Giáo trình Kế toán quản trị
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
1. Khái niệm, mục tiêu và nhiệm vụ của kế toán quản trị
1.1. Khái niệm về kế toán quản trị
Có rất nhiều các loại hình tổ chức khác nhau có ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của chúng ta như: các
nhà sản xuất, công ty dịch vụ, các nhà bán lẻ, các tổ chức phi lợi nhuận và các tổ chức, cơ quan của Chính phủ.
Tất cả các tổ chức này đều có 2 đặc điểm chung: Thứ nhất, mọi tổ chức đều có các mục tiêu hoạt động. Chẳng
hạn, mục tiêu của một hãng hàng không có thể là lợi nhuận và thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Mục tiêu
của cơ quan công an là đảm bảo an ninh cho cộng đồng với chi phí hoạt động tối thiểu. Thứ hai, các nhà quản lý
của mọi tổ chức đều cần thông tin để điều hành và kiểm soát hoạt động của tổ chức. Nói chung, tổ chức có quy
mô càng lớn thì nhu cầu thông tin cho quản lý càng nhiều.
Kế toán quản trị là một bộ phận trong hệ thống thông tin của một tổ chức. Các nhà quản lý dựa vào thông tin
kế toán quản trị để hoạch định và kiểm soát hoạt động của tổ chức (Hilton, 1991).
Theo Luật kế toán Việt Nam, kế toán quản trị được định nghĩa là “việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp
thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán (Luật
Kế toán, khoản 3, điều 4).
Nói tóm lại, kế toán quản trị là một lĩnh vực kế toán được thiết kế để thoả mãn nhu cầu thông tin của các
nhà quản lý và các cá nhân khác làm việc trong một tổ chức.
1.2. Vai trò của kế toán quản trị
Kế toán quản trị có vai trò quan trọng trong quản trị, điều hành doanh nghiệp thể hiện qua một số điểm sau:
- Kế toán quản trị là nguồn cung cấp thông tin cần thiết cho các nhà quản lý ra quyết định kinh doanh ở tất
cả các khâu: lập kế hoạch, dự toán, tổ chức thực hiện, kiểm tra và đánh giá...
- Kế toán quản trị sẽ tư vấn cho nhà quản lý trong quá trình xử lý, phân tích thông tin, lựa chọn phương án,
ra quyết định kinh doanh phù hợp nhất.
- Kế toán quản trị giúp nhà quản lý kiểm tra, giám sát, điều hành các hoạt động kinh tế tài chính và sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp; giúp nhà quản lý đánh giá những vấn đề còn tồn tại phải khắc phục.
- Kế toán quản trị giúp nhà quản lý thu thập, phân tích thông tin phục vụ cho việc lập kế hoạch dự toán sản
xuất và tiên liệu kết quả kinh doanh...
1.3. Mục tiêu của kế toán quản trị
Để thực hiện các công việc trong quá trình quản lý hoạt động của tổ chức, các nhà quản lý rất cần đến thông
tin. Thông tin mà các nhà quản lý cần để thực hiện công việc được cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau: các nhà
kinh tế, các chuyên gia tài chính, các chuyên viên tiếp thị, sản xuất và các nhân viên kế toán quản trị của tổ chức.
Hệ thống thông tin kế toán quản trị trong tổ chức có nhiệm vụ cung cấp thông tin cho các nhà quản lý để
thực hiện các hoạt động quản lý. Kế toán quản trị có bốn mục tiêu chủ yếu như sau:
- Cung cấp thông tin cho nhà quản lý để lập kế hoạch và ra quyết định.
- Trợ giúp nhà quản lý trong việc điều hành và kiểm soát hoạt động của tổ chức.
- Thúc đẩy các nhà quản lý đạt được các mục tiêu của tổ chức.
- Đo lường hiệu quả hoạt động của các nhà quản lý và các bộ phận, đơn vị trực thuộc trong tổ chức.
2. Kế toán quản trị, kế toán tài chính và kế toán chi phí
2.1. Kế toán tài chính và kế toán quản trị
Như đã trình bày trong những phần trên, trọng tâm của kế toán quản trị là cung cấp thông tin phục vụ cho
các nhà quản lý của tổ chức. Trong khi đó, mục tiêu của kế toán tài chính (financial accounting) là nhằm đáp ứng
nhu cầu thông tin cho các đối tượng bên ngoài tổ chức. Báo cáo hàng năm của Công ty VINAMILK cho các cổ
đông của công ty là một ví dụ điển hình về sản phẩm của hệ thống kế toán tài chính. Những người sử dụng thông
tin kế toán tài chính bao gồm các nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng, các chủ nợ, các cơ quan nhà nước, các nhà
phân tích đầu tư, khách hàng.
Tuy vậy, hệ thống kế toán quản trị và kế toán tài chính cũng có nhiều điểm giống nhau bởi vì cả hai hệ thống
này đều dựa vào dữ liệu thu thập được từ hệ thống kế toán cơ bản của tổ chức. Hệ thống này bao gồm thủ tục,
nhân sự, và hệ thống máy tính để thu thập và lưu trữ các dữ liệu tài chính của tổ chức. Một phần của hệ thống kế
toán chung này là hệ thống kế toán chi phí (cost accounting) có nhiệm vụ thu thập thông tin chi phí được sử dụng
trong cả hệ thống kế toán quản trị và kế toán tài chính. Ví dụ, số liệu về giá thành sản phẩm được nhà quản lý sử
dụng để định giá bán sản phẩm, đó là một mục đích sử dụng thông tin của kế toán quản trị. Tuy vậy, số liệu giá
1
thành cũng được sử dụng để xác định giá trị hàng tồn kho trên bảng cân đối kế toán, đó lại là một mục đích sử
dụng thông tin của kế toán tài chính.
Mối quan hệ giữa kế toán kế toán quản trị và kế toán tài chính được biểu hiện qua Sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1. Quan hệ giữa kế toán quản trị
và kế toán tài chính
Thông tin
Nhà quản trị
Thông tin
Thông
tin
Hoạt động
kinh doanh
Kế toán tài chính
Thông
tin
Các bộ phận khác
Kế toán quản trị
và bên ngoài
Mặc dù, giữa hệ thống kế toán quản trị và hệ thống kế toán tài chính có nhiều điểm chung, nhưng giữa chúng
có sự khác biệt rất lớn. Bảng 1.2 liệt kê những điểm khác biệt giữa hai hệ thống kế toán này.
Bảng 1.1. Những điểm khác biệt giữa
kế toán quản trị và kế toán tài chính
Các chỉ tiêu
1. Đối tượng sử dụng Nhà quản trị bên trong Những thành phần bên
thông tin doanh nghiệp ngoài doanh nghiệp.
2. Đặc điểm của Hướng về tương lai, Phản ánh quá khứ,
thông tin cung cấp linh hoạt, nhanh, thích chính xác.
hợp.
Kế toán quản trị
Kế toán tài chính
Biểu diễn dưới hình thái
Biểu diễn dưới hình giá trị.
thái giá trị và vật chất.
3. Tính chất bắt buộc Không tuân thủ các Tuân thủ các nguyên tắc
của thông tin và báo nguyên tắc chung của của kế toán (GAAPs).
cáo
kế toán.
4. Phạm vi báo cáo
Từng bộ phận, khâu Toàn doanh nghiệp
công việc
5. Kỳ báo cáo
Bất kỳ khi nào cần cho Định kỳ hàng tháng,
quản lý.
quý, năm.
6. Tính pháp lệnh
Khôngcótínhpháplệnh. Có tính pháp lệnh.
7. Quan hệ với các Nhiều.
ngành khoa học
ít.
2.2. Kế toán chi phí với kế toán quản trị
Kế toán chi phí là một nhánh của kế toán, có nhiệm vụ lưu chép chi phí trực tiếp và gián tiếp liên quan đến
việc sản xuất mỗi đơn vị sản phẩm và dịch vụ do công ty cung cấp.
Kế toán chi phí quan tâm đến các vấn đề sau:
- Soạn thảo các bảng kê (ví dụ: các bảng dự toán, các bảng tính chi phí).
- Thu thập số liệu chi phí.
- Phân bổ chi phí cho hàng tồn kho, sản phẩm và dịch vụ.
Kế toán quản trị quan tâm đến những vấn đề sau:
- Sử dụng số liệu tài chính và truyền đạt nó dưới dạng thông tin cho người sử dụng là các nhà quản trị các
cấp ở bên trong tổ chức.
Kế toán chi phí là một phần của kế toán quản trị. Kế toán chi phí cung cấp một ngân hàng số liệu cho nhân
viên kế toán quản trị sử dụng, gồm:
2
- Giá vốn sản phẩm sản xuất hay giá vốn dịch vụ cung cấp.
- Giá vốn của một bộ phận hay một phần công việc.
- Doanh thu.
- Lợi nhuận của một sản phẩm, một dịch vụ, một bộ phận hay của toàn bộ tổ chức.
- Giá bán so với giá vốn hàng bán.
- Giá trị của hàng tồn kho (nguyên liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm) còn trong kho vào lúc cuối kỳ, do
đó hỗ trợ cho việc lập bảng cân đối kế toán của công ty.
- Chi phí thực tế so với dự toán.
Sơ đồ 1.2 mô tả mối quan hệ giữa các hệ thống kế toán cơ bản của tổ chức với các hệ thống kế toán chi phí,
kế toán quản trị, và kế toán tài chính.
Sơ đồ 1.2. Mối quan hệ giữa các
hệ thống kế toán trong một tổ chức
Hệ thống kế toán (một phần của hệ thống
thông tin quản lý của tổ chức)
Thu thập dữ liệu (tài chính)
về hoạt động của tổ chức
Hệ thống kế toán chi phí (một phần của
hệ thống thông tin kế toán của tổ chức)
Thu thập thông tin về chi phí
Kế toán quản trị cung cấp
thông tin cho việc lập kế
hoạch, điều hành, kiểm tra
và ra quyết định
Kế toán tài chính
soạn thảo các báo cáo tài
chính được công bố (bắt
buộc) và các báo cáo tài
Người sử dụng bên ngoài tổ
chức
Người sử dụng
bên trong tổ chức
Các nhà đầu tư, các chủ nợ,
cơ quan thuế, các cơ quan
Các nhà quản lý ở tất cả các
cấp quản lý trong tổ chức
2.3. Kế toán quản trị với các môn khoa học khác
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, các nhà quản trị phải đưa ra quyết định trong tất các khâu của quá
trình kinh doanh từ việc mua các chi phí đầu vào: mua nguyên vật liệu, tuyển dụng nhân viên,... đến việc đưa các
yếu tố sản xuất vào quá trình sản xuất kinh doanh sau đó là tổ chức quá trình tiêu thụ hàng hoá sao cho thu được
lợi ích cao nhất cho doanh nghiệp. Trong tất các khâu của quá trình kinh doanh này các nhà quản trị đều phải tiến
hành lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch rồi kiểm tra đánh giá quá trình thực hiện kế hoạch đó. Do vậy, kế
toán quản trị là tổng hợp của nhiều môn khoa học khác như kiến thức marketing khi nghiên cứu thị trường,lựa
chọn phương án kinh doanh, lựa chọn cơ cấu hàng bán ...kiến thức thống kê khi thu thập, trình bày và phân tích
dữ liệu, phân tích biến động đánh giá kết quả ...
3. Vai trò của kế toán quản trị trong việc thực hiện các chức năng quản lý
3.1. Quá trình quản lý và chức năng quản lý
Những người chủ sở hữu và các nhà quản lý của tổ chức chịu trách nhiệm trong việc xác định mục tiêu hoạt
động của tổ chức. Ví dụ: Mục tiêu của Công ty Máy tính IBM do Ban giám đốc (được các cổ đông của công ty
bầu ra) của công ty thiết lập.
Cho dù mục tiêu hoạt động của một tổ chức là gì đi nữa thì, công việc của các nhà quản lý là phải đảm bảo các
mục tiêu được thực hiện. Trong quá trình theo đuổi mục tiêu của tổ chức, các nhà quản lý thực hiện bốn hoạt động
(chức năng) cơ bản:
- Lập kế hoạch.
- Tổ chức và điều hành hoạt động.
- Kiểm soát hoạt động.
- Ra quyết định.
3
Lập kế hoạch
Trong việc lập kế hoạch, nhà quản lý vạch ra những bước phải làm để đưa hoạt động của doanh nghiệp
hướng về các mục tiêu đã xác định. Những kế hoạch này có thể dài hạn hay ngắn hạn. Khi các kế hoạch được thi
hành, chúng sẽ giúp cho việc liên kết tất cả các lực lượng của tất cả các bộ phận trong doanh nghiệp hướng về các
mục tiêu đã định.
Tổ chức và điều hành hoạt động
Trong việc tổ chức, nhà quản lý sẽ quyết định cách liên kết tốt nhất giữa tổ chức, con người với các nguồn
lực lại với nhau sao cho kế hoạch được thực hiện có hiệu quả nhất.
Trong việc điều hành, các nhà quản lý giám sát hoạt động hàng ngày và giữ cho cả tổ chức hoạt động trôi
chảy.
Kiểm soát hoạt động
Sau khi đã lập kế hoạch và tổ chức thực hiện, nhà quản lý phải kiểm tra và đánh giá việc thực hiện kế hoạch.
Để thực hiện chức năng kiểm tra, các nhà quản lý sử dụng các bước công việc cần thiết để đảm bảo cho từng bộ
phận và cả tổ chức đi theo đúng kế hoạch đã vạch ra.
Trong quá trình kiểm soát, nhà quản lý sẽ so sánh hoạt động thực tiễn với kế hoạch đã thiết lập. So sánh này sẽ
chỉ ra ở khâu nào công việc thực hiện chưa đạt yêu cầu, và cần sự hiệu chỉnh để hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu
đã thiết lập.
Ra quyết định
Ra quyết định là việc thực hiện những lựa chọn hợp lý trong số các phương án khác nhau. Ra quyết định
không phải là một chức năng riêng biệt, nó là một chức năng quan trọng, xuyên suốt các khâu trong quá trình
quản lý một tổ chức, từ khâu lập kế hoạch, tổ chức thực hiện cho đến kiểm tra đánh giá. Chức năng ra quyết định
được vận dụng liên tục trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Tất cả các quyết định đều có nền tảng từ thông tin. Do vậy, một yêu cầu đặt ra cho công tác kế toán, đặc biệt
là kế toán quản trị là phải đáp ứng nhu cầu thông tin nhanh, chính xác cho nhà quản lý nhằm hoàn thành tốt việc
ra quyết định.
Sơ đồ 1.3. Quá trình quản lý hoạt động của tổ chức
Lập kế hoạch
Tổ chức
và điều hành
Hành động
hiệu chỉnh
Ra quyết định
Vai trò của kế toáuan hệ giữa kế toán quản trị với chức năng quản lý bao gồm:
Kiểm tra và đánh giá
- Chuyển hoá các mục tiêu của doanh nghiệp thành các chỉ tiêu kinh tế.
- Lập dự toán chung và các dự toán chi tiết.
- Thu thập, cung cấp thông tin về kết quả thực hiện các mục tiêu.
- Lập báo cáo kết quả quản trị.
Như vậy, thông tin của kế toán quản trị không chỉ là thông tin về quá khứ, thông tin hiện tại, mà còn bao
gồm các thông tin ước tính cho tương lai (kế hoạch, dự toán...). Thông tin kế toán quản trị không chỉ là thông tin
theo thước đo giá trị mà còn bao gồm nhiều loại thông tin theo thước đo hiện vật, và thông tin thước đo thời gian
lao động.
Hoạt động quản lý có ba chức năng chủ yếu là: hoạch định, tổ chức thực hiện và kiểm tra kiểm soát. Kế toán
quản trị giúp bộ máy quản lý thực hiện cả ba chức năng nói trên một cách hiệu quả.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải lập cả kế hoạch ngắn hạn và dài hạn. Từ kế
hoạch chung của doanh nghiệp các bộ phận triển khai thành kế hoạch riêng của bộ phận đơn vị mình. Như trên đã
nói, thông tin của kế toán quản trị có ý nghĩa vô cùng quan trọng, làm cơ sở cho nhà quản lý thực hiện chức năng
dự toán kế hoạch. Ngoài ra trong quá trình thực hiện các mục tiêu mà kế hoạch đã đề ra, kế toán quản trị đã cung
cấp thông tin cho việc quản lý đến từng công việc cụ thể, như: quản lý, sản xuất tác nghiệp, quản lý tồn kho, quản
lý chi phí... Kế toán quản trị còn được coi là công cụ để đánh giá quá trình thực hiện mục tiêu kế hoạch thông qua
việc phân tích các chi phí, từ đó có những quyết định hợp lý để hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng đạt hiệu
quả cao hơn. Kế toán quản trị giúp thực hiện chức năng kiểm tra quản lý một cách rất hiệu quả thông qua việc thu
4
thập và cung cấp các thông tin chi tiết về tình hình thực hiện kế hoạch, phát hiện các khoản chênh lệch so với kế
hoạch và các nguyên nhân dẫn đến tình hình đó. Nhà quản lý cần nắm bắt hoạt động nào đem lại lợi ích, hoạt
động nào đang duy trì lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp... Với khả năng cung cấp thông tin về chi phí và lợi
nhuận thu được từ từng lĩnh vực hoạt động, từng loại sản phẩm, dịch vụ... kế toán quản trị sẽ rất hữu ích trong
việc kiểm soát chi phí sản xuất và vòng đời của sản phẩm cũng như hiệu quả của từng hoạt động. Có thể nói, kế
toán quản trị đóng vai trò kiểm soát toàn bộ các khâu của hoạt động kinh doanh một cách rất cụ thể, chi tiết và
thường xuyên.
Có thể mô tả vai trò của kế toán quản trị qua Sơ đồ 1.4. như sau:
Sơ đồ 1.4. Vai trò của kế toán quản trị
Lập kế hoạch
sản xuất kinh doanh
Kế toán quản trị,
công cụ dự đoán,
đánh giá, kiểm tra,
phân tích
Quản lý các chương
trình hoạt động
Kiểm tra quản lý
3.2. Phương pháp nghiệp vụ của kế toán quản trị
3.2.1. Vận dụng các phương pháp kế toán trong kế toán quản trị
Là một bộ phận của hệ thống kế toán doanh nghiệp, kế toán quản trị tất nhiên cũng sử dụng các phương
pháp của kế toán nói chung là phương pháp chứng từ kế toán, phương pháp tài khoản kế toán, phương pháp tính
giá và phương pháp tổng hợp cân đối để thu thập, xử lý và cung cấp thông tin. Ngoài ra, kế toán quản trị còn sử
dụng các phương pháp công cụ khác bổ sung cho việc thu thập tính toán các số liệu, thông tin liên quan đến
tương lai; trình diễn; diễn giải các thông tin, số liệu và báo cáo.
Việc vận dụng các phương pháp kế toán chung trong kế toán quản trị có đặc điểm khác nhất định so
với kế toán tài chính.
a. Phương pháp chứng từ kế toán
Dựa vào hệ thống chứng từ bắt buộc và chứng từ hướng dẫn sử dụng trong kế toán tài chính để thu thập các
thông tin thực hiện (quá khứ) chi tiết theo yêu cầu của kế toán quản trị (sử dụng chung nguồn thông tin đầu vào
cùng với kế toán tài chính).
Có thể kế toán quản trị còn cần thiết phải thiết lập (tổ chức) hệ thống chứng từ kế toán riêng để thu thập những
thông tin sử dụng riêng của kế toán quản trị (ví dụ như: thông tin liên quan chi tiết hơn và có các chỉ tiêu trên chứng
từ kế toán tài chính chưa thu thập được, hoặc những thông tin liên quan đến tương lai...). Những chứng từ này rất
linh hoạt, không có tính pháp lý (và chỉ sử dụng cho kế toán quản trị).
b. Phương pháp tài khoản kế toán
Dựa vào hệ thống tài khoản của hệ thống tài chính (tài khoản tổng hợp, tài khoản chi tiết) để tập số liệu
thông tin thực hiện (quá khứ) chi tiết theo yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Trên cơ sở yêu cầu quản trị cụ thể
đối với từng đối tượng mà kế toán quản trị quan tâm, cần tổ chức chi tiết hơn giữa các tài khoản đến các cấp 3, 4,
5, 6...
Kế toán quản trị còn cần phải mở hệ thống sổ kế toán chi tiết, ngoài việc theo dõi các chỉ tiêu chi tiết theo
quản lý của kế toán tài chính, còn bổ sung thêm các sổ chi tiết hoặc các chỉ tiêu trên sổ theo nhu cầu thông tin của
kế toán quản trị.
Vấn đề tổ chức hệ thống tài khoản và sổ kế toán của kế toán tài chính và kế toán quản trị ở doanh nghiệp còn
phụ thuộc vào mô hình tổ chức kế toán ở doanh nghiệp theo mô hình “kết hợp” hay “độc lập”. Nếu theo mô hình
“kết hợp” thì kết hợp hệ thống tài khoản tổng hợp và chi tiết trên cùng một hệ thống, ngoài ra mở thêm các tài
khoản và sổ chi tiết không kết hợp được, phục vụ riêng cho kế toán quản trị (có thể có cả sổ chi tiết dùng để ghi
chép số liệu chi tiết ước tính, thông tin liên quan đến các tình huống sẽ được xem xét và quyết định).
5
c. Phương pháp tính giá
Đối với kế toán quản trị, việc tính giá các loại tài sản mang tính linh hoạt cao hơn kế toán tài chính (không đòi hỏi
tuân theo nguyên tắc chung về tính giá) và gắn với mục đích sử dụng các thông tin về giá theo yêu cầu quản trị doanh
nghiệp.
Việc phân loại chi phí trong kế toán quản trị có những cách phân loại và nhận diện riêng mà kế toán tài
chính không sử dụng đến, như: chi phí cơ hội, chi phí chìm, biến phí, định phí...
Việc tính giá tài sản, các đối tượng... không chỉ tính giá thực tế đã thực hiện, mà còn tính giá chi tiết đối với
những tài sản, đối tượng liên quan đến các phương án, tình huống quyết định trong tương lai (gọi là dự toán hay
ước tính). Như vậy, phạm vị, nội dung của chi phí trong giá phí của kế toán quản trị không hoàn toàn giống, thậm
chí có nhiều khác biệt so với kế toán tài chính.
d. Phương pháp tổng hợp cân đối
Phương pháp tổng hợp cân đối thường được kế toán quản trị sử dụng trong việc lập báo cáo tổng hợp cân đối
bộ phận - báo cáo nội bộ (cho tưng bộ phận, trung tâm chi phí, loại tài sản...), đó là báo cáo thực hiện (số liệu quá
khứ). Đồng thời nó còn được sử dụng để lập các báo cáo, các bảng phân tích số liệu chi phí, doanh thu, kết quả để
so sánh các phương án đang xem xét và quyết đinh trong tương lai (số liệu tương lai).
Ngoài ra, kế toán quản trị còn sử dụng phương pháp tổng hợp cân đối kế toán để lập các cân đối trong dự
toán, trong kế hoạch giữa nhu cầu tài chính với nguồn tài trợ, giữa yêu cầu sản xuất kinh doanh với các nguồn lực
huy động...
Báo cáo của kế toán quản trị đươc lập theo kỳ hạn ngắn hơn các báo cáo tài chính, mặt khác nó còn có tính
linh hoạt (không bắt buộc) về mặt nội dung, biểu mẫu...
3.2.2. Các phương pháp kỹ thuật sử dụng trong kế toán quản trị
Chức năng chủ yếu của kế toán quản trị là lựa chọn, thu thập thông tin, tính toán, phân tích, trình bày và
cung cấp các thông tin định lượng cho nhà quản trị ra quyết định kịp thời và phù hợp với mục tiêu doanh nghiệp.
Thông tin cần cho kế toán quản trị thường không có sẵn, do đó kế toán quản trị phải sử dụng một số phương
pháp kỹ thuật (công cụ cơ sở) để thu thập, xử lý, trình bày và cung cấp chúng thành dạng phù hợp với nhu cầu
của các nhà quản trị. Các phương pháp kỹ thuật thường được sử dụng là:
a. Thiết kế thông tin thành bảng số liệu có thể so sánh được
Bảng số liệu là hình thức kết cấu thành bảng biểu để trình bày, sắp xếp các thông tin thành các mục với các
số liệu đã được tính toán (kế hoạch - dự toán; thực hiện - quá khứ; ước tính - tương lai) phù hợp, dễ nhận biết
theo các tiêu chuẩn để ra quyết định. Thông thường các bảng số liệu đó được thiết kế dưới dạng có thể so sánh
được (giữa các phương án đang xem xét) để dễ nhận biết theo tiêu chuẩn lựa chọn quyết định. Chẳng hạn, để
cung cấp thông tin cho nhà quản trị ra quyết định tiếp tục kinh doanh hay ngừng kinh doanh một bộ phận/mặt
hàng lỗ, kế toán quản trị phải lập được bảng phân tích so sánh thông tin về tổng lợi nhuận của doanh nghiệp giữa
hai phương án: tiếp tục hay ngừng kinh doanh bộ phận/mặt hàng đó...
Khi thiết kế các bảng số liệu so sánh cần lưu ý:
- Cần sắp xếp các thông tin thành các khoản mục phù hợp với tiêu chuẩn đánh giá thông tin trong mỗi tình
huống quyết định.
- Các khoản mục trong bảng phải có quan hệ chặt chẽ, logíc với nhau.
- Các số liệu thực tế, dự toán, định mức hoặc các mục tiêu định trước trong bảng phải so sánh được với nhau.
- Hình thức kết cấu bảng rất đa dạng, linh hoạt, tuỳ thuộc vào tiêu chuẩn đánh giá thông tin đối với mỗi loại
quyết định.
b. Phân loại chi phí
Hầu hết các quyết định của nhà quản trị đều liên quan đến chi phí. Đối với mỗi loại quyết định, chi phí liên
quan có đặc điểm và nội dung khác nhau. Để có được những thông tin thích hợp về các chi phí liên quan đến từng
quyết định, kế toán quản trị cần vận dụng phương pháp kỹ thuật (cách) phân loại chi phí phù hợp.
Ngoài cách phân loại chi phí theo tính chất, nội dung kinh tế của chi phí và phân loại chi phí theo công dụng
của chi phí kế toán tài chính, kế toán còn sử dụng nhiều cách phân loại chi phí khác nhau.
c. Trình bày mối quan hệ giữa các thông tin dưới dạng phương trình đại số
Một công cụ thường dùng trong kế toán quản trị là sử dụng các phương trình đại số để biểu diễn mối quan hệ
tương quan, ràng buộc giữa các đại lượng thông tin.
d. Trình bày các thông tin dưới dạng đồ thị
6
Để trình bày các thông tin dưới dạng định lượng và mối quan hệ giữa các yếu tố đại lượng liên quan, thông
thường, kế toán quản trị sử dụng cách trình bày dạng đồ thị toán học. Đồ thị là cách thể hiện dễ thấy và rõ ràng
nhất mối quan hệ và xu hướng biến thiên mang tính quy luật của các thông tin kế toán quản trị cung cấp và xử lý.
3.3. Tổ chức hệ thống bộ máy kế toán quản trị
Việc tổ chức bộ máy kế toán quản trị của doanh nghiệp phải phù hợp với đặc điểm hoạt động, quy mô đầu tư
và địa bàn sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp với mức độ phân cấp quản lý kinh tế - tài chính của doanh
nghiệp. Bộ máy kế toán phải gọn, khoa học, hợp lý và hiệu quả cao trong việc cung cấp thông tin cho bộ máy lãnh
đạo của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp căn cứ vào các điều kiện cụ thể của mình (quy mô; trình độ cán bộ; đặc điểm sản xuất, kinh
doanh; quản lý, phương tiện kỹ thuật...) để tổ chức bộ máy kế toán quản trị theo một trong các hình thức sau:
a. Hình thức kết hợp
Tổ chức kết hợp giữa kế toán tài chính với kế toán quản trị theo từng phần hành kế toán: kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm, kế toán bán hàng..., kế toán viên theo dõi phần hành kế toán nào thì sẽ thực hiện
cả kế toán tài chính và kế toán quản trị phần hành đó. Ngoài ra, doanh nghiệp phải bố trí người thực hiện các nội
dung kế toán quản trị chung khác như thu thập, phân tích các thông tin phục vụ việc lập dự toán và phân tích
thông tin phục vụ cho việc ra quyết định trong quản trị doanh nghiệp. Các nội dung công việc này có thể bố trí
cho kế toán tổng hợp hoặc cho kế toán trưởng đảm nhiệm.
b. Hình thức tách biệt
Tổ chức thành một bộ phận kế toán quản trị riêng biệt với bộ phận kế toán tài chính trong phòng kế toán của
doanh nghiệp. Hình thức này chỉ thích hợp với doanh nghiệp có quy mô lớn, như: tổng công ty, tập đoàn kinh
tế,...
Sơ đồ 1.5. Tổ chức bộ máy kế toán quản trị
theo hình thức tách biệt
Kế toán
quản trị
Bộ phận
dự toán
Bộ phận
phân tích đánh giá
Bộ phận
tư vấn dự án
c. Hình thức hỗn hợp
Là hình thức kết hợp hai hình thức nêu trên như: tổ chức bộ phận kế toán quản trị chi phí giá thành riêng,
còn các nội dung khác thì theo hình thức kết hợp.
7
CHƯƠNG II
PHÂN LOẠI CHI PHÍ
1. Khái niệm và đặc điểm của chi phí
1.1. Khái niệm
Các nhân viên kế toán thường định nghĩa “chi phí như là một nguồn lực hy sinh hoặc mất đi để đạt được một
mục đích cụ thể” (Horngren et al., 1999). Hầu hết mọi người đều xem chi phí là hao phí nguồn lực tính bằng tiền
để đổi lấy hàng hoá và dịch vụ.
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ các hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và
các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp chi ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh biểu hiện bằng
thước đo tiền tệ, được tính cho một thời kỳ nhất định.
1.2. Đặc điểm
- Chi phí sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với mục đích kinh doanh của doanh nghiệp. Thực chất nó là
những phí tổn về các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Lượng chi phí phụ thuộc vào khối lượng các yếu tố sản xuất đã tiêu hao trong kỳ và giá cả của một đơn vị
yếu tố sản xuất đã hao phí.
- Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải được đo lường bằng thước đo tiền tệ và phải được xác
định trong một khoảng thời gian xác định.
- Trên góc độ của kế toán tài chính, chi phí được nhìn nhận như những khoản phí tổn đã phát sinh gắn liền
với hoạt động của doanh nghiệp bao gồm các chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh
thông thường của doanh nghiệp và các chi phí khác. Những chi phí này phát sinh dưới dạng tiền, các khoản tương
đương tiền, hàng tồn kho, khấu hao máy móc, thiết bị, được kế toán ghi nhận trên cơ sở chứng từ, tài liệu bằng
chứng chứng minh việc phát sinh của chúng. Ví dụ, khi xuất kho vật liệu dùng vào sản xuất kinh doanh, tạo ra chi
phí gây ra sự giảm đi của giá trị hàng tồn kho, gắn liền với sản xuất, kinh doanh và được chứng minh bằng các
chứng từ là phiếu xuất kho vật tư.
- Trên góc độ của kế toán quản trị: mục đích của kế toán quản trị chi phí là cung cấp thông tin thích hợp về chi
phí, kịp thời cho việc ra quyết định của các nhà quản trị doanh nghiệp. Vì vậy, đối với kế toán quản trị chi phí
không đơn thuần nhận thức chi phí như kế toán tài chính, mà chi phí còn được nhận thức theo cả khía cạnh nhận
diện thông tin để phục vụ cho việc ra quyết định kinh doanh. Vì vậy, chi phí có thể là phí tổn thực tế đã chi ra trong
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày khi tổ chức thực hiện, kiểm tra, ra quyết định và cũng có thể là
chi phí ước tính khi thực hiện dự án hay giá trị lợi ích mất khi lựa chọn phương án, hoạt động này mà bỏ qua cơ hội
kinh doanh khác. Khi đó, trong kế toán quản trị chi phí lại cần chú ý đến việc nhận diện chi phí phục vụ cho việc so
sánh, lựa chọn phương án tối ưu trong từng tình huống ra quyết định kinh doanh cụ thể, mà ít chú ý hơn vào chứng
minh chi phí phát sinh bằng các chứng từ kế toán.
2. Phân loại chi phí
Đối với các nhà quản trị thì chi phí là mối quan tâm hàng đầu và thường xuyên bởi vì: một doanh nghiệp tồn
tại và hoạt động phải chi nhiều khoản chi phí khác nhau trong suốt quá trình và trên nhiều lĩnh vực kinh doanh,
mặt khác chi phí là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận thu được. Do đó, vấn đề được đặt ra là làm sao
có thể kiểm soát được tất cả các khoản chi phí. Nhận diện phân tích các hoạt động phát sinh ra chi phí là điều
mấu chốt để có thể quản lý chi phí, từ đó có những quyết định đúng đắn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Trên quan điểm của kế toán quản trị, chi phí được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau - phù hợp với
từng mục đích sử dụng thông tin. Sau đây là các cách phân loại thường được dùng trong quá trình ra quyết định
quản lý của các nhà quản trị
2.1. Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động
Theo cách phân loại này, người ta chia chi phí của doanh nghiệp thành hai loại là chi phí sản xuất và
chi phí ngoài sản xuất
2.1.1. Căn cứ để phân loại
Căn cứ mục đích của chi phí để thực hiện các chức năng trong kinh doanh.
2.1.2. Các loại chi phí
2.1.2.1. Chi phí sản xuất
8
Chi phí sản xuất là toàn bộ hao phí về lao động sống, lao động vật hóa và các chi phí cần thiết khác mà
doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến việc chế tạo sản phẩm, lao vụ dịch vụ trong một thời kỳ nhất định được biểu
hiện bằng tiền. Hoạt động sản xuất là sự kết hợp giữa sức lao động của công nhân với nguyên vật liệu và thiết bị
để sản xuất chế tạo ra sản phẩm, do đó chi phí sản xuất bao gồm ba yếu tố cơ bản sau:
a. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Nguyên vật liệu trực tiếp là bộ phận nguyên vật liệu cơ bản cấu tạo nên thực thể của sản phẩm - gọi là vật
liệu chính. Ngoài ra trong quá trình sản xuất còn phát sinh những loại nguyên vật liệu có tác dụng phụ, kết hợp
với nguyên vật liệu chính để tạo ra sản phẩm, làm tăng chất lượng của sản phẩm, tạo ra màu sắc, mùi vị hoặc làm
rút ngắn chu kỳ sản xuất.
Nguyên vật liệu trực tiếp: nguyên vật liệu tiêu hao trong quá trình sản xuất mà cấu tạo thành thực thể của sản
phẩm. Hay nói cách khác, chi phí nguyên vật liệu là giá trị các loại nguyên vật liệu tạo thành thực thể của sản
phẩm, chi phí này có thể tính trực tiếp cho từng loại sản phẩm. Ví dụ: Chi phí thép để làm khung xe ôtô tại công
ty Toyota Việt Nam, chi phí bột mì để chế biến mì ăn liền tại công ty Vifon.
b. Chi phí nhân công trực tiếp
Lao động trực tiếp: lao động trực tiếp là những người trực tiếp sản xuất sản phẩm, lao động của họ gắn liền
với việc sản xuất sản phẩm, sức lao động của họ hao phí trực tiếp cho sản phẩm được sản xuất. Chi phí lao động
trực tiếp bao gồm tiền lương, tiền công, phụ cấp và các khoản trích trên lương như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế. Chi phí lao động trực tiếp được tính trực tiếp vào từng loại sản phẩm được sản xuất ra, nó có thể được xác
định rõ ràng và cụ thể cho từng loại sản phẩm.
c. Chi phí sản xuất chung
Chi phí sản xuất chung: các chi phí sản xuất, ngoài chi phí nguyên liệu trực tiếp và lao động trực tiếp, được
phân loại là chi phí sản xuất chung. Chi phí sản xuất chung bao gồm chi phí nguyên liệu gián tiếp, chi phí lao
động gián tiếp, chi phí khấu hao tài sản cố định, các chi phí tiện ích như điện, nước, và các chi phí sản xuất khác.
Đặc điểm của chi phí sản xuất chung là không thể tính trực tiếp vào sản phẩm, chúng sẽ được tính vào chi
phí sản phẩm thông qua việc phân bổ chi phí. Chi phí sản xuất chung còn được gọi tên là chi phí chung của phân
xưởng (factory overhead costs) hoặc chi phí sản xuất gián tiếp (indirect manufacturing costs).
Ngoài việc chia chi phí sản xuất thành 3 yếu tố chi phí cơ bản như trên, kế toán quản trị còn chia chi phí sản
xuất thành 2 loại là chi phí ban đầu và chi phí chuyển đổi, trong đó:
- Chi phí ban đầu (prime cost): bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí lao động trực tiếp. Chi
phí ban đầu cũng phản ánh mức chi phí riêng biệt, cụ thể cho từng đơn vị sản phẩm.
- Chi phí chuyển đổi (conversion cost): bao gồm chi phí lao động trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Chi phí
này phản ánh chi phí phát sinh trong quá trình chuyển đổi nguyên liệu thành thành phẩm.
2.1.2.2. Chi phí ngoài sản xuất
Chi phí ngoài sản xuất là các loại chi phí phát sinh ngoài quá trình sản xuất liên quan đến quản lý chung và
tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Chi phí ngoài sản xuất được chia thành hai loại sau:
a. Chi phí bán hàng
Chi phí bán hàng bao gồm toàn bộ các khoản chi phí phát sinh cần thiết để đảm bảo việc thực hiện các đơn
đặt hàng, giao sản phẩm cho khách hàng, như các loại chi phí: chi phí vận chuyển, chi phí bốc dỡ sản phẩm đi
tiêu thụ; chi phí về bao bì đóng gói; lương phải trả cho nhân viên bán hàng và các khoản trích theo lương của họ;
chi phí khấu hao tài sản cố định dùng cho bộ phận bán hàng; chi phí liên quan đến việc tồn trữ thành phẩm hàng
hoá trong kho... Loại chi phí này xuất hiện ở tất cả các loại hình doanh nghiệp cả doanh nghiệp sản xuất, doanh
nghiệp kinh doanh thương mại, cũng như doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ...
b. Chi phí quản lý doanh nghiệp
Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm toàn bộ các khoản chi phí chi ra để phục vụ chung cho quản lý sản
xuất kinh doanh, quản lý hành chính và các khoản chi phí có tính chất chung cho toàn doanh nghiệp. Các chi phí
thuộc loại này gồm có: chi phí cho nhân viên quản lý, chi phí vật liệu, dụng cụ, đồ dùng cho quản lý, chi phí khấu
hao tài sản cố định dùng chung cho toàn doanh nghiệp, chi phí dịch vụ mua ngoài (điện, nước, điện thoại...); chi
phí về văn phòng phẩm, tiếp tân, hội nghị; chi phí đào tạo cán bộ... Trong tất cả các loại hình doanh nghiệp đều
có loại chi phí này.
2.1.3. Công dụng
Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động cung cấp thông tin để:
- Kiểm soát thực hiện chi phí theo định mức.
9
- Tính giá thành sản phẩm.
- Định mức chi phí, xác định giá thành định mức.
Sơ đồ 2.1. Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động
Chi phí
Chi phí
ngoài sản xuất
Chi phí
sản xuất
Chi phí
nguyên
vật liệu
trực tiếp
Chi phí
Chi phí
nhân
công trực
tiếp
Chi phí
sản xuất
chung
Chi
phí bán
hàng
quản lý
doanh
nghiệp
Chi phí ban đầu Chi phí chuyển đổi
2.2. Phân loại theo mối quan hệ với thời kỳ xác định lợi nhuận
2.2.1. Căn cứ để phân loại
Căn cứ vào mối quan hệ của chi phí phát sinh đến chế tạo sản phẩm hay thời kỳ kinh doanh.
2.2.2. Các loại chi phí
Một điều quan trọng đối với cả kế toán tài chính và kế toán quản trị là việc xác định thời điểm ghi nhận các
khoản chi tiêu trong việc mua sắm tài sản hoặc dịch vụ được ghi nhận là chi phí (expense). Thuật ngữ chi phí sản
phẩm (product costs) và chi phí thời kỳ (period costs) được sử dụng để mô tả thời điểm ghi nhận các loại chi phí
khác nhau.
2.2.2.1. Chi phí sản phẩm
Chi phí sản phẩm là những chi phí gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm hay hàng hóa được mua vào.
Chi phí sản phẩm là giá vốn hàng bán tại thời điểm sản phẩm hoặc dịch vụ được tiêu thụ, được ghi nhận trong
báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và được bù đắp bằng doanh thu (thu nhập) của số sản phẩm, hàng hóa đã
bán. Khi sản phẩm, hàng hóa chưa tiêu thụ được thì những chi phí này nằm trong sản phẩm, hàng hóa tồn kho
(gọi là chi phí tồn kho) và được ghi nhận trong bảng cân đối kế toán.
2.2.2.2. Chi phí thời kỳ
Tất cả các chi phí không phải là chi phí sản phẩm được xếp loại là chi phí thời kỳ. Những chi phí này được
ghi nhận là chi phí trong kỳ chúng phát sinh và làm giảm lợi tức trong kỳ đó. Nói một cách khác, những chi phí
thời kỳ được xem là phí tổn và được khấu trừ ra khỏi sản xuất lợi tức của thời kỳ mà chúng phát sinh. Chính vì
thế, chúng được gọi là chi phí thời kỳ và được ghi nhận ở các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
Chi phí thời kỳ bao gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
2.2.3. Công dụng
Phân loại chi phí theo mối quan hệ với thời kỳ xác định lợi nhuận để xác định đúng phí tổn trong kỳ nhằm
xác định hiệu quả kinh doanh.
Sơ đồ 2.2. Phân loại chi phí theo mối quan hệ
với thời kỳ xác định lợi nhuận
Chi phí
Chi phí
Chi phí
sản phẩm
thời kỳ
10
Chi phí
Chi phí
QLDN
Chi phí
NCTT
Chi phí
sản xuất
chung
Chi phí
NVLTT
bán hàng
Mối quan hệ giữa chi phí sản phẩm Chi phí thời kỳ với thời kỳ xác định lợi nhuận được thể hiện qua Sơ đồ
2.3.
Chi phí sản phẩm
Chi phí nguyên
vật liệu trực
tiếp
Chi phí nhân
công trực
tiếp
Chi phí sản
xuất chung
Doanh thu bán
hàng
-
Chi phí sản xuất
dở dang
Giá trị thành phẩm
hoàn thành nhập
Giá vốn
hàng bán
kho
=
Lợi nhuận gộp
-
Chi phí bán hàng, chi
phí quản lý doanh
nghiệp
Chi phí thời kỳ
=
Lợi nhuận thuần trước
thuế thu nhập doanh
nghiệp
2.3. Phân loại theo mối quan hệ với đối tượng chịu chi phí
2.3.1. Căn cứ để phân loại
Căn cứ vào mối quan hệ của chi phí phát sinh đến mục đích.
11
2.3.2. Các loại chi phí
Theo phương pháp phân phối chi phí cho một đối tượng chịu chi phí, các chi phí được phân loại thành chi
phí trực tiếp (direct costs) và chi phí gián tiếp (indirect costs).
2.3.2.1. Chi phí trực tiếp
Chi phí trực tiếp đối với một đối tượng chịu chi phí là loại chi phí liên quan trực tiếp đến đối tượng chịu chi
phí (như từng loại sản phẩm, công việc, hoạt động, đơn đặt hàng...) và có thể tính trực tiếp cho đối tượng đó một
cách hiệu quả, ít tốn kém (cost-effective), dễ nhận biết và hạch toán chính xác, ví dụ như phần lớn chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp là chi phí trực tiếp.
2.3.2.2. Chi phí gián tiếp
Chi phí gián tiếp đối với một đối tượng chịu chi phí là loại chi phí liên quan đến đối tượng chịu chi phí,
nhưng không thể tính trực tiếp cho đối tượng chịu chi phí đó một cách hiệu quả. Nói đúng hơn, chi phí gián tiếp
là chi phí liên quan đến nhiều đối tượng chịu chi phí. Do vậy, chi phí gián tiếp được tập hợp theo từng nơi phát
sinh chi phí khi chúng phát sinh, sau đó phân phối cho từng đối tượng theo phương pháp phân bổ gián tiếp. Lấy
một chiếc vợt tennis làm đối tượng chịu chi phí. Chi phí sợi carbon sử dụng để làm vợt là một chi phí trực tiếp.
Lượng tiêu hao nguyên liệu dùng để sản xuất vợt có thể tính trực tiếp cho từng chiếc vợt. Chi phí điện thắp sáng
trong phân xưởng sản xuất vợt là một chi phí gián tiếp đối với từng chiếc vợt được sản xuất ra. Mặc dù chi phí
điện thắp sáng trong phân xưởng có liên quan đến việc sản xuất vợt, nhưng thật khó và không hiệu quả khi kế
toán tìm cách xác định chính xác chi phí thắp sáng được sử dụng cho một chiếc vợt.
Mối quan hệ giữa chi phí trực tiếp, chi phí gián tiếp và đối tượng chịu chi phí được thể hiện qua Sơ đồ 2.4.
Sơ đồ 2.4. Mối quan hệ của chi phí trực tiếp,
chi phí gián tiếp với đối tượng chịu phí
Chi phí
Phân
phối
chi
trực tiếp
Đối
tượng
chịu
phí
phí
Chi phí
gián tiếp
2.3.3. Công dụng
Phân loại chi phí theo mối quan hệ với đối tượng chịu chi phí để kế toán tập hợp và phân bổ chi phí chính
xác cho các đối tượng.
2.4. Phân loại theo cách ứng xử chi phí
2.4.1. Khái niệm
ứng xử của chi phí có nghĩa là những khoản chi phí này tăng giảm như thế nào đối với các mức độ thay đổi
của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Mức độ hoạt động là số sản phẩm sản xuất, số giờ máy sản xuất, số giờ lao động trực tiếp, số sản phẩm tiêu
thụ, doanh thu.
Dựa vào cách ứng xử của chi phí theo sự biến đổi của mức hoạt động, chi phí của tổ chức được phân loại
thành chi phí biến đổi (variable costs), chi phí cố định (fixed costs) và chi phí hỗn hợp (mixed costs).
2.4.2. Căn cứ để phân loại
Căn cứ vào mối quan hệ của sự biến đổi chi phí và sự biến đổi của mức hoạt động.
2.4.3. Các loại chi phí
2.4.3.1. Chi phí biến đổi
Là chi phí thay đổi trên tổng số theo sự thay đổi của mức độ hoạt động (ví dụ như sản lượng, số giờ lao
động, số giờ máy...).
Quan hệ giữa chi phí biến đổi và mức hoạt động thường là quan hệ tỷ lệ thuận, quan hệ tuyến tính.
12
Chi phí của một đơn vị hoạt động không đổi (trong trường hợp sản xuất công nghiệp hàng loạt).
Biến phí được trình bày bằng phương trình sau:
yb = ax
Trong đó:
yb: biến phí.
a: biến phí đơn vị.
x: mức hoạt động.
Ví dụ 1: Nếu công ty Honda Việt Nam mua lốp xe từ Công ty CASUMINA để lắp ráp xe gắn máy Wave
Alpha với giá 200.000 đồng/cặp lốp, tổng chi phí lốp xe sẽ bằng 200.000 đồng nhân với số lượng xe được lắp
ráp.
Đây là một ví dụ về chi phí biến đổi, là chi phí thay đổi trên tổng số theo sự thay đổi của số lượng xe được
lắp ráp. Tuy nhiên, chi phí biến đổi tính cho một xe (chi phí biến đổi đơn vị) không thay đổi theo số lượng xe
được lắp ráp. Hình 2.1 dưới đây trình bày đồ thị của chi phí lốp xe để lắp ráp xe gắn máy tại Công ty Honda Việt
Nam.
Hình 2.1
Đồ thị chi ph
lố p xe
Có 2 loại biến phí:
Biến phí thực thụ là chi phí thay đổi theo tỷ lệ với sự thay đổi mức độ hoạt động.
Ví dụ 2: Chi phí là biến phí thực thụ như:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
-Chi phí nhân công trực tiếp -trả lương khoán theo sản phẩm.
- Chi phí dầu nhớt cho máy sản xuất.
-Chiphínhâncônggiántiếp-trảlươngkhoántheosảnphẩm.
- Chi phí nhân viên bán hàng - trả lương khoán theo doanh thu.
- Chi phí hoa hồng - chi theo một tỷ lệ trên doanh thu.
- Chi phí vận chuyển hàng bán - trả theo trọng lượng...
Hình 2.1.1. Đồ thị của biến phí thực thụ
Số tiền
(chi phí)
Y = ax
ax
0
x
Sản phẩm (mức hoạt động)
13
Biến phí cấp bậc là chi phí thay đổi khi mức độ hoạt động thay đổi nhiều.
Ví dụ 3: Chi phí là biến phí cấp bậc như:
Chi phí nhân viên bán hàng trả theo từng mức doanh thu: doanh thu dưới 400.000.000đ tiền lương
1.000.000đ, doanh thu từ 400.000.000đ đến dưới 800.000.000đ tiền lương 1.500.000đ...
Hình 2.1.2. Đồ thị của biến phí cấp bậc
Số tiề n
(chi ph )
y3
y2
y1
0
x1
x2
Sả n phẩ m (mức hoạ t
đ ộ ng)
2.4.3.2. Chi phí cố định
Là chi phí không thay đổi trên tổng số khi mức độ hoạt động thay đổi trong một phạm vi (hoặc thay đổi
nhưng không tỷ lệ với mức độ hoạt động thay đổi).
Ví dụ: Chi phí là định phí như:
- Chi phí khấu hao nhà xưởng máy móc thiết bị.
- Chi phí nhân viên quản lý trả cố định (theo thời gian).
- Chi phí nhân công trực tiếp - trả cố định (theo thời gian).
- Chi phí văn phòng phẩm.
- Chi phí bảo hiểm tài sản...
Không nên quan niệm là định phí sẽ luôn luôn cố định mà nó có thể tăng giảm trong tương lai, tuy không
ảnh hưởng bởi tăng giảm mức độ hoạt động.
Ví dụ: Tiền thuê nhà tăng, tiền lương nhân viên quản lý tăng... do biến động giá.
Chi phí của một đơn vị hoạt động sẽ thay đổi.
Có thể xem xét một ví dụ cụ thể về chi phí cố định như sau:
Ví dụ: Chi phí khấu hao xưởng lắp ráp xe gắn máy trong một tháng tại Công ty Honda Việt Nam là
2.000.000.000 đồng. Đây là một chi phí cố định. Chi phí này không thay đổi theo sự thay đổi số lượng xe được
lắp ráp hàng tháng tại Công ty Honda Việt Nam. Chi phí cố định đơn vị (average fixed cost) sẽ giảm dần theo sự
gia tăng mức độ hoạt động. Nếu Công ty Honda Việt Nam lắp ráp 1.000 chiếc xe gắn máy trong một tháng thì chi
phí khấu hao xưởng lắp ráp tính chi một xe là 2.000.000 đồng (2.000.000.000:1.000). Nhưng nếu số lượng xe lắp
ráp tăng lên thành 2.000 xe trong một tháng thì chi phí khấu hao tính cho một xe giảm xuống còn 1.000.000 đồng
(2.000.000.000:2.000). Hình 2.2 trình bày đồ thị của chi phí khấu hao xưởng lắp ráp tại Công ty Honda Việt
Nam.
Hình 2.2. Đồ thị của chi phí khấu hao
xưởng lắp ráp tại Công ty Honda Việt Nam
Có 2 loại định phí:
14
Định phí bắt buộc là chi phí liên quan đến máy móc thiết bị, cấu trúc tổ chức...
Ví dụ: Chi phí là định phí bắt buộc như:
- Chi phí khấu hao nhà xưởng, máy móc thiết bị.
- Chi phí nhân viên quản lý trả cố định (theo thời gian).
- Chi phí điện thắp sáng bảo vệ.
- Chi phí bảo hiểm tài sản...
Đặc điểm của định phí bắt buộc:
- Có bản chất lâu dài.
- Không thể giảm đến không.
Yêu cầu quản lý:
- Phải thận trọng khi quyết định đầu tư.
- Tăng cường sử dụng những phương tiện hiện có.
Định phí không bắt buộc là chi phí liên quan đến nhu cầu kinh doanh theo từng kỳ kế hoạch.
Ví dụ: Chi phí là định phí không bắt buộc như:
- Chi phí quảng cáo.
- Chi phí đào tạo.
- Chi phí thuê tư vấn quản lý.
Đặc điểm định phí không bắt buộc:
-Kế hoạch cho định phí không bắt buộc là kế hoạch ngắn hạn.
- Có thể cắt giảm khi cần thiết.
Yêu cầu quản lý: Phải xem xét lại mức chi tiêu cho mỗi kỳ kế hoạch.
Định phí được trình bày bằng phương trình:
yd = b
Trong đó:
yd: định phí.
b: hằng số
Hình 2.2.1. Đồ thị của định phí
2.4.3.3. Chi phí hỗn hợp
Là những khoản chi phí bao gồm cả yếu tố biến phí lẫn định phí. Phần định phí của chi phí hỗn hợp phản
ánh chi phí căn bản, tối thiểu để duy trì sự phục vụ và giữ cho dịch vụ đó luôn luôn ở tình trạng phục vụ.
Phần biến phí của chi phí hỗn hợp phản ánh chi phí thực tế hoặc chi phí sử dụng vượt quá định mức. Do đó,
yếu tố biến phí sẽ có biến thiên tỷ lệ với dịch vụ phục vụ hoặc sử dụng quá định mức.
Ví dụ: Chi phí là chi phí hỗn hợp như:
- Chi phí điện thoại cố định trong dịch vụ viễn thông - phí thuê bao là định phí, phí trả theo thời gian sử dụng
là biến phí.
- Chi phí nhân công trực tiếp, trường hợp trả lương vừa bao gồm theo thời gian và theo sản phẩm - phần trả
theo thời gian là định phí, phần trả theo sản phẩm là biến phí...
Chi phí hỗn hợp được trình bày bằng phương trình:
y = ax + b
Trong đó:
15
y: chi phí hỗn hợp; a: biến phí đơn vị hoạt động
x: số lượng đơn vị hoạt động
b: tổng định phí
Hình 2.3. Đồ thị của chi phí hỗn hợp
Mọi loại chi phí đòi hỏi được quản lý theo cách thức khác nhau, việc quản lý thích hợp đối với biến phí phải
xây dựng và kiểm soát tốt định mức. Việc quản lý thích hợp với định phí bắt buộc phải bắt đầu từ giai đoạn khảo
sát, tận dụng tối đa công suất và linh hoạt trong các quyết định về định phí không bắt buộc. Bởi vậy để phục vụ
cho việc lập kế hoạch, kiểm soát và chủ động điều tiết chi phí, các nhà quản trị doanh nghiệp cần phải phân tích
chi phí hỗn hợp thành các yếu tố định phí và biến phí. Có nhiều phương pháp để phân tích, như: phương pháp đồ
thị, phương pháp bình phương bé nhất, phương pháp cực đại, cực tiểu (phương pháp đơn giản và được áp dụng
nhiều nhất).
Phương pháp cực đại, cực tiểu còn được gọi là phương pháp chênh lệch, phương pháp này phân tích chi phí
hỗn hợp dựa trên cơ sở đặc tính của chi phí hỗn hợp, thông qua khảo sát chi phí hỗn hợp ở mức cao nhất và ở
mức thấp nhất. Để tách chi phí hỗn hợp thành biến phí và định phí, cần tiến hành qua 4 bước sau đây:
Bước 1: Xác định mức chênh lệch chi phí ở mức độ hoạt động cao nhất và thấp nhất.
Bước 2: Xác định mức chênh lệch giữa 2 mức độ hoạt động ở 2 điểm cao nhất và thấp nhất.
Bước 3: Lấy mức chênh lệch chi phí chia cho mức chênh lệch của mức độ hoạt động để xác định yếu tố biến
phí đơn vị.
Bước 4: Yếu tố định phí được xác định bằng cách lấy tổng chi phí ở mức độ hoạt động cao nhất hoặc thấp
nhất trừ đi tổng biến phí ở mức độ hoạt động tương ứng.
Xác định phương trình chi phí: (y)
y = ax + b
Ví dụ: Số liệu về chi phí thuê máy thi công theo phương thức thuê hoạt động, xác định tiền thuê phải trả hàng tháng của
một doanh nghiệp xây lắp trong 6 tháng đầu năm N như sau:
Số giờ máy hoạt
động (giờ)
Tổng chi phí thuê máy
Tháng
(đồng)
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
Tháng 4
Tháng 5
Tháng 6
1.000
800
11.000.000
10.800.000
12.000.000
11.100.000
10.950.000
11.200.000
2.000
1.100
950
1.200
Cộng
7.050
67.050.000
Số giờ máy
hoạt động
2.000
Chi phí thuê máy
Mức độ hoạt động cao nhất
Mức độ hoạt động thấp nhất
12.000.000
10.800.000
800
16
Bước 1: Xác định mức chênh lệch chi phí thuê máy
12.000.000 - 10.800.000 = 1.200.000 (đ)
Bước 2: Xác định mức chênh lệch số giờ máy hoạt động
2.000 - 800 = 1.200 (giờ)
Bước 3: Xác định chi phí thuê máy cho 1 giờ máy hoạt động (biến phí của 1 giờ máy hoạt động)
1.200.000/1.200 = 1.000 (đ/h)
Bước 4: Xác định tổng định phí của chi phí thuê máy
+ Mức hoạt động cao nhất
b = 12.000.000 - (2.000* 1.000) = 10.000.000 (đ)
+ Mức hoạt động thấp nhất
b = 10.800.000 - (800* 1.000) = 10.000.000 (đ)
Ta có phương trình biểu diễn của chi phí thuê máy thi công như sau:
y = 1.000x + 10.000.000 (x là tổng số giờ máy thuê hoạt động)
2.4.4. Công dụng
Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí cung cấp thông tin để:
- Hoạch định và kiểm soát chi phí.
- Nghiên cứu quan hệ chi phí - khối lượng - lợi nhuận, phân tích điểm hoà vốn để ra các quyết định kinh
doanh.
- Kiểm soát hiệu quả kinh doanh - lập báo cáo kết quả hoạt động kinh dhoanh theo dạng số dư đảm phí (kế
toán quản trị).
Sơ đồ 2.5. Phân loại chi phí theo ứng xử của chi phí
Chi phí
Chi phí
hỗn hợp
Biến phí
Định phí
Biến phí
thực thụ
Biến phí Định phí
cấp bậc bắt buộc
Định phí
tuỳ ý
Biến
Định
phí
phí
2.5. Các loại chi phí được sử dụng trong lựa chọn các phương án
2.5.1. Chi phí chênh lệch
- Là những khoản chi phí có ở phương án sản xuất kinh doanh này nhưng không có hoặc chỉ có một phần ở
phương án sản xuất kinh doanh khác. Đây là một khái niệm rộng về chi phí được dùng để so sánh chi phí khi lựa
chọn phương án kinh doanh tối ưu.
- Chi phí chênh lệch là chi phí có mức chênh lệch giữa hai phương án, là chi phí quan trọng để lựa chọn
phương án thực hiện.
- Chi phí chênh lệch có mức chênh lệch thay đổi theo thời gian, điều kiện khác...
Công dụng: Cung cấp thông tin để người quản lý ra quyết định.
Ví dụ: Chi phí công cụ, dụng cụ bán hàng trong phương án bán sỉ khác phương án bán lẻ.
2.5.2. Chi phí kiểm soát được, chi phí không kiểm soát được
- Chi phí kiểm soát được là chi phí phát sinh được quyết định bởi một cấp quản lý.
Chi phí kiểm soát được thường liên quan đến một bộ phận (trung tâm) cụ thể và bị ảnh hưởng đáng kể bởi
người quản lý bộ phận.
17
Ví dụ: Chi phí quảng cáo riêng ở cửa hàng - người cửa hàng trưởng quyết định được mức chi tiêu...
- Chi phí không kiểm soát được là chi phí phát sinh không do quyết định bởi một cấp quản lý.g
Ví dụ: Chi phí quảng cáo chung do công ty phân bổ - người cửa hàng trưởng không quyết định được mức chi
tiêu.
Trong hệ thống kiểm tra quản lý ở các cấp chủ yếu tập trung vào những chi phí có thể kiểm soát ở cấp quản
lý thấp và trung gian.
Công dụng: Cung cấp thông tin để đánh giá thành quả người quản lý.
2.5.3. Chi phí cơ hội
Trong kinh doanh, một khoản chi phí phát sinh đều được phản ánh và theo dõi trong sổ kế toán, cũng như
báo cáo kế toán, tuy nhiên có một loại chi phí hoàn toàn không được phản ánh trên sổ kế toán, nhưng lại rất quan
trọng, phải được xem xét, cân nhắc mỗi khi doanh nghiệp cần lựa chọn phương án kinh doanh, đó là chi phí cơ
hội.
Chi phí cơ hội là lợi ích mất đi do lựa chọn phương án kinh doanh này thay vì lựa chọn phương án kinh doanh
khác.
Như vậy, ngoài những chi phí kinh doanh đã được tập hợp, phản ánh trong sổ kế toán, trước khi quyết định,
nhà quản trị còn phải xem xét chi phí cơ hội phát sinh do những yếu tố kinh doanh đó có thể sử dụng theo cách
khác, mà những cách này cũng mang lợi nhuận.
Ví dụ: Giả sử doanh nghiệp A có một địa điểm hiện đang sử dụng để kinh doanh, với mức lãi thu hàng năm
là 200 triệu đồng. Giả sử một doanh nghiệp khác đề nghị thuê lại địa điểm đó với số tiền thuê 120 triệu/năm. Như
vậy nếu xét cả chi phí cơ hội thì rõ ràng hàng năm doanh nghiệp, chỉ còn lãi 80 triệu đồng (200 triệu - 120 triệu),
do vậy 120 triệu đồng thu được (nếu cho thuê) là chi phí cơ hội của phương án sử dụng địa điểm kinh doanh kiếm
lãi 200 triệu/năm. Do đó đang sử dụng địa điểm kinh doanh kiếm lãi 200 triệu/năm nên doanh nghiệp A chấp
nhận mất cơ hội để có khoản tiền thu được nếu cho thuê địa điểm này.
Chi phí cơ hội là chi phí giả định, chúng không có trong sổ kế toán nhưng cần phải được xem xét trước khi
lựa chọn phương án thực hiện.
Công dụng: Cung cấp thông tin để người quản lý ra quyết định.
2.5.4. Chi phí chìm
Là những chi phí đã phát sinh, nó có trong tất cả phương án sản xuất kinh doanh được đưa ra xem xét, lựa
chọn. Đây là những chi phí mà các nhà quản trị phải chấp nhận không có sự lựa chọn.
Ví dụ: chi phí khấu hao tài sản cố định là chi phí chìm khi xem xét các phương án có liên quan đến sản
phẩm, dịch vụ được sản xuất thông qua việc sử dụng các tài sản cố định đó, hoặc những chi phí doanh nghiệp đã
chi để thực hiện một hợp đồng kinh tế với một khách hàng nhưng đến thời hạn giao hàng thì khách hàng đó gặp
rủi ro không thể thực hiện hợp đồng, là chi phí chìm khi xem xét các phương án: gia cố, bổ sung theo yêu cầu của
khách hàng khác để bán hoặc vứt bỏ nó. Dù thực hiện phương án nào thì chi phí chìm luôn luôn là thông tin
không thích hợp cho việc xem xét, lựa chọn phương án tối ưu.
Chi phí chìm là kết quả của quyết định quá khứ, chi phí đó đang hiện hữu nên không cần quan tâm đến nó
khi dự tính đưa ra quyết định mới.
Công dụng: Cung cấp thông tin để người quản lý ra quyết định.
3. Hệ thống quản lý chi phí
3.1. Tập hợp và phân bổ chi phí
Một hệ thống kế toán chi phí thường xác định chi phí theo hai giai đoạn cơ bản: tập hợp chi phí và phân phối chi phí.
Giai đoạn 1: Tập hợp chi phí: là việc thu thập số liệu chi phí một cách có tổ chức thông qua hệ thống kế
toán. Ví dụ, chi phí được tập hợp theo cách phân loại chi phí theo khoản mục: chi phí nguyên liệu trực tiếp, chi
phí lao động trực tiếp, chi phí sản xuất chung...
Giai đoạn 2: Phân phối chi phí: là việc phân phối các chi phí tập hợp được cho các đối tượng chịu chi phí.
Việc phân phối chi phí có thể bao gồm:
(1) Tính trực tiếp chi phí cho các đối tượng chịu chi phí (áp dụng cho các chi phí trực tiếp như chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp). Những chi phí trực tiếp phát sinh liên quan đến bộ phận
hoặc hoạt động nào thì quy nạp trực tiếp cho bộ phận hoặc hoạt động đó.
(2) Phân bổ chi phí cho các đối tượng chịu chi phí.
- Những chi phí phát sinh liên quan đến nhiều bộ phận, nhiều hoạt động (chi phí quản lý, chi phí bán hàng,
chi phí sản xuất chung) thì phân bổ cho các bộ phận hoặc hoạt động. Kế toán quản trị đứng trước 3 cách lựa
chọn:
+ Không phân bổ các chi phí chung cho các bộ phận hoặc các hoạt động, nghĩa là không phân bổ các chi phí
18
này cho giá thành sản phẩm. Theo cách này, nhà quản trị sẽ không biết được giá thành đầy đủ của sản phẩm. Tuy
nhiên không phân bổ các chi phí này không có nghĩa là không quản lý các chi phí này.
+ Phân bổ các chi phí chung cho các bộ phận, hoặc hoạt động liên quan theo một tiêu chuẩn (tiêu thức)
chung. Tuy nhiên tiêu chuẩn phân bổ này là hợp lý và phù hợp với quy luật chi phí chung cần phân bổ.
+ Tổ chức lại việc tổ chức sản xuất để có thể quy nạp chi phí trực tiếp theo từng bộ phận hoặc hoạt động.
Cách làm này đặt ra vấn đề là phải xem xét khả năng sinh lời và chi phí cơ hội của việc tổ chức lại các bộ phận
trong doanh nghiệp.
Khi thực hiện các lựa chọn này, cần phân biệt rõ ràng hai mục tiêu khác nhau (thậm chí có thể mâu thuẫn nhau)
là:
- Mục tiêu kỹ thuật: xác định được giá phí, giá thành của một loại sản phẩm, công việc, lao vụ, dịch vụ nhất
định.
- Mục tiêu kiểm soát chi phí: tác động vào các bộ phận phát sinh chi phí để kiểm soát và quản lý được các
chi phí này hiệu quả hơn
Việc sử dụng các tiêu chuẩn phân bổ chi phí gián tiếp có thể cho phép đạt được mục tiêu thứ nhất nhưng khó
có thể cho phép đạt mục tiêu thứ hai.
Khi doanh nghiệp lựa chọn phương án là phân bổ chi phí chung cho các bộ phận hoặc hoạt động liên quan
theo một tiêu chuẩn nào đó, doanh nghiệp không cần tổ chức ghi chép ban đầu chi tiết chi phí phát sinh cho từng
đối tượng. Trong trường hợp này doanh nghiệp tập hợp tất cả chi phí phát sinh cho nhiều đối tượng chịu phí sau
đó lựa chọn tiêu thức phân bổ thích hợp để phân bổ khoản chi phí này cho từng đối tượng chịu phí. Việc phân bổ
được tiến hành theo trình tự:
Bước 1: Xác định hệ số phân bổ:
Tổng chi phí cần phân bổ
Hệ số phân bổ
=
Tổng đại lượng tiêu chuẩn phân bổ
Bước 2: Xác định mức chi phí phân bổ cho từng đối tượng:
Ci lµ chi phÝ ph©n bæ cho ®èi t-îng i
Ci = Ti x H T lµ ®¹i l-îng tiªu chuÈn ph©n bæ cho ®èi
i
H hÖ sè ph©n bæ
Với phương pháp phân bổ gián tiếp, mức độ chính xác của chi phí sản xuất tính cho từng đối tượng tập hợp
chi phí sản xuất phụ thuộc vào tính hợp lý của tiêu chuẩn phân bổ được lựa chọn sử dụng. Việc lựa chọn tiêu
chuẩn phân bổ của doanh nghiệp có thể xảy ra một trong bốn trường hợp:
Nhiều khi có những chi phí trực tiếp sản xuất sản phẩm cũng phải phân bổ gián tiếp cho các đối tượng chịu
chi phí, nếu chúng có liên quan đến nhiều đối tượng chịu chi phí. Ngược lại, chi phí gián tiếp phục vụ sản xuất
cũng có thể tập hợp trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí khi chi phí này được hạch toán riêng biệt chi từng
đối tượng chịu chi phí ngay từ khâu hạch toán ban đầu.
Ví dụ phân bổ chi phí:
Có số liệu về chi phí vật liệu trực tiếp dùng cho sản xuất tại phân xưởng số 1 (phân xưởng số 1 chế tạo 2 loại
sản phẩm A và B) trong kỳ là: 12.000.000đ
Trong kỳ sản xuất hoàn thành 500 sản phẩm A và 1.000 sản phẩm B.
Định mức chi phí vật liệu phụ cho sản phẩm A là 10.000đ; sản phẩm B là: 5.000đ.
Biết rằng tiêu chuẩn phân bổ chi phí vật liệu phụ trực tiếp là định mức chi phí vật liệu phụ trực tiếp.
Yêu cầu: Phân bổ chi phí nguyên vật liệu phụ trực tiếp cho hai loại sản phẩm trên.
Giải:
Quá trình phân bổ nguyên vật liệu phụ trực tiếp được tiến hành như sau:
Bước 1: Xác định hệ số phân bổ:
12.000.000
500 x 10.000 + 1.000 x 5.000
1,2
Hệ số phân bổ =
Bước 2: Xác định mức chi phí phân bổ cho từng đối tượng:
Chi phí vật liệu phân bổ cho sản phẩm A = 500 x 10.000 x 1,2 = 6.000.000đ
Chi phí vật liệu phân bổ cho sản phẩm B = 1.000 x 5.000 x 1,2 = 6.000.000đ
19
- Những chi phí phát sinh tại một bộ phận có thể phân bổ theo một trong 4 trường hợp sau:
+ Trường hợp 1: Bộ phận (trung tâm) chỉ có một hoạt động tạo ra 1 loại sản phẩm thì toàn bộ chi phí của bộ
phận đó được tập hợp trực tiếp cho giá phí của loại sản phẩm đó.
+ Trường hợp 2: Bộ phận có một loại hoạt động tạo ra nhiều loại sản phẩm thì chi phí của một bộ phận đó
được tập hợp theo bộ phận, sau đó phân bổ chi phí cho từng loại sản phẩm liên quan. Đại lượng tiêu chuẩn phân
bổ được gọi là đơn vị công.
+ Trường hợp 3: Bộ phận có nhiều hoạt động nhưng chỉ để tạo ra một loại sản phẩm thì những chi phí trực
tiếp liên quan đến hoạt động nào thì tập hợp cho hoạt động đó, còn những chi phí chung thì tập hợp chung, sau đó
phân bổ cho từng đối tượng.
+ Trường hợp 4: Bộ phận có nhiều hoạt động và các hoạt động tạo ra nhiều loại sản phẩm. Trong trường hợp
này, cần phải tập hợp chi phí theo từng hoạt động, sau đó tính toán phân bổ chi phí của mỗi hoạt động cho từng
loại sản phẩm liên quan. Trình tự tính toán, phân bổ có thể như sau:
(1) Những chi phí trực tiếp liên quan đến từng hoạt động thì tính cho hoạt động đó.
(2) Chi phí chung liên quan đến nhiều hoạt động thì tập hợp chung, sau đó phân bổ cho từng hoạt động.
(3) Phân bổ chi phí của từng hoạt động cho từng loại sản phẩm liên quan theo tiêu chuẩn phù hợp. Mỗi hoạt
động có thể chọn một đơn vị công khác nhau để phân bổ chi phí cho từng loại sản phẩm.
Cách thức phân bổ chi phí có thể minh hoạ qua sơ đồ sau:
Sơ đồ số 2.6. Cách thức phân bổ chi phí
Trung tâm quản lý sản xuất
Hoạt động lập
kế hoạch sản
Hoạt động theo
dõi các phân
Hoạt động quản
lý hàng tồn kho
Đơn vị công
phân bổ: Số lệnh
Đơn vị công phân
bổ: Số lượng
Đơn vị công phân
bổ: Số mặt hàng
có ở trong kho
Sản phẩm A
Sản phẩm B
Sản phẩm C
Đơn vị công là đại lượng của tiêu chuẩn phân bổ chi phí chung được lựa chọn. Nó là một biến số mô tả biến
động của chi phí trong mạng lưới phân tích chi phí nhưng không phải là nguyên nhân làm phát sinh chi phí. Đơn
vị công là một biến số có tương quan đến những biến động về chi phí.
3.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
3.2.1. Phương pháp toàn bộ
Lập báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh theo phương pháp toàn bộ là ứng dụng phân loại chi phí theo
chức năng hoạt động.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh lập theo phương pháp toàn bộ là báo cáo kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của kế toán tài chính.
20
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Kế toán quản trị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- giao_trinh_ke_toan_quan_tri.pdf