Giáo trình môn Giáo dục thể chất

BỘ LAO ĐỘNG THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI  
TỔNG CỤC GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP  
TÀI LIỆU DẠY HỌC  
MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT  
TRONG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ TRUNG CẤP  
(Kèm theo Công văn số 147/TCGDNN-ĐTCQ ngày 22 tháng 01 năm 2020  
của Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp)  
MỤC LỤC  
1
2
BÀI MỞ ĐẦU  
1. Vị trí, tính chất môn học  
1.1. Vị trí  
Môn học Giáo dục thể chất là môn học điều kiện, bắt buộc thuộc khối các  
môn học chung trong chương trình đào tạo trình độ trung cấp.  
1.2. Tính chất  
Chương trình môn học bao gồm một số nội dung cơ bản về thể dục, thể thao;  
giúp người học tập luyện để nâng cao sức khỏe, phát triển thể lực, tầm vóc, góp  
phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện.  
2. Mục tiêu môn học  
Sau khi học xong môn học này, người học đạt được:  
2.1. Về kiến thức  
Trình bày được tác dụng, các kỹ thuật cơ bản một số quy định của luật về  
môn thể dục ththao được học đrèn luyện sức khỏe, phát triển thể lực chung.  
2.2 Về kỹ năng  
Tự tập luyện, rèn luyện đúng các yêu cầu về kỹ thuật, quy định của môn thể  
dục thể thao được học.  
2.3. Về năng lực tự chủ và trách nhiệm  
Có ý thức tự giác và hình thành thói quen tập luyện thể dục thể thao hàng  
ngày để góp phần bảo đảm sức khỏe trong học tập, lao động và trong các hoạt  
động khác.  
3. Nội dung chính  
Giáo trình bao gồm Bài mở đầu và 2 chương:  
- Chương 1: Giáo dục thể chất chung bao gồm 2 bài: Thể dục cơ bản và  
Điền kinh.  
- Chương 2: Chuyên đề thể dục thể thảo tự chọn, bao gồm 6 chuyên đề: Môn  
bơi lội; Môn cầu lông; Môn bóng chuyền; Môn bóng rổ; Môn bóng đá; Môn bóng  
bàn.  
4. Tổ chức dạy học đánh giá kết quả học tập  
4.1. Tổ chức dạy học  
Đối với giảng viên: Khuyến khích giảng viên áp dụng phương pháp dạy học  
tích cực, kết hợp giảng dạy môn học với các hoạt động thể dục thể thao khác; từng  
bước hình thành thói quen cho người học áp dụng các bài tập được học trong việc  
rèn luyện thể dục thể thao hàng ngày.  
4
         
Quá trình học tập thể diễn ra với những cách tổ chức đa dạng lôi cuốn  
người học tham gia cùng tập thể với sự dẫn dắt, gợi mở, cố vấn của giảng viên với  
các hình thức tổ chức tập luyện, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu đặc điểm của  
từng môn thể thao: Tập luyện đồng loạt; tập luyện lần lượt; tập luyện theo nhóm;  
tập luyện cá nhân.  
Đối với người học: Cần chú trọng các yêu cầu kỹ thuật phương pháp tập  
luyện trong học tập để rèn luyện, tự rèn luyện, hình thành thói quen thể dục thể  
thao trong và ngoài giờ học.  
4.2. Phương pháp đánh giá  
Việc đánh giá kết quả học tập của người học được thực hiện theo quy định  
tại Thông tư số 12/2018/TT-BLĐTBXH ngày 26/9/2018 của Bộ trưởng Bộ Lao  
động - Thương binh và Xã hội ban hành chương trình môn học Giáo dục thể chất  
thuộc khối các môn học chung trong chương trình đào tạo trình độ trung cấp, trình  
độ cao đẳng.  
5
Chương I: GIÁO DỤC THỂ CHẤT CHUNG  
Bài 1: THỂ DỤC CƠ BẢN  
1. Giới thiệu về thể dục cơ bản  
Thể dục cơ bản loại hình thể dục nội dung chính của nó bao gồm các  
bài tập phát triển chung liên quan đến hoạt động của các bộ phận cơ thể, như tay,  
chân, đầu, thân, mình; các kĩ năng vận động cơ bản như đi, chạy, nhảy, ném, bắt,  
leo trèo; các bài tập đội hình, các bài tập trên các dụng cụ thể dục (thang gióng,  
ghế thể dục, cầu…); các bài tập thể dục dụng cụ đơn giản.  
Thể dục cơ bản phù hợp với mọi lứa tuổi, mọi đối tượng, nhưng thường  
được vận dụng trong các trường học nhằm phát triển các kĩ năng vận động cần  
thiết cho cuộc sống, hình thành các tư thế đúng, đẹp; phát triển khả năng phối hợp  
vận động và các tố chất thể lực như sức nhanh, sức mạnh, sức bền cho người học.  
2. Thể dục tay không liên hoàn  
2.1. Tác dụng của thể dục tay không liên hoàn  
Thể dục tay không liên hoàn giúp cho người tập duy trì và nâng cao sức  
khỏe, trong đó giúp phát triển các bắp thịt ở vai, ngực và chi trên. Ngoài ra, còn  
giúp hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động và nâng cao năng lực làm việc.  
2.2. Các động tác kỹ thuật  
Bài thể dục tay không liên hoàn (32 động tác)1  
Tư thế chuẩn bị: Đứng thẳng, chân đứng tư  
thế nghiêm, mặt nhìn về phía trước.  
Động tác 1: Tay trái đưa ngang, duỗi thẳng,  
lòng bàn tay úp.  
1
Bộ Giáo dục Đào tạo: Tài liệu giảng dạy Thể dục thể thao, dùng cho các Trường Đại học, Cao đẳng và  
Trung cấp chuyên nghiệp. Nội, Nhà Xuất bản Giáo dục, 1997; Phan Thế Nguyên, Lê Thị Thanh Thủy, Trần Thị  
Thu 2005. Giáo trình Thể dục cơ bản. Nội: NXB Thể dục thể thao.  
6
           
Động tác 2: Hai tay giang ngang, lòng bàn tay  
úp, các ngón tay khép.  
Động tác 3: Tay trái đưa ra trước, lòng bàn tay  
xoay hướng vào trong.  
Động tác 4: Hai tay đưa ra trước, lòng bàn tay  
úp.  
Động tác 5: Tay trái đưa lên cao, lòng bàn tay  
hướng vào trong, mặt nhìn chếch lên trên 30o..  
Động tác 6: Hai tay đưa lên cao, tạo thành  
một góc 300.  
Động tác 7: Hai tay đưa ngang, lòng bàn tay  
úp, mặt nhìn thẳng về trước.  
7
Động tác 8: Hai tay hạ xuống, về tư thế cơ  
bản.  
Động tác 9: Hai tay đưa ra sau, lòng bàn tay  
hướng vào nhau, chân trái đưa lên trước duổi  
thẳng (song song mặt đất), chân phải đứng trụ  
làm thẳng.  
Động tác 10: Hạ thấp trọng tâm bằng chân trái  
xuống, gập gối 90o, bàn chân phải hơi xoay  
một góc vuông với chân trái và duỗi thẳng,  
đầu hơi ngửa.  
Động tác 11: Quay thân sang phải 90o, trọng  
tâm trên hai chân, mặt nhìn thẳng.  
Động tác 12: Khép chân trái, hai tay hạ dọc  
thân người, về tư thế chuẩn bị.  
Động tác 13: Đưa chân phải lên duỗi thẳng  
(song song mặt đất) như động tác 9.  
8
Động tác 14: Hạ thấp trọng tâm như động tác  
10.  
Động tác 15: Quay thân sang trái 90o như  
động tác 11.  
Động tác 16: Khép chân phải về tư thế thẳng  
như động tác 12.  
Động tác 17: Ngồi xổm chụm gối, hai bàn  
chân khép, nửa bàn chân trước tiếp xúc đất,  
hai tay chống bằng vai, cách mũi chân 30 cm,  
đầu cúi.  
Động tác 18: Chuyển trọng tâm lên hai tay,  
bật nhẹ đưa chân trái sang bên duỗi thẳng.  
Động tác 19: Thu chân trái, đưa chân phải  
sang bên như động tác 18.  
Động tác 20: Thu chân về ngồi xổm.  
9
Động tác 21: Chống hai tay, đẩy hai chân về  
sau thành chống sấp, thân thẳng.  
Động tác 22: Gập khuỷu tay, chống đẩy một  
lần.  
Động tác 23: Thực hiện giống động tác 22  
(chống đẩy lần 2).  
Động tác 24: Thu chân về giống động tác 20.  
Động tác 25: Đứng thẳng dậy, hai tay lên cao  
chữ V, chân khép, lòng bàn tay hướng trong.  
Động tác 26: Gập thân hai tay hướng vào hai  
mũi chân, đầu gối thẳng.  
Động tác 27: Bước chân trái về trước 30o,  
khuỵu gối, hai tay lên cao chữ V lòng bàn tay  
hướng trong, đầu hơi ngửa.  
10  
Động tác 28: Thu chân trái về, gập thân giống  
động tác 26.  
Động tác 29: Thực hiện giống động tác 27  
nhưng bước chân phải.  
Động tác 30: Thực hiện giống động tác 28.  
Động tác 31: Bước chân trái sang ngang rộng  
hơn vai, hai tay dang ngang lòng bàn tay úp,  
gập thân người song song mặt đất.  
Động tác 32: Thu chân trái về tư thế chuẩn bị.  
Kết thúc bài tập.  
CÂU HỎI  
1. Anh (chị) hãy trình bày tác dụng, kỹ thuật cơ bản của thể dục tay không liên  
hoàn.  
11  
BÀI 2: ĐIỀN KINH  
Điền kinh là một tập hợp các môn thể thao cạnh tranh bao gồm đi bộ, chạy  
hợp khác. Điền kinh chủ yếu là môn thể thao cá nhân, với ngoại lệ là các cuộc đua  
tiếp sức và các cuộc thi mà kết hợp biểu diễn vận động viên như chạy băng đồng.  
Cơ sở của môn điền kinh chính là các động tác tự nhiên có tác dụng phát  
triển toàn diện về thể lực tăng cường sức khỏe. Chính vì vậy, điền kinh được  
xem là rất quan trọng trong giáo dục thể chất cũng như trong chương trình tập  
luyện sức khoẻ của mọi người.  
1. Chạy cự ly ngắn  
Chạy cự ly ngắn bao gồm các cự ly từ 20m – 400m, trong đó các cự ly  
100m, 200m, 400m là các nội dung thi đấu chính thức trong các đại hội thể thao  
Olympic và các cuộc thi đấu lớn. Trong bài này chỉ giới thiệu chạy cự ly 100m.  
1.1. Tác dụng của chạy cự ly ngắn  
Ngoài việc giúp nâng cao thể lực chung, chạy cự ly ngắn giúp cho con người  
phát triển sự khéo léo, khả năng phối hợp vận động đặc biệt sức mạnh tốc  
độ, giúp cho cơ thể trnên săn chắc phát triển cân đối toàn diện.  
1.2. Các động tác kỹ thuật  
Chạy cự ly 100m được chia làm 04 giai đoạn: Xuất phát, chạy lao sau xuất  
phát, chạy giữa quãng và chạy về đích.  
1.2.1. Xuất phát  
- Giới hạn: Giai đoạn này bắt đầu từ khi người chạy vào bàn đạp đến khi  
chân rời khỏi bàn đạp.  
- Nhiệm vụ: Tận dụng mọi khả năng để xuất phát nhanh và đúng luật.  
Trong chạy 100m, để xuất phát được nhanh, phải dùng kỹ thuật xuất phát  
thấp (kỹ thuật xuất phát thấp từ năm 1887 với bàn đạp). Xuất phát thấp giúp ta  
tận dụng được lực đạp sau để cơ thể xuất phát nhanh (do góc đạp sau gần với góc  
di chuyển).  
Hình 1 - Bàn đạp luyện tập  
12  
       
Hình 2 - Bàn đạp dùng trong thi đấu  
Việc sử dụng bàn đạp giúp ta ổn định kỹ thuật và có điểm tựa vững vàng để  
đạp chân lao ra khi xuất phát. Thông thường có ba cách đóng bàn đạp.  
a) Kỹ thuật đóng bàn đạp  
- Cách đóng “phổ thông”:  
+ Bàn đạp trước đặt cách đầu vạch xuất phát 1 - 1,5 độ dài bàn chân;  
+ Bàn đạp sau cách bàn đạp trước một khoảng bằng độ dài một cẳng chân,  
cách này phù hợp với những người mới tập chạy cự li ngắn.  
- Cách đóng cách “xa”:  
Còn gọi là cách “kéo dài”, hay “kéo giãn”. Các bàn đạp được đặt xa vạch  
xuất phát hơn.  
+ Bàn đạp trước đặt cách vạch xuất phát gần 02 bàn chân;  
+ Bàn đạp sau cách bàn đạp trước 01 bàn chân hoặc gần hơn.  
Cách này thường phù hợp với người cao, sức mạnh của chân và tay bình  
thường. Đóng bàn đạp theo cách này, cự li chạy dài hơn cự li thi đấu 02 bàn chân.  
- Cách đóng “gần”:  
Còn gọi là cách “dồn gần”.  
+ Cả hai bàn đạp được đặt gần vạch xuất phát hơn - bàn đạp trước đặt cách  
vạch xuất phát có độ dài 1 bàn chân (hoặc ngắn hơn).  
+ Bàn đạp sau đặt cách bàn đạp trước 1 đến 1,5 bàn chân. Bằng cách này,  
tận dụng được sức mạnh của 2 chân khi xuất phát nên xuất phát ra nhanh, nhưng  
thường phù hợp với những người thấp có chân tay khoẻ. Việc chân rời bàn đạp gần  
như đồng thời sẽ khó cho ta khi chuyển qua dùng sức đạp sau luân phiên từng chân  
(ở trình độ thấp, dễ xảy ra hiện tượng bị dừng, 02 chân cùng nhảy ra khỏi bàn đạp).  
13  
Hình 3 - Ba cách đóng bàn đạp  
Dù theo cách nào, trục dọc của hai bàn đạp cũng phải song song trục dọc của  
đường chạy. Khoảng cách giữa hai bàn đạp theo chiều ngang thường là 10 - 15cm  
sao cho hoạt động của hai đùi không cản trở nhau (do hai bàn đạp gần nhau quá).  
Bàn đạp đặt trước dùng cho chân thuận (chân khoẻ hơn).  
Góc độ của mặt bàn đạp: Góc giữa mặt bàn đạp trước với mặt đường chạy  
phía sau là 45O – 50O; bàn đạp sau là 60O – 80O. Cần nắm quy luật bàn đạp càng xa  
vạch xuất phát, thể lực của người chạy càng kém thì góc độ càng giảm (nếu ngược  
lại, người chạy dễ xuất phát sớm dễ phạm quy).  
b) Kỹ thuật xuất phát thấp  
Trong thi đấu, sau khi đóng bàn đạp thử xuất phát, vận động viên về vị trí  
chuẩn bị đợi lệnh xuất phát. Có ba lệnh “Vào chỗ”, “Sẵn sàng”, “Lệnh xuất phát”,  
kỹ thuật theo mỗi lệnh như sau:  
- Sau lệnh “Vào chỗ” người chạy đi hoặc chạy nhẹ nhàng lên đứng trước bàn  
đạp của mình, ngồi xuống, chống hai tay xuống đường chạy (phía trước vạch xuất  
phát); lần lượt đặt chân thuận xuống bàn đạp trước, rồi chân kia vào bàn đạp sau -  
hai mũi bàn chân đều phải chạm mặt đường chạy để không phạm quy. Hai chân  
nên nhún trên bàn đạp để kiểm tra bàn đạp vững vàng không nhằm sự điều  
chỉnh kịp thời. Tiếp đó hạ đầu gối chân phía sau xuống đường chạy, thu hai tay  
về sau vạch xuất phát, chống trên các ngón tay như đo gang. Khoảng cách giữa hai  
bàn tay rộng bằng vai. Kết thúc cơ thể ở tư thế quỳ trên gối chân phía sau (đùi chân  
đó vuông góc với mặt đường chạy), lưng thẳng tự nhiên, đầu cũng thẳng, mắt nhìn  
14  
về phía trước vào một điểm trên đường chạy cách vạch xuất phát khoảng 03 –  
05m; Trọng tâm cơ thể dồn lên hai tay, bàn chân trước đầu gối chân sau. Ở tư  
thế đó, người chạy chú ý nghe lệnh tiếp.  
- Sau lệnh “Sẵn sàng”, người chạy từ từ chuyển người về trước, đồng thời  
cũng từ từ nâng mông lên cao hơn hai vai (từ 10cm trở lên tuỳ khả năng mỗi  
người). Gối chân sau rời mặt đường tạo thành góc 115o – 138o trong khi góc này  
chân trước nhỏ hơn chỉ là 92o – 105o, hai cẳng chân gần như song song với nhau.  
Hai vai có thể nhô về trước vạch xuất phát từ 05 – 10cm tùy khả năng chịu đựng  
của hai tay. Cơ thể có 4 điểm chống trên mặt đường chạy là 02 bàn tay và 02 bàn  
chân. Giữ nguyên tư thế đó lập tức lao ra khi nghe lệnh xuất phát.  
- Sau lệnh “Chạy” - hoặc tiếng súng lệnh: Xuất phát được bắt đầu bằng đạp  
mạnh 02 chân, 02 tay rời mặt đường chạy, đánh so le với chân (vừa để giữ thăng  
bằng, vừa để hỗ trợ lúc đạp sau của 02 chân). Chân sau không đạp hết, mà nhanh  
chóng đưa về trước để hoàn thành bước chạy thứ nhất. Chân trước phải đạp duỗi  
thẳng hết các khớp rồi mới rời khỏi bàn đạp, đưa nhanh về trước để thực hiện và  
hoàn thành bước chạy thứ 2. Khi đưa lăng, mũi bàn chân không chúc xuống để  
tránh bị vấp ngã.  
Hình 4 - Xuất phát thấp  
Hình 5 - Cách đặt tay trong xuất phát thấp  
1.2.2. Chạy lao sau xuất phát  
- Giới hạn: Từ khi chân rời khỏi bàn đạp đến khi kỹ thuật chạy ổn định  
(khoảng 10 - 15m).  
- Nhiệm vụ: Phát huy tốc độ cao trong thời gian ngắn.  
Để đạt được thành tích trong chạy ngắn, điều rất quan trọng trong xuất phát  
là nhanh chóng đạt được tốc độ gần cực đại trong gian đoạn chạy lao.  
15  
Bước đầu tiên được bắt đầu bằng việc duỗi thẳng hoàn toàn của chân đạp  
sau khỏi bàn đạp trước việc nâng đùi đồng thời của chân kia lên. Và tích cực  
bằng việc hạ chân xuống dưới, thân người ở tư thế gấp sau mỗi bước chạy chuyển  
động về trước tăng lên và độ gấp của thân người giảm đi, thân trên được nâng lên  
dần dần và khi tốc độ đạt cực đại thì thân người ở tư thế bình thường chuyển  
sang giai đoạn chạy giữa quãng.  
Hình 6 - Giai đoạn chạy lao sau xuất phát  
1.2.3. Chạy giữa quãng  
- Giới hạn: Kết thúc giai đoạn chạy lao sau xuất phát đến khi cách đích 15 –  
20m là giai đoạn chạy giữa quãng.  
- Nhiệm vụ: Duy trì tốc độ cao đã đạt được ở kết thúc chạy lao (mà không  
phải tiếp tục tăng tốc độ chạy). Trong giai đoạn này, kỹ thuật chạy khá ổn định.  
Từ chạy lao sau xuất phát chuyển sang chạy giữa quãng phải liên tục, tự  
nhiên không có những thay đổi đột ngột, trên toàn bộ cự li cần phải chạy thả lỏng  
không có những căng thẳng thừa.  
Bước chạy là khâu chủ yếu của kỹ thuật chạy trên đường bằng, gồm hai giai  
đoạn chống chuyển. Trong giai đoạn chống người thực hiện đạp sau tạo điều  
kiện chuyển thân về trước.  
Giai đoạn chạy giữa quãng quyết định đến thành tích chạy. Giai đoạn chạy  
giữa quãng chiếm quãng đường dài nhất, kỹ thuật chạy giữa quãng ổn định nhất,  
cho phép người chạy phát huy tốt nhất tốc độ của mình để đạt thành tích cao.  
Hình 7 - Giai đoạn chạy giữa quãng  
1.2.4. Về đích  
- Giới hạn: Cách đích từ 15 đến 20m.  
- Nhiệm vụ: Dồn hết sức còn lại nhanh chóng chạy về đích kết thúc cự li  
chạy.  
16  
Tùy khả năng người chạy, khi cách đích khoảng 15 - 20m cần chuyển từ  
chạy giữa quãng sang rút về đích. Tập trung hết sức lực để tăng tốc độ, chủ yếu là  
tăng tần số bước. Cố tăng độ ngả người về trước để tận dụng hiệu quả đạp sau.  
Người chạy hoàn thành cự li 100m khi có một bộ phận thân trên (trừ đầu, tay)  
chạm vào mặt phẳng thẳng đứng, chứa vạch đích và dây đích. Bởi vậy, ở bước  
chạy cuối cùng, người chạy phải chủ động gập thân về trước để chạm ngực vào  
dây đích (hoặc mặt phẳng đích) - cách đánh đích bằng ngực. Cũng thể kết hợp  
vừa gập thân về trước vừa xoay để một vai chạm đích - cách đánh đích bằng vai.  
Không “nhảy” về đích sẽ chậm - sau khi nhảy lên, cơ thể chuyển động (bay trên  
không) chỉ theo quán tính, nên tốc độ chậm dần đều.  
Sau khi về đích, nếu dừng đột ngột dễ bị “sốc trọng lực”, thể gây ngất.  
Do vậy, cần phải chạy tiếp vài bước chạy nhẹ nhàng theo quán tính, chú ý giữ  
thăng bằng để không ngã và không va chạm với người cùng về đích. Thực ra động  
tác đánh đích chỉ có ý nghĩa khi cần phân thứ hạng giữa những người có cùng  
thành tích. Bình thường chỉ chạy qua đích để kết thúc cự li. Tuy nhiên, kỹ thuật  
chạm đích tốt giúp vận động viên chạm dây đích sớm hơn khi có hai hay nhiều đối  
thủ ngang nhau muốn tranh thứ hạng. Nếu không quen hoặc kỹ thuật chưa thuần  
thục thì nên chạy qua đích với tốc độ hết sức còn lại mà không nên nghĩ tới việc  
thực hiện kỹ thuật đánh đích.  
Hình 8 - Hình Giai đoạn về đích  
1.3. Một số quy định trong Luật Điền kinh về chạy cly ngắn  
(Quyết định số 224/QĐ-UBTDTT ngày 01 tháng 03 năm 2000 của Bộ  
trưởng- Chủ nhiệm ủy ban thể dục ththao về việc ban hành Luật điền kinh)  
1.3.1. Xuất phát  
-Xuất phát và về đích của một cuộc thi phải được biểu thị bằng một vạch  
trắng rộng 5cm. Cự ly của cuộc thi phải được đo từ mép của vạch xuất phát phía xa  
đích tới mép của vạch đích phía gần tới xuất phát.  
-Trong tất cả các cuộc thi không chạy theo ô riêng, vạch xuất phát phải có  
hình vòng cung để cho tất cả các vận động viên khi xuất phát cách đích cùng một  
cự ly.  
17  
 
-Tất cả các cuộc thi phải xuất phát theo tiếng nổ của súng phát lệnh hay thiết  
bị phát lệnh tương ứng sau khi trọng tài phát lệnh đã xác nhận là các vận động viên  
đã ổn định trong tư thế xuất phát đúng.  
-Sau lệnh "vào chỗ" các vận động viên phải tiến tới vạch xuất phát, chiếm vị  
trí hoàn toàn trong ô chạy riêng của mình, phía sau vạch xuất phát. Hai bàn tay và  
1 đầu gối phải tiếp xúc với mặt đất và hai bàn chân phải tiếp xúc với bàn đạp xuất  
phát.  
-Khi ở tư thế vào chỗ, vận động viên không được chạm vào vạch xuất phát  
hoặc đất phía trước vạch xuất ít bằng chân hoặc tay của mình.  
-Khi có lệnh "sẵn sàng" các vận động viên phải lập tức nâng lên tới tư thế  
xuất phát cuối cùng của mình trong khi vẫn giữ sự tiếp xúc của hai tay với đất và  
sự tiếp xúc của 2 bàn chân với bàn đạp.  
-Khi thực hiện lệnh "vào chỗ" hoặc "sẵn sàng", tất cả các vận động viên  
phải lập tức và không được chậm trễ ở vào tư thế đầy đủ cuối cùng của họ. Việc  
chậm trễ tuân thủ lệnh này sau một thời giai thích hợp sẽ vi phạm lỗi xuất phát.  
Nếu một vận động viên sau lệnh "vào chỗ" gây trở ngại cho các vận động viên  
khác trong cuộc thi qua việc la hét, nói to có thể bị coi là một lỗi xuất phát.  
-Nếu một vận động viên sau khi đã ở tư thế xuất phát đầy đủ cuối cùng  
của minh, bắt đầu có hành động xuất phát trước khi súng phát lệnh hoặc thiết bị  
phát lệnh nổ sẽ bị lỗi xuất phát.  
-Bất kỳ vận động viên nào phạm lỗi xuất phát sẽ bị cảnh cáo. Vận động viên  
chỉ được vi phạm lần đầu, từ lần vi phạm thhai bất kỳ vận động viên nào cũng bị  
loại.  
-Trọng tài phát lệnh hoặc bất kỳ trọng tài giám sát, khi thấy phạm quy  
trong xuất phát, phải gọi các vận động viên lại bằng một phát súng.  
1.3.2. Về đích  
-Các vận động viên sẽ được xếp theo thứ tự mà trong đó bất kỳ phần cơ thể  
của họ, trừ đầu, cổ, tay, chân, bàn tay, bàn chân đạt tới mặt phẳng thẳng đứng của  
gần của vạch đích như đã dược xác định ở trên.  
-Trong bất kỳ cuộc thi mà thành tích dựa trên cơ sở độ dài đã vượt qua được  
trong một thời gian cố định đúng 1 phút trước khi kết thúc cuộc thi trọng tài phát  
lệnh phải bắn súng để báo trước cho các vận động trọng tài giám định cuộc  
thi đã gần kết thúc. Trọng tài phát lệnh phải được tổ trưởng trọng tài bấm giờ chỉ  
dẫn tại thời điểm chính xác sau xuất phát sẽ phát tín hiệu kết thúc cuộc thi bằng  
việc nổ súng một lần nữa. Tại thời điểm súng nổ để phát lệnh kết thúc cuộc thi, các  
trọng tài giám định được phân công sẽ đánh dấu chính xác điểm tại đó mỗi vận  
động viết chạm vào đường chạy trong thời gian cuối cùng trước khi hoặc đồng thời  
cùng với tiếng nổ của súng. Cự ly đạt được phải được đo tới mét gần nhất phía sau  
vạch đánh dấu này. Ít nhất một trọng tài giám định phải được phân công tới mỗi  
18  
vận động viên trước khi bắt đầu cuộc thi để đánh dấu cự ly mà vận động viên đạt  
được.  
2. Chạy cự ly trung bình  
Trong điền kinh các cự ly từ 500m – 2000m được gọi cự ly trung bình,  
tuy có nhiều cự ly như vậy nhưng người ta chỉ chọn hai cự ly 800m (đối với nữ) và  
1500m (đối với nam) để thi đấu chính thức trong Đại hội Olympic và các cuộc thi  
đấu lớn.  
2.1. Tác dụng của chạy cự ly trung bình  
Rèn luyện và phát triển tố chất sức bền một trong những nội dung cơ bản,  
nhằm chuẩn bị tốt thể lực, khả năng chịu đựng một lượng vận động lớn trong một  
thời gian dài, giúp có sức khỏe tốt hơn.  
2.2. Các động tác kỹ thuật  
Kỹ thuật cự ly trung bình chia thành 03 giai đoạn: Xuất phát và tăng tốc sau  
xuất phát, chạy giữa quãng và về đích.  
Khác với chạy cự ly ngắn, chạy cự ly trung bình có độ dài bước nhỏ hơn, tư  
thế của thân trên thẳng hơn, chân lăng nâng gối thấp hơn, việc duỗi thẳng chân đạp  
sau không đột ngột, thnhịp điệu và sâu hơn.  
2.2.1. Xuất phát và tăng tốc sau xuất phát  
Trong chạy cự ly trung bình thường dùng kỹ thuật xuất phát cao. Sau lệnh  
vào chỗ, người chạy tiến vào vị trí xuất phát, và đặt chân thuận (khoẻ) sát sau vạch  
xuất phát, chân kia phía sau bằng mũi bàn chân, cách chân trước 25 – 30cm.  
Thân trên hơi ngả về phí trước, hai chân khuỵu gối, trong tâm dồn vào chân thuận,  
hai tay co ở khuỷu tự nhiên và để so le với chân, tư thế lúc này cần ổn định. Sau đó  
tăng độ ngả thân trên về phía trước khuỵu gối nhiều hơn nhưng vẫn phải đảm  
bảo không bị mất thăng bằng, mắt nhìn về phía trước. Khi có khẩu lệnh chạy (hoặc  
tiếng súng) thì lập tức xuất phát và tăng tốc độ. Độ ngả thân trên tùy thuộc vào tốc  
độ chạy. Khi đạt được tốc độ cũng là lúc chuyển sang chạy giữa quãng. Xuất phát  
nhanh trong chạy cự ly trung bình tuy không có nghĩa lắm với thành tích, nhưng  
cần phải xuất phát nhanh để chiếm vị trí thuận lợi khi chạy cần thiết. Khi xuất  
phát ở đường vòng cũng như khi chạy ở đường vòng cần chạy sát mép trong của  
đường vòng.  
2.2.2. Chạy giữa quãng  
Khi chạy giữa quãng thân người hơi ngã về trước không quá 4 – 5 độ hoặc  
giữ thẳng đứng. Ở tư thế như vậy độ dài bước được duy trì dễ dàng. Nếu như thân  
trên ngả nhiều sẽ gây khó khăn cho việc đưa chân về trước, làm giảm độ dài bước  
ảnh hưởng đến tốc độ chạy. Tư thế của đầu cũng ảnh hưởng đến tư thế thân  
người, thế nên giữ đầu thẳng mắt nhìn về phía trước để người chạy thoải mái  
hơn, không bị căng thẳng.  
19  
     
Tải về để xem bản đầy đủ
doc 98 trang Thùy Anh 05/05/2022 4520
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình môn Giáo dục thể chất", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docgiao_trinh_mon_giao_duc_the_chat.doc