước ta cũng đang phải đối mặt với sự gia  
tăng của các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, các tội phạm do người  
nước ngoài thực hiện. Điều này, đòi hỏi phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung BLHS  
để nội luật hóa các quy định về hình sự trong các điều ước quốc tế mà nước ta  
là thành viên nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của quốc gia thành viên và  
tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc chủ động và tăng cường hợp tác quốc tế  
trong phòng, chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm có tổ chức xuyên quốc  
gia.  
Ngoài ra, BLHS hiện hành cũng còn nhiều bất cập về mặt kỹ thuật lập  
pháp liên quan đến sự thống nhất giữa Phần chung và Phần các tội phạm; các  
dấu hiệu định tội, định khung của nhiều tội danh; các tội ghép; cách thiết kế  
khung hình phạt cũng như khoảng cách khung hình phạt của một số tội danh;  
chưa có sự nhất quán trong cách phân chia các chương tội phạm... Những bất  
cập này cũng ảnh hưởng lớn đến việc hướng dẫn thi hành và áp dụng các quy  
định của BLHS trên thực tế.  
Những hạn chế, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực  
và hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; chưa thực sự tạo môi  
trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế  
của đất nước cũng như cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các  
quyền của người dân. Do đó, việc xây dựng , ban hành BLHS mới nhằm thay  
thế BLHS năm 1999 là hoàn toàn đúng đắn và hết sức cần thiết.  
Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua  
BLHS số 100/2015/QH13 năm 2015 cùng Nghị quyết thi hành Bộ luật số  
109/2015/QH13. Ngày 18/12/2015, Chủ tịch nước đã ký Lệnh số 33/2015/L-  
CTN công bố Bộ luật và Nghị quyết này.  
Với tinh thần sửa đổi toàn diện, BLHS 2015 gồm có 26 chương với 426  
điều, được thiết kế thành 03 phần, Phần thứ nhất: Những quy định chung (gồm  
12 chương, từ Điều 01 đến Điều 107); Phần thứ hai: Các tội phạm (gồm 14  
6
chương, từ Điều 108 đến Điều 425); và Phần thứ ba: Điều khoản thi hành  
(gồm 01 điều - Điều 426).  
II. NHỮNG NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG TRONG BLHS  
NĂM 2015  
PHẦN THỨ NHẤT. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG  
CHƯƠNG I. ĐIỀU KHOẢN CƠ BẢN  
Chương đầu tiên của Bộ luật hình sự (BLHS) gồm 04 điều từ Điều 1 đến  
Điều 4, quy định về nhiệm vụ của Bộ luật, cơ sở của trách nhiệm hình sự,  
nguyên tắc xử lý và trách nhiệm phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.  
1. Nhiệm vụ của BLHS (Điều 1)  
Điều 1 của BLHS năm 2015 xác định BLHS có 05 nhiệm vụ chủ yếu:  
một là, bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước; hai là, bảo vệ chế độ  
xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng  
giữa đồng bào các dân tộc; ba là, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức;  
bốn là, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; năm là, giáo dục  
mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội  
phạm.  
Về cơ bản BLHS năm 2015 tiếp tục kế thừa các nhiệm vụ đã được ghi  
nhận trong BLHS năm 1999. Tuy nhiên, có hai điểm quan trọng cần lưu ý  
trong quy định này:  
Một là, BLHS năm 2015 đã nhấn mạnh nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền  
quốc gia, an ninh của đất nước và đưa lên thành nhiệm vụ đầu tiên của BLHS.  
Hai là, nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân được BLHS  
năm 2015 đề cao và đưa lên ngay sau nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ  
nghĩa. Điều này thể hiện rõ tinh thần, quan điểm đề cao việc bảo vệ các quyền  
con người, quyền cơ bản của công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013.  
2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự (Điều 2)  
Một trong những điểm mới nổi bật, mang tính đột phá trong thực hiện  
chính sách hình sự nước ta là BLHS năm 2015 đã bổ sung chế định trách  
nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Điều này dẫn đến sửa đổi, bổ sung  
nhiều quy định có liên quan trong BLHS, trong đó gồm quy định về cơ sở của  
trách nhiệm hình sự và nguyên tắc xử lý về hình sự.  
Về cơ sở trách nhiệm hình sự, Điều 2 của Bộ luật khẳng định rõ 02 vấn  
đề hết sức quan trọng:  
Một là, không chỉ có cá nhân mà pháp nhân thương mại cũng phải chịu  
trách nhiệm hình sự;  
Hai là, chỉ có pháp nhân thương mại1 đã thực hiện tội phạm theo quy  
1 Điều 75 Bộ luật Dân sự năm 2015 về Pháp nhân thương mại quy định:  
7
định tại Điều 76 của BLHS mới phải chịu trách nhiệm hình sự về 31 tội danh,  
trong đó có 22 tội thuộc nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và 09  
tội thuộc nhóm các tội phạm về môi trường.  
3. Về nguyên tắc xử lý (Điều 3)  
Điều luật thiết kế thành 02 khoản: khoản 1 quy định về nguyên tắc xử lý  
đối với cá nhân phạm tội; khoản 2 quy định nguyên tắc xử lý đối với pháp  
nhân thương mại phạm tội. Cụ thể:  
Thứ nhất, khoản 1 kế thừa 05 nguyên tắc xử lý hình sự đối với cá nhân  
phạm tội của BLHS năm 1999, đồng thời, bổ sung hai điểm mới đáng lưu ý  
sau đây:  
Một là, bổ sung thêm đối tượng được hưởng khoan hồng, đó là người  
phạm tội đầu thú (điểm d) nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn, khuyến khích  
người phạm tội hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng;  
Hai là, bổ sung quy định việc áp dụng chính sách tha tù trước hạn có  
điều kiện đối với người bị phạt tù khi họ có đủ điều kiện do luật định.  
Thứ hai, bổ sung mới khoản 2 quy định về 04 nguyên tắc xử lý hình sự  
đối với pháp nhân thương mại phạm tội, đó là:  
- Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được  
phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật. Nguyên  
tắc này bảo đảm tính pháp chế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.  
- Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật,  
không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Nguyên tắc này thể  
hiện quan điểm bình đẳng trong việc xử lý các pháp nhân phạm tội thuộc các  
thành phần kinh tế khác nhau, bảo đảm không có loại trừ, vùng cấm đối với  
các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước khi phạm tội.  
- Nghiêm trị pháp nhân thương mại phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có  
tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.  
- Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ  
quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa  
hoặc bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả  
xảy ra.  
CHƯƠNG II. HIỆU LỰC CỦA BLHS  
Ngoài việc kế thừa các quy định về hiệu lực của BLHS năm 1999,  
Chương này còn bổ sung nhiều nội dung mới thể hiện chủ quyền tài phán của  
1. Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia  
cho các thành viên.  
2. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.  
3. Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật  
này, Luật doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan.  
8
nước ta trên tinh thần tích cực, chủ động, phản ánh vai trò, vị trí của nước ta  
trên trường quốc tế cũng như quá trình hội nhập của nước ta. Chương này gồm  
03 điều (từ Điều 5 đến Điều 7) với các nội dung sửa đổi, bổ sung cơ bản như sau:  
Điều 5. Hiệu lực của BLHS đối với những hành vi phạm tội trên  
lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam  
Điều này có hai điểm mới rất quan trọng đáng chú ý:  
Thứ nhất, ngoài việc kế thừa quy định tại Điều 5 của BLHS năm 1999,  
BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định: “BLHS cũng được áp dụng đối với  
hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu  
biển mang quốc tịch Việt Nam hoặc tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa  
của Việt Nam”.  
Điều này có nghĩa là hành vi phạm tội được thực hiện hoặc hậu quả của  
nó xảy ra trên tàu bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam mà tàu bay, tàu biển  
đó đang ở ngoài lãnh thổ Việt Nam thì cũng được coi là thực hiện trên lãnh thổ  
Việt Nam và người phạm tội bị xử lý theo quy định của BLHS này.  
Tương tự như vậy, hành vi phạm tội được thực hiện tại vùng đặc quyền  
kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam hoặc ở nơi khác nhưng hậu quả xảy ra tại  
vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam thì cũng bị xử lý theo  
BLHS này.  
Thứ hai, đối với vấn đề trách nhiệm hình sự của người nước ngoài phạm  
tội trên lãnh thổ Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại  
giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Việt  
Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế thì BLHS năm 1999 quy định  
trong mọi trường hợp sẽ được giải quyết bằng con đường ngoại giao. Tuy  
nhiên, BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định này theo hướng trước hết  
vấn đề trách nhiệm hình sự của những người này phải được giải quyết theo  
quy định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó vì hiện nay chúng  
ta đã là thành viên của nhiều điều ước quốc tế đa phương và song phương; chỉ  
trong trường hợp điều ước quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán  
quốc tế về vấn đề đó thì mới giải quyết bằng con đường ngoại giao (thương  
lượng giải quyết theo từng vụ việc, từng trường hợp cụ thể).  
Điều 6. Hiệu lực của BLHS đối với những hành vi phạm tội ở ngoài  
lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam  
Điều này có ba điểm mới quan trọng đáng chú ý:  
Một là, bổ sung quy định về hiệu lực của BLHS đối với hành vi phạm  
tội do pháp nhân thương mại Việt Nam thực hiện ở ngoài lãnh thổ Việt Nam;  
Hai là, theo quy định của BLHS năm 1999 thì người nước ngoài phạm  
tội ở ngoài lãnh thổ Việt Nam chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo  
quy định của BLHS Việt Nam trong trường hợp được quy định trong các điều  
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.  
BLHS năm 2015 tiếp tục kế thừa tinh thần quy định này của BLHS năm  
9
1999, đồng thời, bổ sung hai trường hợp có thể áp dụng BLHS Việt Nam để xử  
lý đối với hành vi phạm tội do người nước ngoài, pháp nhân thương mại nước  
ngoài thực hiện ở ngoài lãnh thổ Việt Nam. Đó là: (1) khi hành vi phạm tội đó  
xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam; (2) khi hành vi  
phạm tội đó xâm hại đến lợi ích của Nhà nước Việt Nam. Quy định này thể  
hiện quan điểm tăng cường bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ công dân của  
mình trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý cho việc hợp tác về  
dẫn độ tội phạm.  
Ba là, bổ sung quy định hiệu lực của BLHS đối với hành vi phạm tội  
hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển không mang  
quốc tịch Việt Nam đang ở tại biển cả hoặc tại giới hạn vùng trời nằm ngoài  
lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành  
viên có quy định. Quy định này tạo cơ sở pháp lý quan trọng để chúng ta thực  
hiện nghĩa vụ quốc gia thành viên trong các điều ước quốc tế đa phương, tham  
gia tích cực hơn trong hợp tác quốc tế để xử lý tội phạm, đặc biệt là các tội  
cướp biển, bắt cóc con tin mới được bổ sung vào BLHS năm 2015.  
Điều 7. Hiệu lực của BLHS về thời gian  
Về cơ bản, các quy định này vẫn tiếp tục kế thừa quy định tại Điều 7 của  
BLHS năm 1999, chỉ bổ sung một số điểm cụ thể liên quan đến một số quy  
định mới của BLHS như: (1) điều luật hạn chế phạm vi áp dụng chế định loại  
trừ trách nhiệm hình sự thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã  
thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành (khoản 2); (2) điều luật  
mở rộng phạm vi áp dụng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự, tha tù trước  
thời hạn có điều kiện thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện  
trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành (khoản 3).  
Liên quan đến hiệu lực của BLHS năm 2015 về thời gian, Nghị quyết số  
109/2015/QH13 của Quốc hội về việc thi hành BLHS, đã xác định rõ hai mốc  
thời gian áp dụng các quy định của Bộ luật, cụ thể là:  
Thứ nhất, kể từ ngày BLHS được công bố (ngày 09/12/2015):  
- Không áp dụng hình phạt tử hình khi xét xử người phạm tội mà BLHS  
năm 2015 đã bỏ hình phạt tử hình cũng như không áp dụng hình phạt tử hình  
đối với người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử; trường hợp đã  
tuyên hình phạt tử hình đối với họ nhưng chưa thi hành án, thì không thi hành  
và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt  
tù chung thân.  
Đối với người đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành án mà có đủ các  
điều kiện quy định tại điểm c khoản 3 Điều 40 của BLHS năm 2015 (người bị  
kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ  
động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ  
quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công  
lớn), thì không thi hành và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chuyển hình phạt  
tử hình thành hình phạt tù chung thân.  
10  
- Không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà BLHS  
năm 1999 quy định là tội phạm nhưng BLHS năm 2015 không quy định là tội  
phạm, bao gồm: tảo hôn; báo cáo sai trong quản lý kinh tế; vi phạm quy định  
về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; sử dụng trái phép quỹ dự  
trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; không chấp hành các quyết định  
hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo  
dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính. Nếu vụ án đã được khởi tố, đang  
điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trường hợp người bị kết án đang chấp  
hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì được miễn chấp  
hành phần hình phạt còn lại; trường hợp người bị kết án chưa chấp hành hình  
phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì được miễn chấp hành toàn bộ hình  
phạt;  
- Không xử lý về hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về  
tội phạm không được quy định tại khoản 2 Điều 12 và các điểm b, c khoản 2  
Điều 14 của BLHS năm 2015; nếu vụ án đã được khởi tố, đang điều tra, truy  
tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người đó đã bị kết án và đang  
chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được  
miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; nếu người bị kết án chưa chấp hành  
hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì được miễn chấp hành toàn bộ  
hình phạt;  
- Những người đã chấp hành xong hình phạt hoặc được miễn chấp hành  
toàn bộ hình phạt hoặc phần hình phạt còn lại theo quy định trên thì đương  
nhiên được xóa án tích.  
Thứ hai, kể từ ngày BLHS có hiệu lực thi hành (ngày 01/07/2016):  
- Tất cả các điều khoản của BLHS năm 2015 được áp dụng để khởi tố,  
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với người thực hiện hành vi phạm  
tội từ 0 giờ 00 ngày 01/7/2016.  
- Các quy định sau đây có hiệu lực trở về trước: (1) quy định xóa bỏ một  
tội phạm, xóa bỏ một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt  
nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; (2) quy định mở rộng phạm vi miễn trách  
nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích; (3) quy định khác  
có lợi cho người phạm tội (ví dụ trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự).  
Theo đó, các quy định này được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội  
xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2016 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện,  
đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời  
hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích.  
- Các quy định sau đây không có hiệu lực trở về trước: (1) quy định về  
tội phạm mới tại các điều 147, 154, 167, 187, 212, 213, 214, 215, 216, 217,  
218, 219, 220, 221, 222, 223, 224, 230, 234, 238, 285, 291, 292, 293, 294,  
297, 301, 302, 336, 348, 388, 391, 393 và 418 của BLHS năm 2015; (2) quy  
định bổ sung hành vi phạm tội mới, quy định một hình phạt mới, một hình phạt  
nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới; (3) quy định hạn chế phạm vi miễn  
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích; (4) quy định  
11  
khác không có lợi cho người phạm tội. Theo đó, các quy định này không áp  
dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2016 mà  
sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án  
hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án  
tích; trong trường hợp này, vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn bản  
quy phạm pháp luật hình sự có hiệu lực trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2016 để giải  
quyết.  
- Đối với những hành vi phạm tội đã có bản án, quyết định của Tòa án  
đã có hiệu lực pháp luật trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2016, thì không được căn cứ  
vào những quy định của BLHS năm 2015 có nội dung khác so với các điều  
luật đã được áp dụng khi tuyên án để kháng nghị giám đốc thẩm; trong trường  
hợp kháng nghị dựa vào căn cứ khác hoặc đã kháng nghị trước ngày  
01/7/2016, thì việc xét xử giám đốc thẩm phải tuân theo các quy định trên đây  
về các trường hợp có hiệu lực hồi tố hoặc không có hiệu lực hồi tố.  
Quy định về những trường hợp có hoặc không có hiệu lực trở về trước  
trên đây cũng được áp dụng đối với các điều luật mới quy định tội được tách  
ra từ các tội ghép trong BLHS năm 1999.  
- Các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm  
trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”; “số lượng lớn”, “số lượng rất  
lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”; “thu lợi bất chính lớn”, “thu lợi bất chính rất  
lớn”, “thu lợi bất chính đặc biệt lớn”; “đất có diện tích lớn”, “đất có diện tích  
rất lớn”, “đất có diện tích đặc biệt lớn”; “giá trị lớn”, “giá trị rất lớn”, “giá trị  
đặc biệt lớn”; “quy mô lớn” đã được áp dụng để khởi tố bị can trước 0 giờ 00  
ngày 01/7/2016 thì vẫn áp dụng quy định của BLHS năm 1999 để khởi tố, điều  
tra, truy tố, xét xử;  
- Đối với 04 hành vi phạm tội theo BLHS năm 1999 (hoạt động phỉ -  
Điều 83; đăng ký kết hôn trái pháp luật - Điều 149; kinh doanh trái phép -  
Điều 159; cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả  
nghiêm trọng - Điều 165), mặc dù, trong BLHS năm 2015 không còn tên các  
tội danh này nhưng đây không phải là đã phi tội phạm hóa đối với các hành vi  
phạm tội này, do vậy, quy định này không có hiệu lực trở về trước. Đối với các  
hành vi này xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2016 mà sau thời điểm đó vụ án  
đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì tiếp tục áp dụng quy định của  
BLHS năm 1999 để xử lý; trường hợp vụ án đã được xét xử và đã có bản án,  
quyết định của Tòa án, thì không được căn cứ vào việc BLHS năm 2015 không  
quy định các tội danh này để kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp người  
bị kết án đang chấp hành án về các tội này đã chấp hành xong bản án thì vẫn  
áp dụng quy định tương ứng của các văn bản quy phạm pháp luật hình sự có  
hiệu lực trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2016 để giải quyết; nếu sau thời điểm 0 giờ  
00 ngày 01/7/2016 mới bị phát hiện thì không khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử  
về các tội danh này mà áp dụng quy định của BLHS năm 2015 để khởi tố, điều  
tra, truy tố, xét xử theo tội danh tương ứng;  
- Các quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại tại  
12  
các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209, 210, 211,  
213, 216, 217, 225, 226, 227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 243, 244, 245  
và 246 của BLHS năm 2015 không áp dụng đối với những hành vi vi phạm  
của pháp nhân thương mại xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2016.  
CHƯƠNG III. TỘI PHẠM  
Chương III của BLHS năm 2015 có 12 điều (từ Điều 8 đến Điều 19) quy  
định về chế định tội phạm, bao gồm: khái niệm tội phạm; phân loại tội phạm;  
cố ý phạm tội; vô ý phạm tội; tuổi chịu trách nhiệm hình sự; phạm tội do dùng  
rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác; chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa  
đạt, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội; đồng phạm; che giấu tội phạm;  
không tố giác tội phạm. So với BLHS năm 1999, có 04 điều được giữ nguyên  
(Điều 9. Cố ý phạm tội; Điều 10. Vô ý phạm tội; Điều 15. Phạm tội chưa đạt  
và Điều 16. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội); 01 điều được bổ sung  
mới (Điều 9) về phân loại tội phạm (tách khoản 2 Điều 8 của BLHS 1999) và  
07 điều được sửa đổi.  
Điều 8. Khái niệm tội phạm  
Về cơ bản, Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 đã kế thừa khái niệm tội  
phạm quy định tại Điều 8 của BLHS năm 1999, tuy nhiên, bổ sung mới hai nội  
dung liên quan đến chủ thể tội phạm và khách thể mà tội phạm xâm hại, cụ  
thể: (1) bổ sung chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại; (2) xác định rõ  
một trong những khách thể mà tội phạm xâm hại là “quyền con người, quyền,  
lợi ích hợp pháp của công dân” nhằm thể hiện tinh thần của Hiến pháp 2013 là  
đề cao và bảo vệ hơn nữa quyền con người, quyền công dân.  
Điều 9. Phân loại tội phạm  
Điều 9 của BLHS năm 2015 quy định về vấn đề phân loại tội phạm trên  
cơ sở tách Khoản 2 Điều 8 của BLHS năm 1999 và cơ bản vẫn giữ nguyên  
cách phân loại tội phạm dựa trên tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi  
phạm tội, nhằm thực hiện nguyên tắc phân hoá và cá thể hoá trách nhiệm hình  
sự. Tuy nhiên, so với BLHS năm 1999 thì có sự khác biệt trong cách quy định  
về mức cao nhất của khung hình phạt đối với mỗi loại tội.  
Một là, để góp phần khắc phục bất cập, đồng thời tăng tính rõ ràng,  
minh bạch, Điều 9 đã quy định rõ điểm bắt đầu để xác định mức cao nhất của  
khung hình phạt đối với mỗi loại tội làm cơ sở để xác định loại tội phạm, theo  
đó:  
- Tội ít nghiêm trọng là tội có mức cao nhất của khung hình phạt là phạt  
tiền hoặc phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;  
- Tội nghiêm trọng là tội có mức cao nhất của khung hình phạt nằm  
trong khoảng từ trên 03 năm đến 07 năm tù (ví dụ: 5, 6 hoặc 7 năm tù);  
- Tội rất nghiêm trọng là tội có mức cao nhất của khung hình phạt nằm  
trong khoảng từ trên 07 năm đến 15 năm tù (ví dụ: 10, 12 hoặc 15 năm tù).  
13  
- Tội đặc biệt nghiêm trọng là tội có mức cao nhất của khung hình phạt  
nằm trong khoảng từ trên 15 năm đến 20 năm tù hoặc tù chung thân hoặc tử  
hình.  
Quy định này phân định rõ ranh giới giữa các loại tội, đồng thời, phù  
hợp với cách quy định các khung hình phạt trong từng tội danh trong BLHS.  
Hai là, đối với tội ít nghiêm trọng, ngoài căn cứ vào mức cao nhất của  
khung hình phạt là phạt tù không quá ba (03) năm thì đối với các khung hình  
phạt chỉ có quy định hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tiền cũng  
được coi là tội phạm ít nghiêm trọng. Như vậy, đối với tội phạm mà có khung  
hình phạt cao nhất là phạt tiền hoặc phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù  
đến 03 năm thì đó là tội phạm ít nghiêm trọng.  
Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự  
Điều luật này có hai điểm mới quan trọng:  
Thứ nhất, khoản 1 của Điều luật bên cạnh việc tiếp tục kế thừa quy định  
của BLHS năm 1999: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình  
sự về mọi tội phạm”, đã bổ sung quy định loại trừ: “trừ những tội phạm mà Bộ  
luật này có quy định khác” (tức là tội phạm có chủ thể đặc biệt) để bảo đảm  
tính thống nhất giữa quy định của phần chung và quy định trong phần các tội  
phạm cụ thể.  
Thứ hai, khoản 2 của Điều luật đã thu hẹp đáng kể phạm vi trách nhiệm  
hình sự của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, chỉ rõ những tội danh mà các  
em phải chịu trách nhiệm hình sự. Quy định này thể hiện chính sách hướng  
thiện, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho các em trên tinh thần bảo đảm yêu cầu đấu  
tranh phòng, chống tội phạm trong lứa tuổi thanh thiếu niên, đồng thời, góp  
phần nâng cao tính minh bạch của BLHS, qua đó nâng cao tính giáo dục,  
phòng ngừa tội phạm đối với các em ở độ tuổi này.  
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự  
về 29 tội danh được nêu tại khoản 2 của Điều luật2, trong đó, các em phải chịu  
trách nhiệm hình sự khi phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm  
trọng thuộc 26 tội danh, còn đối với 03 tội danh khác (cố ý gây thương tích  
2
Khoản 2 Điều 12 BLHS quy định người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình  
sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm  
người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài  
sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây:  
a) Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi);  
b) Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội  
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);  
c) Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận  
chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy);  
d) Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép);  
đ) Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật); Điều 286  
(tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều  
287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 289 (tội xâm  
nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (tội sử dụng  
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản);  
e) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia);  
Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ  
thuật quân sự).  
14  
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; hiếp dâm; bắt cóc nhằm chiếm  
đoạt tài sản) thì các em phải chịu trách nhiệm hình sự kể cả trong trường hợp  
phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng. Như vậy, riêng đối với 03 tội  
danh này thì phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người từ đủ 14 tuổi đến  
dưới 16 tuổi có mở rộng hơn so với BLHS năm 1999 nhằm đáp ứng yêu cầu  
của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm người chưa thành niên.  
Điều 13. Phạm tội do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh  
khác  
Về cơ bản, quy định này vẫn kế thừa quy định tại Điều 14 của BLHS  
năm 1999, nhưng có hai điểm mới cần chú ý:  
Một là, thay cụm từ rất chung chung trong BLHS năm 1999 “phạm tội  
trong tình trạng say” bằng các dấu hiệu cụ thể, mang đặc điểm pháp lý, đó là  
phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển  
hành vi của mình.  
Hai là, bổ sung trường hợp phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận  
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do “dùng bia”, bảo đảm phù hợp với  
thực tiễn.  
Điều 14. Chuẩn bị phạm tội  
Về cơ bản, quy định tại khoản 1 Điều 14 của BLHS năm 2015 kế thừa  
quy định tại Điều 17 của BLHS năm 1999 về chuẩn bị phạm tội, nhưng có ba  
điểm mới rất quan trọng:  
Thứ nhất, mở rộng nội hàm khái niệm “chuẩn bị phạm tội” bao gồm cả  
hành vi “thành lập, tham gia nhóm tội phạm”; đồng thời bổ sung quy định loại  
trừ đối với các trường hợp mà hành vi chuẩn bị phạm tội cấu thành một tội  
phạm cụ thể quy định tại Điều 109 (tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền  
nhân dân), điểm a khoản 2 Điều 113 (tội khủng bố nhằm chống chính quyền  
nhân dân) và điểm a khoản 2 Điều 299 (tội khủng bố) của BLHS.  
Thứ hai, thu hẹp đáng kể phạm vi xử lý hình sự đối với người có hành vi  
chuẩn bị phạm tội, quy định rõ 24 tội danh thuộc 04 nhóm tội phạm (các tội  
xâm phạm an ninh quốc gia; các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,  
nhân phẩm con người; các tội xâm phạm sở hữu và các tội xâm phạm an toàn  
công cộng)3 người có hành vi chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự.  
Đây là một điểm mới của chế định chuẩn bị phạm tội trong Bộ luật. Trên cơ sở  
3
Theo khoản 2 Điều 14 thì người chuẩn bị phạm một trong các tội sau đây thì phải chịu trách nhiệm hình sự:  
- Điều 108 (tội phản bội Tổ quốc); Điều 109 (tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân); Điều 110 (tội gián  
điệp); Điều 111 (tội xâm phạm an ninh lãnh thổ); Điều 112 (tội bạo loạn); Điều 113 (tội khủng bố nhằm chống chính  
quyền nhân dân); Điều 114 (tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); Điều  
117 (tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ  
nghĩa Việt Nam); Điều 118 (tội phá rối an ninh); Điều 119 (tội chống phá trại giam); Điều 120 (tội tổ chức, cưỡng ép, xúi  
giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân); Điều 121 (tội trốn đi  
nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân);  
- Điều 123 (tội giết người); Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác);  
- Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 169 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản);  
- Điều 299 (tội khủng bố); Điều 300 (tội tài trợ khủng bố); Điều 301 (tội bắt cóc con tin); Điều 302 (tội cướp biển);  
Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 324 (tội rửa tiền).  
15  
quy định này, lần đầu tiên, BLHS năm 2015 đã quy định một khung hình phạt  
riêng đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội ngay trong từng điều luật quy định  
về các tội danh cụ thể.  
Thứ ba, khoản 3 quy định riêng đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi  
chỉ phải trách nhiệm hình sự về hành vi chuẩn bị phạm tội đối với 04 tội danh:  
(1) giết người; (2) cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của  
người khác; (3) cướp tài sản; (4) bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Bởi đây là  
những tội đặc biệt nguy hiểm, có tính bạo lực cao, xâm hại trực tiếp đến tính  
mạng, sức khỏe của con người, cần được quy định để phòng ngừa, xử lý, ngăn  
chặn sớm trước khi có thể xảy ra trên thực tế.  
Điều 17. Đồng phạm  
Về cơ bản, Điều luật kế thừa hoàn toàn quy định về đồng phạm tại Điều  
20 của BLHS 1999, đồng thời, bổ sung quy định mới “Người đồng phạm  
không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực  
hành” (khoản 4).  
Người đồng phạm bao gồm: người tổ chức, người xúi giục, người giúp  
sức và người thực hành. Trong đó, Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu,  
chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Trong một vụ án có đồng phạm, người tổ  
chức và người thực hành thường có sự bàn bạc, phân công vai trò thực hiện  
các hành vi phạm tội. Tuy nhiên, trong thực tiễn cho thấy, đôi khi người thực  
hành lại có hành vi vượt quá, không thực hiện đúng như những gì đã bàn với  
đồng phạm trước đó. Nếu buộc những người đồng phạm còn lại phải chịu trách  
nhiệm hình sự về hành vi vượt quá này thì có nghĩa buộc họ phải chịu trách  
nhiệm về những cái mà họ không biết, không có lỗi. Vì vậy, để bảo đảm việc  
xử lý đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, vai trò của đồng phạm  
trong vụ án, BLHS năm 2015 quy định trong trường hợp này phải loại trừ trách  
nhiệm cho đồng phạm.  
Điều 18. Che giấu tội phạm  
Điểm mới của điều luật này là đã bổ sung thêm khoản 2 quy định về  
việc loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi che giấu tội phạm là  
ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm  
tội, trừ trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội  
đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của BLHS.  
Về nguyên tắc: ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc  
chồng mà che giấu tội phạm cho nhau thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.  
Trong trường hợp tội đã phạm là một trong các tội xâm phạm an ninh quốc gia  
quy định tại Chương XIII hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại  
Điều 389 của BLHS thì những người này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.  
Quy định mới này hết sức nhân đạo, thể hiện rõ tính nhân văn, phù hợp  
truyền thống đạo lý gia đình của người Việt Nam, bởi thông thường những  
người thân trong gia đình luôn có tình cảm, có tâm lý giấu diếm, bao che hành  
vi sai phạm của những người ruột thịt, người vợ, người chồng của mình, không  
16  
muốn người thân của mình phải rơi vào vòng lao lý.  
Điều 19. Không tố giác tội phạm  
Bên cạnh việc tiếp tục kế thừa quy định của BLHS năm 1999 về không  
tố giác tội phạm, khoản 3 Điều 19 của BLHS năm 2015 bổ sung quy định về  
trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người bào chữa trong trường  
hợp không tố giác tội phạm. Về nguyên tắc, người bào chữa không phải chịu  
trách nhiệm hình sự trong trường hợp không tố giác tội phạm do chính người  
mà mình bào chữa đã thực hiện hoặc đã tham gia thực hiện mà mình biết được  
khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa; trừ trường hợp không tố giác các tội xâm  
phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII hoặc tội phạm đặc biệt  
nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của BLHS.  
Quy định này phù hợp Quy tắc mẫu đạo đức nghề nghiệp luật sư và  
cũng trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm nước ngoài. Việc bổ sung quy định  
này không chỉ bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, đồng thời,  
phù hợp với Tuyên bố các nguyên tắc cơ bản về vai trò của Luật sư năm 1999  
được thông qua tại Hội nghị lần thứ 8 về phòng chống tội phạm và xử lý người  
phạm tội của Liên Hợp Quốc tại La Habana, Cuba4 mà Việt Nam đã tham gia.  
CHƯƠNG IV. NHỮNG TRƯỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH  
NHIỆM HÌNH SỰ  
Chương IV. Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự gồm có 07  
điều (từ Điều 20 đến Điều 26) quy định về các vấn đề: (1) sự kiện bất ngờ  
(Điều 20); (2) tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21); (3)  
phòng vệ chính đáng (Điều 22); (4) tình thế cấp thiết (Điều 23); (5) gây thiệt  
hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Điều 24); (6) rủi ro trong nghiên cứu, thí  
nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Điều 25); (7) thi  
hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (Điều 26). Trong đó, bổ  
sung quy định 03 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự mới và sửa đổi một  
số nội dung đối với các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự mà BLHS năm  
1999 đã quy định.  
Thứ nhất, về trường hợp phòng vệ chính đáng (Điều 22) và tình thế cấp  
thiết (Điều 23) có đảo cụm từ “vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của  
mình, của người khác” lên trước cụm từ “lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ  
chức” trong trường hợp phòng vệ chính đáng. Cũng tương tự như trên, cụm từ  
“vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người  
khác” lên trước cụm từ “lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức” trong  
trường hợp tình thế cấp thiết. Việc đảo vị trí của quyền hoặc lợi ích chính đáng  
(quyền hoặc lợi ích hợp pháp) của con người, của công dân lên trước lợi ích  
4
Điểm c, Điều 16 của Tuyên bố các nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư năm 1990 quy định “Các  
quốc gia phải bảo đảm luật sư không bị truy tố, hoặc bị đe dọa truy tố hình sự hay chịu bất kỳ chế tài hành  
chính, kinh tế hoặc chế tài khác về bất cứ hành vi nào được thực hiện phù hợp với những nhiệm vụ, tiêu chuẩn  
và đạo đức nghề nghiệp đã được công nhận”.  
17  
của Nhà nước, cơ quan, tổ chức là phù hợp với tinh thần Hiến pháp năm 2013,  
ưu tiên bảo vệ quyền con người, quyền công dân – “Ở nước Cộng hòa xã hội  
chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân  
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo  
Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14 Hiến pháp).  
Thứ hai, ba trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự mới được bổ sung  
vào Chương này đó là: (1) gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội; (2)  
rủi ro trong nghiên cứu khoa học, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ  
thuật và công nghệ; (3) thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp  
trên (các Điều 24, 25, 26).  
Điều 24. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội  
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm cho thấy, mặc dù  
các cơ quan chức năng có nhiều cố gắng trong đấu tranh phòng, chống tội  
phạm, kiềm chế sự gia tăng của tội phạm, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an  
toàn xã hội, song tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp, có nơi, có lúc xảy  
ra rất nghiêm trọng. Một trong những nguyên nhân của tình trạng tội phạm và  
vi phạm pháp luật gia tăng hiện nay là do ý thức pháp luật và đấu tranh phòng,  
chống tội phạm của quần chúng nhân dân còn chưa cao, chưa tạo được phong  
trào quần chúng đấu tranh chống tội phạm sâu rộng trong xã hội5. Những hạn  
chế, vướng mắc trong đấu tranh phòng, chống tội phạm chính là thiếu cơ chế  
động viên, tạo điều kiện về mặt pháp lý để công nhận thực hiện nghĩa vụ của  
mình được pháp luật quy định. Điều 4 của BLHS năm 1999 quy định: “Mọi  
công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội  
phạm”. Do đó, một trong những quan điểm chỉ đạo xây dựng BLHS đã được  
xác định đó là “tạo cơ chế hữu hiệu để bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người,  
quyền công dân, lợi ích của nhà nước và tổ chức, góp phần bảo vệ trật tự, an  
toàn xã hội”, “bổ sung những quy định mới để giải quyết vướng mắc, bấp cập  
đang đặt ra trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và đổi mới nhận  
thức về chính sách hình sự… bảo đảm các quy định của BLHS không chỉ là cơ  
sở pháp lý để các cơ quan chức năng đấu tranh trấn áp tội phạm mà còn là cơ  
sở pháp lý để mọi người dân tự bảo vệ mình, bảo vệ lợi ích của nhà nước, của  
xã hội, khuyến khích mọi người dân chủ động, tích cực đấu tranh phòng,  
chống tội phạm”6.  
Thực tế cho thấy có nhiều trường hợp để bắt giữ tội phạm thì người bắt  
giữ buộc phải dùng vũ lực cần thiết để khống chế và tất yếu dẫn đến gây thiệt  
hại cho người bị bắt giữ. Tuy nhiên, BLHS năm 1999 chưa có quy định cụ thể  
loại trừ trách nhiệm hình sự trong các trường hợp này, chưa tạo được cơ chế  
hữu hiệu, tích cực cho việc đấu tranh ngăn chặn và chống tội phạm. Để giải  
quyết vấn đề này, tạo điều kiện cho người, cơ quan có trách nhiệm đấu tranh  
trấn áp tội phạm cũng như mọi người dân yên tâm khi thực hiện nghĩa vụ tham  
gia chống tội phạm, BLHS đã bổ sung mới chế định gây thiệt hại trong khi bắt  
5 Báo cáo số 35/BC-BTP ngày 12/02/2015 tổng kết thực tiễn thi hành BLHS.  
6 Tờ trình UBTVQH về dự án BLHS (sửa đổi) số 126/TTr-CP ngày 27/03/2015.  
18  
giữ người phạm tội, trong đó quy định rõ: hành vi của người để bắt giữ người  
thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng  
vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.  
Đồng thời quy định rõ: Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng  
vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự,  
bảo đảm loại trừ và xử lý hình sự đúng đắn, chính xác các hành vi gây nguy  
hiểm cho xã hội. Việc bổ sung quy định như vậy là hợp lý, phù hợp với tình  
hình thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.  
Điều 25. Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa  
học, kỹ thuật và công nghệ  
Một trong những định hướng lớn được quán triệt trong xây dựng BLHS  
2015 đó là tạo các quy phạm pháp lý hình sự góp phần bảo vệ và thúc đẩy nền  
kinh tế thị trường phát triển, mà muốn vậy thì việc áp dụng các thành tựu khoa  
học, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến có vai trò rất quan trọng. Mặt khác, công  
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi sự năng động, sáng tạo  
trong sản xuất, trong nghiên cứu, thử nghiệm, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích  
của xã hội. Trong quá trình đó sẽ không tránh khỏi những trường hợp rủi ro  
gây thiệt hại về người và tài sản và trên thực tế đã xảy ra không ít trường hợp  
rủi ro như vậy, ví dụ: với tinh thần dám nghĩ, dám làm, phát huy tính năng  
động, sáng tạo, tập thể kỹ sư nhà máy xi măng đã quyết định áp dụng công  
nghệ lò ngang thay cho lò đứng, vì lò ngang có nhiều ưu điểm hơn năng suất  
cao, tiết kiệm năng lượng tiêu hao… Trong quá trình tiến hành đã cập nhập  
kiến thức và công nghệ tiên tiến, vận hành thử nhiều lần và nhận được kết quả  
tốt. Tuy nhiên, khi đưa vào vận hành chính thức thì sự cố đã xảy ra, lò nổ, gây  
thiệt hại về người và tài sản. Sau khi sự cố xảy ra, cũng có người ủng hộ việc  
làm này, song cũng có người phản đối, thậm chí đề nghị truy cứu trách nhiệm  
hình sự.  
Việc BLHS năm 2015 bổ sung quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối  
với trường hợp rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học,  
kỹ thuật và công nghệ có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế tri  
thức, thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển. Quy định này là bảo đảm chắc  
chắn cho những ý tưởng mới, sáng tạo, cải tiến kỹ thuật và công nghệ, động  
viên các nhà khoa học nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật tiên  
tiến vì sự phồn vinh của đất nước.  
Theo quy định tại Điều 25 thì hành vi gây thiệt hại trong khi thực hiện  
việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ  
chỉ được coi là rủi ro và người gây ra rủi ro đó không phải chịu trách nhiệm  
hình sự nếu đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm và đã áp dụng đầy đủ các  
biện pháp đề phòng. Đồng thời quy định rõ trường hợp không áp dụng đúng  
quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ các biện pháp phòng ngừa hậu quả  
có thể xảy ra, gây thiệt hại cho xã hội thì người thực hiện hành vi này vẫn phải  
chịu trách nhiệm hình sự, nhằm ngăn chặn những việc làm bừa, làm ẩu nhưng  
viện lý do nghiên cứu khoa học, thử nghiệm… để trốn tránh trách nhiệm.  
19  
Điều 26. Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên  
Điều 26 BLHS quy định: “Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong  
khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng  
vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực  
hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh  
vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.  
Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự”.  
Theo quy định này thì người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi  
hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên không phải chịu trách  
nhiệm hình sự khi có đủ ba điều kiện sau đây:  
Một là, mệnh lệnh phải là của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực  
lượng vũ trang nhân dân (quân đội nhân dân và công an nhân dân). Nguyên tắc  
đặc thù trong lực lượng vũ trang nhân dân là “quân lệnh như sơn”, cấp dưới  
phải phục tùng cấp trên. Điều 26 Luật Sỹ quan quân đội nhân dân Việt Nam  
năm 1999 quy định về nghĩa vụ của sỹ quan là phải tuyệt đối phục tùng tổ  
chức, phục tùng chỉ huy, nghiêm chỉnh chấp hành điều lệnh, điều lệ… Điều 30  
của Luật Công an nhân dân năm 2014 quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của  
sỹ quan, hạ sỹ quan, chiến sỹ công an nhân dân là phải nghiêm chỉnh chấp  
hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,  
điều lệnh Công an nhân dân, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên.  
Hai là, việc thi hành mệnh lệnh đó là để thực hiện nhiệm vụ quốc  
phòng, an ninh. Trong quá trình soạn thảo cũng có ý kiến đề nghị đưa thêm cả  
nhiệm vụ phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, nếu mở như vậy thì quá rộng, dễ  
bị lạm dụng, gây ảnh hưởng đến quyền con người, quyền công dân, nhất là  
trong thực tiễn thực hiện các hoạt động tư pháp, như: viện cớ thi hành mệnh  
lệnh của cấp trên mà thực hiện hành vi bức cung, nhục hình nghi can để lấy lời  
khai... do vậy, việc mở rộng hơn đã không được chấp thuận. Trên tinh thần đó,  
Điều 26 đã giới hạn chỉ trong phạm vi thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an  
ninh.  
Ba là, người thi hành mệnh lệnh đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo  
người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh  
lệnh đó.  
Đồng thời, Điều 26 cũng quy định không loại trừ trách nhiệm hình sự  
đối với người chấp hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên trong lực  
lực vũ trang nhân dân mà phạm tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm  
lược (khoản 2 Điều 421); tội chống loài người (khoản 2 Điều 422) và tội phạm  
chiến tranh (khoản 2 Điều 423).  
CHƯƠNG V. THỜI HIỆU TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH  
SỰ, MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ  
Chương V gồm có 3 điều quy định về hai vấn đề: một là, thời hiệu truy  
cứu trách nhiệm hình sự (các điều 27, 28); hai là, căn cứ miễn trách nhiệm  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 231 trang Thùy Anh 20/05/2022 1220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Tập huấn Bộ luật hình sự năm 2015", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_tap_huan_bo_luat_hinh_su_nam_2015.pdf