Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại theo công ước viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa cisg và luật thương mại Việt Nam 2005
NGHĨA VỤ HẠN CHẾ THIỆT HẠI THEO CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 VỀ HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA CISG VÀ LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 2005
ThS. Nguyễn Ngọc Trâm Anh1
Nguyễn Ý Mỹ Trinh2
Tóm tắt: Bài viết tập trung làm rõ nghĩa vụ hạn chế thiệt hại của bên bị vi phạm trong
hợp đồng mua bán hàng hóa quy định trong công ước Viên về mua bán hàng hóa quốc tế
(CISG) và quy định trong Luật Thương mại Việt Nam 2005. Theo đó, những vấn đề liên
quan đến các quy tắc xác định thiệt hại bị hạn chế, tính hợp lý của biện pháp hạn chế thiệt
hại được phân tích trên cơ sở tùy tình huống xác định (case-by-case basis). Một số biện
pháp hạn chế thiệt hại như thay thế bằng hợp đồng khác, mua một phần hàng hóa thay thế
phần không phù hợp với hợp đồng từ bên thứ ba hay biện pháp bảo quản hàng hóa thường
được bên bị vi phạm áp dụng. Ngoài ra, các vấn đề liên quan đến nghĩa vụ chứng minh và
thời hạn hợp lý để thực hiện nghĩa vụ hạn chế thiệt hại cũng được đề cập.
Từ khóa: Công ước Viên 1980, hạn chế thiệt hại, Luật Thương mại 2005, tính hợp lý
trong xác định thiệt hại,
Abstract
The article focuses on clarifying the aggrieved party's duty to mitigate damage in a breach
of a sale contract according to the Vienna Convention on the International Sale of Goods
(CISG) and Vietnam Commercial Law 2005. The issue is analysed on a case-by-case basis.
Some measures to mitigate damages such as replacement with another contract, purchase
of a part of goods to replace the non-conforming part of the contract from a third party or
preservation of goods are often applied by the aggrieved party. In addition, issues related
to the burden of proof and the reasonable period of time to fulfil the obligation to limit
damages are also addressed. Keywords: CISG, mitigation of damages, reasonable test,
Vietnamese Commercial Law 2005
1 Khoa Luật, Trường Kinh tế, Luật và Quản lý nhà nước, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM (UEH).
2
Công ty Luật TNHH Luật Việt
377
1. Mở đầu:
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự (Điều 385 BLDS 2015). Hợp đồng có giá trị pháp lý ràng buộc các bên
giao kết dựa trên nguyên tắc “Pacta sunt servanda” (Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực
hiện giao kết). Trách nhiệm của các bên trong hợp đồng xuất phát từ hành vi thực hiện
nghĩa vụ như được thỏa thuận bởi các bên. (Pearce & Halson, 2007). Trong quá trình thực
hiện hợp đồng, khi một bên vi phạm nghĩa vụ và gây thiệt hại cho bên còn lại, trách nhiệm
bồi thường thiệt hại được hình thành như một trong những biện pháp có thể được áp dụng
nhằm khắc phục các hành vi vi phạm, đảm bảo/khôi phục lợi ích mà bên bị vi phạm có thể
sẽ được nhận nếu hợp đồng được thực hiện. Bồi thường thiệt hại từ hợp đồng có chức năng
bù đắp tổn thất về vật chất cho bên bị vi phạm, bảo đảm lợi ích có được từ thỏa thuận, từ
đó, bên bị vi phạm không còn phải gánh chịu thiệt hại phát sinh do vi phạm hợp đồng.
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, bồi thường thiệt hại được ghi nhận là một biện
pháp khắc phục vi phạm nghĩa vụ phổ biến trong cả Luật Thương mại Việt Nam 2005 và
Công ước Viên về Mua bán Hàng hóa quốc tế (CISG 1980) với những điều kiện áp dụng
khá tương tự nhau. Theo điều 303 Luật Thương mại 2005 và Điều 74 CISG, trừ những
trường hợp miễn trách nhiệm được quy định cụ thể, bồi thường thiệt hại phát sinh khi có
đủ ba yếu tố:
(i) Vi phạm hợp đồng (breach of contract)
(ii) Có thiệt hại thực tế (the actual loss)
(iii)Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại (causation link between
breach and loss)
Mục đích của biện pháp bồi thường thiệt hại không phải nhằm trừng phạt bên vi phạm
mà nhằm bảo vệ những lợi ích mà các bên mong muốn đạt được và bù đắp cho tổn thất.
Do vậy, nguyên tắc bồi thường toàn bộ (full compensation) được áp dụng (Corinna
Buschtöns. 2005), đồng thời để nguyên tắc này không bị lạm dụng, CISG nêu rõ những
thiệt hại được bồi thường không được vượt quá tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm
đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc giao kết hợp đồng như một hậu quả có
thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải
378
biết (Điều 74 CISG). Bên cạnh đó, trách nhiệm hạn chế tổn thất cũng được quy định để
đảm bảo khoản tiền bồi thường là hợp lý đối với bên vi phạm. Bài viết này tập trung phân
tích trách nhiệm hạn chế thiệt hại được quy định tại Điều 305 Luật Thương mại 2005 và
Điều 77 CISG nhằm xác định khoản tiền bồi thường thiệt hại hợp lý, cân bằng lợi ích cho
cả hai bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
2. Những quy định chung về nghĩa vụ hạn chế tổn thất theo Công ước Viên 1980 về Hợp
đồng mua bán hàng hóa và Luật Thương mại Việt Nam 2005
2.1. Nghĩa vụ hạn chế tổn thất theo Công ước Viên 1980 (CISG)
Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại được xác lập dựa trên nguyên tắc thiện chí (good faith)
trong giao kết hợp đồng (Riznik, 2010) khi cân bằng lợi ích giữa các bên và dựa vào yếu
tố quan hệ nhân quả. Một mặt, nghĩa vụ hạn chế tổn thất vừa khiến bên bị vi phạm ý thức
được việc phải thực hiện những phương án, những biện pháp hạn chế thiệt hại cho chính
bản thân khi nhận thấy hành vi vi phạm hợp đồng của bên còn lại. Mặt khác, nghĩa vụ
phòng ngừa trường hợp bên bị vi phạm dựa vào hành vi vi phạm này để trục lợi, yêu cầu
bên vi phạm bồi thường một khoản lợi ích lớn hơn rất nhiều so với thiệt hại trực tiếp từ
hành vi vi phạm khi không có những biện pháp hạn chế tổn thất thích hợp.
Điều 77 CISG quy định: “Bên nào viện dẫn sự vi phạm hợp đồng của bên kia thì phải
áp dụng những biện pháp hợp lý căn cứ vào các tình huống cụ thể để hạn chế tổn thất kể
cả khoản lợi bị bỏ lỡ do sự vi phạm hợp đồng gây ra. Nếu họ khꢀng làm điều đó, bên vi
phạm hợp đồng có thể yêu cầu giảm bớt một khoản tiền bồi thường thiệt hại bằng với mức
tổn thất đáng lẽ đã có thể hạn chế được”.
Theo đó, bên bị vi phạm phải thực hiện tất cả các biện pháp hợp lý để giảm thiểu thiệt
hại của mình nhằm đáp ứng nghĩa vụ hạn chế tổn thất khi bị vi phạm hợp đồng để nhận
được khoản bồi thường thích đáng. Trường hợp họ không thực hiện nghĩa vụ này thì họ có
thể sẽ bị giảm bớt khoản bồi thường đáng lẽ được hưởng
Như vậy, khoản tiền bồi thường thiệt hại có thể được xác định theo các bước sau.
Đầu tiên, tổng các thiệt hại thực tế được tính toán. Sau đó, tổng thiệt hại này phải trừ đi
cập đến vấn đề phân chia khoản bồi thường thiệt hại khi thiệt hại thực tế xảy ra có phần
379
nguyên nhân từ phía bên bị vi phạm do bên này không thực hiện nghĩa vụ hạn chế thiệt hại
bằng những biện pháp thích hợp nhằm giữ cho thiệt hại ở mức ít nhất có thể. (Corinna
Buschtöns. 2005). Ngoài những thiệt hại đã xảy ra, quy định còn hướng tới hạn chế những
thiệt hại có thể xảy ra ngay khi bên bị vi phạm biết hoặc phải biết đến nguy cơ về những
thiệt hại này từ hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Khi phân tích về thiệt hại bị hạn chế
trong vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng mua bán hàng hóa, ba quy tắc được đa phần các học
giả thống nhất đồng thuận (Barnett, 2018; Saidov & Cunnington, 2008):
Quy tắc thứ nhất: bên bị vi phạm phải áp dụng những biện pháp hợp lý để hạn chế
thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm gây ra và bên bị vi phạm sẽ không
được bồi thường những khoản thiệt hại mà đáng lẽ có thể tự mình hạn chế được khi không
áp dụng những biện pháp này hoặc áp dụng những biện pháp không hợp lý. Tóm lại, bên
bị vi phạm sẽ không được bồi thường khoản thiệt hại có thể được hạn chế
Quy tắc thứ hai: Khi bên bị vi phạm tiến hành hạn chế tổn thất gây ra bởi bên vi phạm
bằng những biện pháp thích hợp, bên bị vi phạm được bồi hoàn những chi phí đã bỏ ra và
được bồi thường khoản thiệt hại thực tế sau cùng, kể cả khi thiệt hại thực tế lớn hơn cả giá
trị thiệt hại nếu không có việc thực hiện nghĩa vụ hạn chế tổn thất. Nhìn chung, bên bị vi
phạm sẽ được bồi thường khoản chi phí hợp lý đã bỏ ra để hạn chế tổn thất.
Quy tắc thứ ba: Khi bên bị vi phạm đã thực hiện các bước để hạn chế thiệt hại do hành
vi vi phạm từ bên còn lại, bên vi phạm đương nhiên được hưởng lợi từ những biện pháp
hạn chế này. Bên vi phạm chỉ phải bồi thường cho khoản thiệt hại mà bên bị vi phạm đã
không thể hạn chế được. Tóm lại, bên bị vi phạm không được bồi thường cho những thiệt
hại đã được hạn chế.
Vấn đề xác định tính hợp lý của biện pháp hạn chế tổn thất liên quan mật thiết đến mối
quan hệ nhân quả (legal causation). Bởi lẽ khi bên bị vi phạm thực hiện việc hạn chế tổn
thất không hợp lý, những thiệt hại trên thực tế do bên vi phạm gây ra không hoàn toàn là
những thiệt hại “có thể dự đoán trước” theo thử nghiệm “nếu không có hành vi vi phạm
hợp đồng này thì thiệt hại này đã không xảy ra” (“but for” test). Thay vào đó, quy tắc về
sự kiện cắt ngang (supervening cause) sẽ được áp dụng. Nếu bên bị vi phạm thực hiện hạn
chế tổn thất một cách không hợp lý thì hành vi của bên này sẽ được xem là một nguyên
380
nhân mới gây ra thiệt hại thực tế mà bên vi phạm không có trách nhiệm đối với hành vi
này (Thomson Reuteurs, 2014)
Vì điều khoản này chủ yếu dựa vào nguyên tắc “hợp lý”, nên toà án và các cơ quan
trọng tài có thể hiểu nó theo nghĩa rộng. Tức là không cần phải dựa vào những quy định
cứng nhắc trong pháp luật mà có thể áp dụng một cách mềm dẻo dựa vào các tình huống
cụ thể. Nhìn chung, tòa án và trọng tài sẽ đánh giá tính phù hợp của các biện pháp hạn chế
tổn thất mà bên bị thiệt hại tiến hành dựa trên việc phân tích nhiều yếu tố liên quan, có thể
kể đến như thời hạn hợp lý để tiến hành hạn chế tổn thất, tính dễ hư hỏng của hàng hóa, sự
giao động của giá cả thị trường, yêu cầu đặc thù của thị trường hàng hóa và nhiều yếu tố
khác. Biện pháp hạn chế thiệt hại là hợp lý khi tòa hoặc trọng tài xem xét một người bình
thường (reasonable person) với những đặc điểm tương tự trong hoàn cảnh tương tự sẽ hạn
chế thiệt hại bằng những biện pháp này dựa trên cơ sở cân nhắc những tập quán thương
mại liên quan. (Stoll and Gruber, 2005)
Trong CISG, nghĩa vụ thực hiện các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất của bên bị
vi phạm hợp đồng được áp dụng trong tất cả các trường hợp khi có hành vi vi phạm xảy ra.
Nghĩa vụ ấy phải được thực hiện không chỉ khi có tổn thất xảy ra mà còn có thể được thực
hiện trước khi tổn thấy ấy phát sinh. Nghĩa là các biện pháp đó sẽ được thực hiện ngay khi
một trong các bên trong hợp đồng có thể lường trước được hành vi vi phạm của bên kia.
Như vậy, nghĩa vụ hạn chế tổn thất phải được cả hai bên dự liệu xuyên suốt quá trình thưc
hiện hợp đồng, kể từ khi bắt đầu giao kết một hợp đồng cho tới khi kết thúc hợp đồng, tức
quyền và nghĩa vụ của cả hai bên đã hoàn tất.
Trường hợp điển hình như bên bán bán 10 tấn chuối cho bên mua, tuy hợp đồng rõ
ràng là sẽ giao hàng tại cảng của bên mua, nhưng trong quá trình tiến hành tìm hiểu và ký
kết hợp đồng thì hai bên phải tiên liệu rủi ro thiệt hại trong trường hợp có vi phạm hợp
đồng xảy ra và có biện pháp đề phòng. Về phía công ty bán có thể thực hiện đóng gói, vận
chuyển, lưu kho trái cây trong điều kiện nhiệt độ phù hợp, thu mua trái tươi có thời gian sử
dụng lâu hơn một khoảng thời gian đủ để có thể phân phối hoặc bán cho đối tác khác trong
trường hợp bị vi phạm hợp đồng, còn về phần bên mua có thể tiến hành tìm nguồn hàng dự
phòng, dự trữ nguồn hàng để có thể chờ bên bán giao đến trong trường hợp bị trễ thời hạn
giao. Nếu cả hai bên trong quá trình chuẩn bị ký kết hợp đồng đã tìm hiểu kỹ và lên kế
381
hoạch dự phòng cho các trường hợp vi phạm hợp đồng xảy ra thì khi có vi phạm cả hai bên
đều giảm được tổn thất đáng kể.
Mục tiêu của Điều 77 CISG là khuyến khích sự giảm thiểu thiệt hại. Để đạt được điều
đó, các biện pháp nhằm giảm thiểu thiệt hại sẽ được áp dụng ngay khi một bên trong hợp
đồng có thể dự đoán trước nguy cơ vi phạm hợp đồng của bên còn lại cũng như những tổn
thất tiềm tàng của mình.
2.2. Nghĩa vụ hạn chế tổn thất theo Luật Thương mại Việt Nam 2005
Tương tự CISG, Điều 305 Luật Thương mại 2005 có những điểm tương đồng với
CISG khi ghi nhận: “Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý
để hạn chế tổn thất kể cả tổn thất đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do hành
vi vi phạm hợp đồng gây ra; nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt hại khꢀng áp dụng các biện
pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại
bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được.” Nghĩa vụ hạn chế tổn thất này không chỉ
áp dụng đối với hợp đồng thương mại trong mua bán hàng hóa mà còn áp dụng chung cho
tất cả các loại hợp đồng thương mại khác.
Thực tế, có quan điểm cho rằng Điều 305 Luật Thương mại 2005 là sự mô phỏng CISG
về quy định đối với nghĩa vụ hạn chế thiệt hại. (Đỗ Thành Công, 2010). Tuy nhiên, việc
quy định hạn chế thiệt hại là một “nghĩa vụ” chưa hoàn toàn hợp lý vì nghĩa vụ này đối
ứng với quyền của bên vi phạm. Bên vi phạm không có quyền buộc bên bị vi phạm thực
hiện các biện pháp cần thiết nhằm hạn chế tổn thất. Sẽ hợp lý hơn khi tham khảo các quy
định của Bộ nguyên tắc của Unidroit về Hợp đồng Thương mại quốc tế tại Điều 7.4.8 khi
ghi nhận:
“1) Bên có nghĩa vụ khꢀng chịu trách nhiệm đối với thiệt hại mà bên có quyền lẽ ra có
thể hạn chế được bằng những biện pháp hợp lý. 2) Bên có quyền có thể đòi đền bù những
chi phí hợp lý đã chi nhằm hạn chế thiệt hại”
Trong thực tiễn xét xử, Tòa án cũng xem xét nghĩa vụ hạn chế thiệt hại để đánh giá
mức bổi thường hợp lý nhằm cân bằng lợi ích của các bên trong quan hệ hợp đồng. Tại bản
Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, hai bên tranh chấp hợp đồng hợp đồng
382
mua bán tinh bột sắn với giá trị 3.500.000.000 đồng. Bên bán không thể giao hàng đầy đủ
cho bên mua do những khó khăn về dịch bệnh khảm lá khoai mì. Bên mua phải mua hàng
của bên cung ứng thứ ba với mức giá là 5.250.000.000 đồng, dẫn đến chênh lệch về giá là
1.750.000.000 đồng. Bên mua xác định 1.750.000.000 đồng là chi phí bỏ ra để hạn chế tổn
thất do hành vi vi phạm của bên mua và yêu cầu bên bán bồi thường thiệt hại chênh lệch
này. Dựa vào Điều 305 Luật Thương mại 2005, Tòa Sơ thẩm nhận định khoản chi phí này
không hợp lý nên đã bác yêu cầu này của bên mua. Trong bản án phúc thẩm
07/2018/KDTM-PT ngày 23/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh, mức giá chênh
lệch được xác định lại dựa trên đánh giá thị trường và tình hình kinh doanh của các bên và
các bên đã thỏa thuận được chi phí hợp lý cho hạn chế tổn thất được tính vào khoản tiền
bồi thường thiệt hại và khoản phạt vi phạm là 800.000.000 đồng.
Trong một vụ việc khác, trong tranh chấp về hợp đồng vận chuyển, công ty A và công
ty B ký kết hợp đồng vận chuyển nhựa đường trong 03 năm (2004-2007). Tuy nhiên, từ
tháng 04/2006, công ty A không nhận được hàng từ bên thứ ba nên không có hàng để công
ty B vận chuyển. Công ty B khởi kiện yêu cầu công ty A bồi thường số tiền lợi nhuận cho
các tháng còn lại của hợp đồng. Bản án số 04/2008/KDTM-PT của Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai có nhận định rằng hợp đồng vận chuyển được hai bên ký kết có quy định về số
lượng xe và chủng loại xe đặc thù chuyên dụng để vận chuyển nhựa đường, không vận
chuyển nhựa đường thì không thể sử dụng để vận chuyển hàng hóa khác. Thời hạn 03 năm
là khoảng thời gian tối thiểu để thu hồi vốn. Do đó, việc công ty A chấm dứt hợp đồng
trước thời hạn gây thiệt hại cho công ty B nên phải bồi thường khoản lợi nhuận cho các
tháng còn lại. Có thể thấy Tòa không xét đến việc công ty B phải hạn chế tổn thất do đánh
giá rằng xe chở nhựa đường là xe chuyên dụng, không thể sử dụng để vận chuyển hàng
hóa khác nên không có biện pháp hạn chế tổn thất hợp lý trong trường hợp này.
Việc đánh giá thế nào là biện pháp hợp lý và chi phí hợp lý cho nghĩa vụ hạn chế tổn
thất còn chung chung, chưa rõ ràng, dẫn đến nhiều khó khăn trong xét xử các tranh chấp
liên quan. Cần có những nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi hoặc có những án lệ cụ thể
hướng dẫn để quá trình giải quyết tranh chấp liên quan đến bồi thường thiệt hại được diễn
ra thuận lợi hơn.
383
3. Một số biện pháp hạn chế tổn thất:
Đánh giá tính hợp lý của biện pháp hạn chế tổn thất cần dựa vào các tình tiết cụ thể.
Thông thường, thẩm phán hoặc trọng tài khi giải quyết các tranh chấp sẽ đánh giá tính hợp
lý dựa vào suy luận nếu một người có điều kiện tương tự, trong hoàn cảnh tương tự, với vị
trí tương tự có thực hiện những biện pháp hạn chế như bên bị vi phạm đã thực hiện trong
tình huống tương tự hay không. Một số biện pháp thường được sử dụng phổ biến được biến
đến như:
3.1 Thay thế bằng hợp đồng khác (The replacement transaction):
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, việc thay đổi bên mua hoặc bên bán là
biện pháp điển hình nhất để hạn chế tổn thất và bảo tồn lợi ích lớn nhất cho bên bị vi phạm
khi hợp đồng bị hủy hoặc chấm dứt.
Nguyên nhân dẫn đến việc bên mua tìm bên bán khác hoặc bên bán tìm bên mua khác
khá đa dạng, có thể kể đến như: khi bên mua không thực hiện nghĩa vụ nhận hàng, bên bán
phải tìm bên mua khác để tránh hàng hóa bị hư hỏng; bên mua từ chối nhận hàng với lý do
không hợp lý trong khi kinh phí để lưu kho là quá cao so với năng lực tài chính của bên
bán; hoặc khi bên bán không giao hàng mà hàng hóa lại là nguyên liệu trong chuỗi sản xuất
của bên mua có liên quan đến hợp đồng mua bán với bên thứ ba. Thay thế hợp đồng là biện
pháp hạn chế thiệt hại với mục đích khiến cho thiệt hại thực tế nhỏ hơn thiệt hại đáng lẽ sẽ
xảy ra.
Chẳng hạn như trường hợp A ký với B hợp đồng mua bán bột mì, cụ thể A giao hàng
cho B tại cảng X. Tuy nhiên, tới ngày nhận hàng B không thực hiện các thủ tục thanh toán
cho A nên A đã lưu hàng tại kho ở cảng X. Chi phí lưu kho gia tăng và bột mì để lâu nên
bị hư hỏng toàn bộ. Sau đó, A kiện đòi B bồi thường thiệt hại cho toàn bộ lô hàng do B vi
phạm hợp đồng. Trong trường hợp này, trên thực tế A có thể sẽ chỉ nhận được một phần
khoản bồi thường thiệt hại so với tổng thiệt hại thực tế là toàn bộ lô hàng. Lý do là A đã
không thực hiện nghĩa vụ hạn chế thiệt hại của mình. Nếu A bán lô hàng đó cho người thứ
ba thì những tổn thất mà A có thể hạn chế được rất lớn. Tuy nhiên, đó không phải là điều
kiện để loại trừ nghĩa vụ bồi thường của B, nói cách khác, B vẫn phải bồi thường đối với
384
những tổn thất A đã gánh chịu trên thực tế cho dù A đã thực hiện tất cả các biện pháp hạn
chế thiệt hại hợp lý.
3.2. Mua một phần hàng hóa thay thế phần bị hư hỏng từ nhà cung cấp thứ ba:
Ví dụ trong trường hợp bên mua phát hiện và ghi nhận lỗi hàng hóa là máy nén khí
không phù hợp với hợp đồng, bên bán là nhà sản xuất sẽ phải bồi thường một khoản tiền
bao gồm luôn cả chi phí mà bên mua sẽ dùng để khắc phục khiếm khuyết. Khoản bồi
thường lúc này sẽ bao gồm cả tiền mua phần hàng thay thế từ bên thứ ba để hạn chế thiệt
hại ban đầu từ hành vi vi phạm hợp đồng của bên bán, phí lưu trữ hàng hóa không đúng
như thỏa thuận và phần thiệt hại từ việc giá cả bị giảm khi bên mua bán lại cho bên khác
3.3. Bảo quản hàng hóa
Theo một số phán quyết trọng tài được ghi nhận thì nghĩa vụ hạn chế thiệt hại của bên
bị vi phạm dường như gắn với nghĩa vụ bảo quản hàng hóa của mình theo các Điều từ 85
đến 88. Ví dụ, trong một phán quyết của CIETAC (CIETAC,1991), hàng hoá được bên
mua trả lại cho bên bán theo thỏa thuận của hai bên sau khi bên mua phát hiện hàng hoá
không phù hợp với hợp đồng. Tuy nhiên, hàng hoá được lưu kho ở Hồng Kông mà không
vận chuyển đến cảng đích ở Thẩm Quyến, và việc này đã khiến bên bán phải chịu chi phí
lưu kho rất cao. Toà trọng tài đã ra quyết định căn cứ theo các Điều 86 và 88(2) rằng bên
mua có nghĩa vụ bảo quản và được bán ngay hàng hoá nếu chúng có dấu hiệu hư hỏng.
Việc bên mua không thực hiện như trên dẫn đến sự gia tăng tổn thất; do đó, căn cứ theo
Điều 77, có những tổn thất nhất định là do người mua tự gây ra.
Điều 86 CISG ghi nhận: “1. Nếu người mua đã nhận hàng và có ý định sử dụng quyền
từ chối khꢀng nhận hàng chiếu theo hợp đồng hay Cꢀng ước này, thì họ phải thi hành các
biện pháp hợp lý trong những tình huống như vậy, để bảo quản hàng hóa. Người mua có
quyền giữ lại hàng hóa cho tới khi nào người bán hoàn trả cho họ các chi phí hợp lý.
2. Nếu hàng hóa gửi đi cho người mua đã được đặt dưới quyền định đoạt của người
này tại nơi đến và nếu người mua sử dụng quyền từ chối hàng thì họ phải tiếp nhận hàng
hóa, chi phí do người bán chịu với điều kiện là người mua có thể làm việc này mà khꢀng
phải trả tiền hàng và khꢀng gặp trở ngại hay các chi phí khꢀng hợp lý. Quy định này khꢀng
áp dụng nếu người bán hiện diện tại nơi đến hay tại nơi đó có người có thẩm quyền để
385
nhận hàng hóa cho người bán và chi phí do người bán chịu. Những quyền lợi và nghĩa vụ
của người mua khi người này tiếp nhận hàng hóa chiếu theo khoản này được điều chỉnh
bằng quy định tại khoản trên.” Và Điều 88 (2) CISG có nêu rõ: “Nếu hàng hóa thuộc loại
hàng mau hỏng hay khi việc bảo quản nó sẽ gây ra các chi phí phi lý thì bên nào có nghĩa
vụ bảo quản hàng hóa chiếu theo các điều 85 hay 86 phải tiến hành các biện pháp hợp lý
để bán hàng đi. Theo khả năng của mình họ phải thꢀng báo cho bên kia biết ý định phát
mại.”
Ngoài ra, trong một số vụ việc, việc thanh toán chi phí vận chuyển và lưu kho cùng
với việc bên bị vi phạm hủy hợp đồng sớm trước khi có thiệt hại xảy ra cũng có thể được
đánh giá là biện pháp hạn chế tổn thất nếu có cơ sở tin chắc rằng một bên sẽ vi phạm nghĩa
vụ hợp đồng. Khi đó, bên bán không còn gánh nặng giao hàng và bên mua không phải đợi
đến thời hạn giao hàng và tổn thất thực tế đã xảy ra để khắc phục những tổn thất thực tế
này.
3.4. Giảm giá bán lại hàng hóa cho bên thứ ba
Một vụ việc cụ thể được giải quyết theo CISG bởi ICC (International Court of
Arbitration award no. 8786 of January 1997, khi bên bán giao hàng hóa là quần áo trễ cho
bên mua, khi đó đã hết mùa khuyến mãi giảm giá. Bên mua nhận hàng và khi bán lại cho
bên phân phối thứ ba, bên mua đã phải giảm 10% giá bán do sự giao hàng trễ này. ICC
nhận định đây là một biện pháp hạn chế tổn thất hợp lý vì yêu cầu bên bán ban đầu phải
bồi thường thiệt hại là khoản giá cả chênh lệch như một chi phí hợp lý để hạn chế tổn thất
của bên mua ban đầu.
Tóm lại, một số biện pháp hạn chế tổn thất phổ biến chỉ có tính tương đối. Việc chọn
lựa áp dụng biện pháp nào còn phụ thuộc vào vị thế của bên bị vi phạm (là bên mua hay
bên bán), các đánh giá về tình hình thị trường, giá cả, tính dễ hư hỏng hoặc tính đặc thù
của đối tượng hợp đồng để thực hiện nghĩa vụ hạn chế tổn thất một cách hợp lý. Một khi
biện pháp hạn chế là hợp lý, bên bị vi phạm sẽ được bồi hoàn khoản chi phí đã bỏ ra để
thực hiện các biện pháp này, dù cho tổn thất có được khắc phục trên thực tế hay không.
386
4. Nghĩa vụ chứng minh
Về nguyên tắc trong tố tụng, nghĩa vụ chứng minh trong một vụ việc tranh chấp sẽ
thuộc về bên muốn viện dẫn những tình tiết, sự kiện làm căn cứ cho yêu cầu hoặc phản đối
của mình. Do đó, nghĩa vụ chứng minh sẽ phụ thuộc vào phạm vi yêu cầu hoặc phạm vi ý
kiến phản đối. Tùy theo những điều kiện khách quan trong quá trình giải quyết tranh chấp
mà nghĩa vụ chứng minh có thể được di chuyển giữa các bên. (Nguyễn Minh Hằng, n.d)
Nghĩa vụ chứng minh đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại và hạn chế thiệt hại được
bồi thường được phân định rõ cho các bên trong quan hệ hợp đồng. Cụ thể, đối với yêu cầu
bồi thường thiệt hại từ hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm, bên bị vi phạm sẽ có
nghĩa vụ “chứng minh tổn thất mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi
trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu khꢀng có hành vi vi phạm” (Điều 304
LTM 2005). Bên vi phạm có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi thường bằng mức tổn thất
đáng lẽ có thể hạn chế được. Để thực hiện quyền yêu cầu này, bên vi phạm sẽ phải chứng
minh rằng bên bị vi phạm đã không thực hiện đầy đủ trách nhiệm để nhằm hạn chế bồi
thường thiệt hại và cho thấy được bên bị vi phạm nên hành động như thế nào để giảm thiểu
tổn thất và những tổn thất cụ thể nào nên được giảm thiểu. Như vậy, đối với vấn đề hạn
chế tổn thất, nghĩa vụ chứng minh được chuyển cho bên vi phạm. Bên bị vi phạm sẽ chứng
minh mình đã thực hiện nghĩa vụ hạn chế tổn thất bằng những phương cách thức thích hợp
nếu muốn phản đối yêu cầu mà bên vi phạm đưa ra.
5. Thời hạn thực hiện nghĩa vụ hạn chế tổn thất
Cả CISG và Luật Thương mại Việt Nam đều không đề cập cụ thể đến thời hạn thực
hiện nghĩa vụ hạn chế tổn thất. Tuy nhiên, suy luận từ “khoảng thời gian hợp lý” tại Điều
75 và 76 CISG về việc người bán mua hàng thay thế và người bán bán lại hàng như những
biện pháp để hạn chế tổn thất, thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hạn chế tổn thất phụ thuộc
vào thỏa thuận của các bên hoặc được thực hiện trong thời gian hợp lý tùy vào từng trường
hợp cụ thể như tính chất hàng hóa, kinh nghiệm, trình độ của các bên. Bên bị vi phạm phải
đưa ra bằng chứng xác nhận rằng đã thực hiện nghĩa vụ hạn chế thiệt hại được gây ra do
bên kia vi phạm hợp đồng sớm nhất có thể, và đã thực hiện trong khoảng thời gian hợp lý
tùy theo trường hợp.
387
Trong một vụ việc được ghi nhận giữa bên bán gạo quốc tịch Việt Nam (bên nguyên
đơn) và bên mua gạo quốc tịch Trung Quốc (bên bị đơn), tòa án nhận thấy rằng bên bán đã
thực hiện đầy đủ việc giảm thiểu thiệt hại gây ra do bên mua vi phạm hợp đồng trong khả
năng và khoản thời gian thích hợp. Bên bán đã bán lại lô gạo trong vòng 2 ngày sau khi
thấy rằng bên mua đã từ chối nhận hàng. Bên bán không chịu trách nhiệm cho việc giá gạo
bị giảm trên thị trường tại thời điểm hợp đồng bị hủy và bán lại sản phẩm cho bên thứ ba
nên họ đã được phán quyết được đền bù đầy đủ khoản thiệt hại từ việc bị vi phạm hợp
đồng.
Đặc biệt, đối với hàng hóa là hàng dễ hư hỏng, khoảng thời gian hợp lý được xác định
là một khoảng thời gian khá ngắn. Bên bị vi phạm cần hành động nhanh chóng để đảm bảo
chất lượng hàng hóa không bị suy giảm nặng nề.
Tương tự, giữa một công ty đóng giày của Ý (bên nguyên đơn) và một người mua Đức
(bên bị đơn), tòa đã ra phán quyết bên bán đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giảm thiệt hại của
mình bằng việc bán lại hàng hóa trong hai tháng sau khi hủy hợp đồng. Sau khi bên mua
vi phạm hợp đồng, bên bán đã hủy hợp đồng vào ngày 7 tháng 8. Bên bán, tức là bên bị vi
phạm, đã bán lại lô giày cho những lái buôn lẻ, người mua lại những hàng tồn vào cuối
mùa sale từ ngày 6 đến ngày 15 tháng 10. Tòa đã thấy rằng bên bị vi phạm đã thực hiện
nghĩa vụ giảm thiệt hại trong khoản thời gian hợp lý, và tòa đã chấp nhận lập luận của bên
bị vi phạm là trong khoảng thời gian sau tháng 8, tất cả các nhà bán lẻ đều đã mua đủ lượng
hàng dự trữ cho mùa sale cuối năm, nên họ không có nhu cầu mua thêm, do đó phải đến
tháng 10 thì bên mua mới có thể bán lại hàng cho bên khác để giảm thiểu thiệt hại (CISG
Advisory Council, n.d).
Trong một trường hợp khác được ghi nhận, tòa đã giải quyết vụ kiện giữa bên mua
quốc tịch Anh (bên nguyên đơn) và bên bán quốc tịch Đức (bên bị đơn) trong thương vụ
mua bán Sắt mô- lyp- đen. Bên bán đã không nhận được hàng từ bên cung cấp nguồn hàng
của họ nên đã không thể giao hàng cho bên mua. Bên mua đã mua hàng từ những nguồn
khác trong khoản thời gian 2 tuần sau khi giao dịch với bên bán ban đầu không đạt được
mục đích và đã phải mua với một mức giá khác cao hơn. Bên mua đã chịu thiệt hại về giá
cả tăng cao do thị trường và trễ nãi trong kinh doanh của họ, nhưng thiệt hại đã được giảm
xuống chỉ còn là vấn đề giữa sự chênh lệch mức giá bán.
388
Như vậy, từ các ví dụ trên, khoảng thời gian hợp lý dành cho hàng hóa như giày hay
sắt có thể dài hơn do thời hạn bảo quản của những loại hàng hóa này thường dài hơn loại
hàng hóa dễ hư hỏng khác như lương thực, thực phẩm.
6. Kết luận
Nghĩa vụ hạn chế tổn thất là nghĩa vụ của bên bị vi phạm thực hiện các biện pháp hợp
lý nhằm hạn chế thiệt hại do hành vi của bên vi phạm gây ra. Nghĩa vụ này được ghi nhận
trong pháp luật nhiều quốc gia và các hiệp ước quốc tế, điển hình như trong hoạt động mua
bán hàng hóa quốc tế, CISG có đề cập đến nghĩa vụ hạn chế tổn thất tại Điều 77. Luật
Thương mại Việt Nam cũng có quy định tương tự tại Điều 305. Nhìn chung, bên bị vi phạm
sẽ không được bồi thường những khoản thiệt hại đã được hạn chế và có thể được hạn chế
bằng những biện pháp hợp lý. Tuy nhiên, bên bị vi phạm sẽ được bồi thường thiệt hại khi
đã thực hiện những biện pháp này, dù cho những thiệt hại thực tế có thể lớn hơn giá trị thiệt
hại khi không thực hiện những biện pháp hạn chế tổn thất hợp lý. Tính hợp lý của các biện
pháp và thời hạn thực hiện các biện pháp được đánh giá linh hoạt theo các trường hợp cụ
thể, dựa vào mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại xảy ra. Các biện pháp được áp
dụng phổ biến có thể kể đến như thay thế bằng hợp đồng khác, mua một phần hàng hóa
thay thế phần không phù hợp với hợp đồng từ bên thứ ba hay biện pháp bảo quản. Hiện
nay, trong thực tế xét xử còn nhiều vướng mắc do quy định về xác định tính hợp lý trong
nghĩa vụ hạn chế tổn thất còn chung chung, chưa rõ ràng. Cần có những hướng dẫn, án lệ
để quá trình giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại được tiến hành thuận lợi hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Bộ nguyên tắc của Unidroit về Hợp đồng Thương mại quốc tế
Luật Thương mại 2005
Bản án 07/2018/KDTM-PT ngày 23/11/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán. Tòa án
Nhân dân tỉnh Tây Ninh
389
bán Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh
Bản án số 04/2008/KDTM-PT của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp
đồng vận chuyển
Barnett, K. (2018). A Critical Consideration of Substitutive Awards in Contract
CISG Advisory Council. (n.d). CISG Advisory Council Opinion No.5.
_Case_Law_Overview.pdf
Corinna Buschtöns. (2005). Damages under the CISG: selected problems (LLM).
University of Cape Town.
D Saidov and R Cunnington (2008), Contract Damages: Domestic and International
Perspectives (Oxford, Hart Publishing)
Đỗ Thành Công. (2010). Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Tạp chí
khoa học và pháp lý số 04(59)/2010
ICC award no. 8786 of January 1997 (Clothing case);
Koziol H. (2005). REDUCTION IN DAMAGES ACCORDING TO ARTICLE 77
CISG. JLC. 25(385)
Nguyễn Minh Hằng. Phân định ranh giới giữa nghĩa vụ chứng minh và trách nhiệm
Pearce, D. and Halson, R. (2007) Damages for breach of contract: compensation,
restitution, and vindication. Oxford Journal of Legal Studies . ISSN 1464-3820 (In Press)
Thomson Reuters, UK Ltd, Breach Date Rule, Law Quarterly Review, 2014
390
Phán quyết của Ủy ban Trọng tài Kinh tế và Thương mại quốc tế Trung Quốc CIETAC
ngày 6/6/1991 (hàng hóa là chất Cysteine Monohydrate).
RIZNIK P, (2010). Some Aspects of Loss Mitigation in International Sales of Goods,
4 Vindobona Journal of International Commercial Law and Arbitration, 267-282.
Stoll H & Gruber G. (2005) in P. Schlechtriem & I. Schwenzer, Commentary on the
U.N. Convention on the International Sale of Goods, 2d edition, Oxford, New York
391
Bạn đang xem tài liệu "Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại theo công ước viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa cisg và luật thương mại Việt Nam 2005", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
nghia_vu_han_che_thiet_hai_theo_cong_uoc_vien_1980_ve_hop_do.pdf