Giáo trình Nguyên lý kế toán

CHƯƠNG I  
VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, ĐỐI TƯỢNG  
VÀ PHƯƠNG PHÁP HẠCH TOÁN KẾ TOÁN  
1. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của hạch toán kế toán  
1.1. Hạch toán kế toán và tính tất yếu khách quan của hạch toán kế toán  
1.1.1. Định nghĩa  
Có rất nhiều định nghĩa về kế toán:  
Theo Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước ban hành theo Nghị định số 25/HĐBT ngày  
18/3/1989: “Kế toán là công việc ghi chép, tính toán bằng con số dưới hình thức giá trị, hiện vật và  
thời gian lao động, chủ yếu dưới hình thức giá trị để phản ánh, kiểm tra tình hình vận động của các  
loại tài sản, quá trình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn và kinh phí của Nhà  
nước cũng như từng tổ chức, xí nghiệp”.  
Theo Điều 4 của Luật kế toán thì kế toán được định nghĩa: “Kế toán là việc thu thập, xử lý,  
kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời  
gian lao động”.  
Để hiểu một cách cụ thể hơn, có thể hiểu hạch toán kế toán trên các khía cạnh sau:  
- Dưới góc độ là một môn khoa học thì kế toán là một hệ thống thông tin thực hiện việc phản  
ánh và giám đốc mọi diễn biến của quá trình hoạt động thực tế liên quan đến lĩnh vực kinh tế - tài  
chính của một tổ chức cụ thể (Doanh nghiệp, …) thông qua một số các phương pháp riêng biệt gắn  
liền với việc sử dụng ba loại thước đo: tiền, hiện vật và thời gian lao động. Trong đó thước đo bằng  
tiền là chủ yếu.  
- Là nghề nghiệp thì kế toán được hiểu đó là nghệ thuật tính toán và ghi chép bằng con số mọi  
hiện tượng kinh tế - tài chính phát sinh trong đơn vị để cung cấp một cách toàn diện và nhanh chóng  
các thông tin về tình hình và kết quả hoạt động của đơn vị, tình hình sử dụng vốn của đơn vị.  
1.1.2. Tính tất yếu của hạch toán kế toán  
Sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Trong mọi  
hình thái kinh tế - xã hội, con người đều phải tiến hành các hoạt động sản xuất. Hoạt động sản xuất  
của con người là hoạt động có ý thức và mục đích, nó được lặp đi lặp lại và không ngừng đổi mới  
hình thành quá trình tái sản xuất. Khi tiến hành các hoạt động sản xuất, con người luôn có ý thức  
quan tâm đến những hao phí cần thiết cho sản xuất, kết quả sản xuất và cách thức tổ chức quản lý  
nhằm thực hiện hoạt động sản xuất ngày càng đem lại hiệu quả cao hơn.  
Muốn sản xuất ngày càng phát triển và đạt kết quả cao. Con người phải tiến hành các hoạt  
động quan sát, đo lường, tính toán và ghi chép các hoạt động kinh tế xảy ra trong quá trình tái sản  
xuất hay hạch toán tái sản xuất.  
Vì vậy hạch toán là các hoạt động quan sát, đo lường, tính toán và ghi chép của con người đối  
với các hoạt động kinh tế xảy ra trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm thu nhận và cung cấp thông  
tin về quá trình đó phục vụ cho công tác kiểm tra, chỉ đạo các hoạt động kinh tế đảm bảo quá trình  
tái sản xuất đạt hiệu quả cao đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống xã hội.  
Hạch toán ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với quá trình lao động sản xuất, gắn liền với  
quá trình tái sản xuất xã hội, nó ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của nền  
1
sản xuất xã hội loài người. Vì vậy có thể nói hạch toán kế toán tồn tại tất yếu khách quan trong mọi  
hình thái kinh tế - xã hội.  
1.2. Vai trò của hạch toán kế toán trong nền kinh tế thị trường  
Hạch toán kế toán là công cụ phục vụ đắc lực cho quản lý kinh tế - tài chính, có vai trò quan  
trọng trong quản lý kinh tế - tài chính. Vai trò của kế toán được khẳng định xuất phát từ nhu cầu sử  
dụng thông tin trong việc ra các quyết định kinh tế và chức năng của hạch toán kế toán.  
Vai trò của kế toán trong nền kinh tế thị trường biểu hiện ở các mặt cụ thể sau:  
- Thu nhận và cung cấp thông tin về số hiện có và tình hình luân chuyển từng loại tài sản cũng  
như tổng số tài sản của đơn vị. Từ đó giúp cho người quản lý theo dõi chặt chẽ tài sản, có biện pháp  
khai thác, sử dụng tài sản đem lại hiệu quả cao, đồng thời có thể đề phòng các tổn hại đến tài sản của  
đơn vị.  
- Thu nhận và cung cấp thông tin về toàn bộ hoạt động kế toán - tài chính của đơn vị từ khâu  
mua hàng, sản xuất đến khâu bán hàng, tiêu dùng. Qua đó phân tích được hiệu quả của công tác quản  
lý phát hiện và khắc phục kịp thời những thiếu sót, đề ra những biện pháp quản lý hữu hiệu hơn  
nhằm đảm bảo sức cạnh tranh trên thị trường.  
- Thu nhận và cung cấp thông tin để đánh giá vịêc thực hiện các nguyên tắc hạch toán kinh  
doanh trong doanh nghiệp.  
- Thu nhận và cung cấp thông tin cần thiết cho các đối tượng quan tâm ở bên ngoài doanh  
nghiệp nhằm mở rộng mối quan hệ kinh tế, thu hút vốn đầu tư, liên doanh, liên kết với các đơn vị  
khác, mở rộng phạm vi hoạt động để kinh doanh có kết quả hơn.  
- Cung cấp tài liệu để thực hiện việc kiểm tra nội bộ cũng như phục vụ cho việc kiểm tra,  
kiểm soát của các cơ quan có thẩm quyền đối với hoạt động kinh doanh của đơn vị nhằm đảm bảo  
kinh doanh đúng pháp luật, cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của  
Nhà nước chịu sự chi phối và quản lý của Nhà nước.  
- Đối với Nhà nước, hạch toán kế toán giúp Nhà nước theo dõi tổng hợp số liệu các thành  
phần kinh tế, các doanh nghiệp, các ngành sản xuất… Qua đó đánh giá sự phát triển của từng ngành  
kinh tế cụ thể cũng như sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thông qua đó đề ra các chính sách,  
quyết định về kinh tế phù hợp với sự phát triển của đất nước.  
Vai trò của kế toán đã được khẳng định trong điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước ban hành năm  
1989 như sau : “Đối với Nhà nước, kế toán là công cụ quan trọng để tính toán, xây dựng và kiểm  
tra việc chấp hành ngân sách nhà nước để điều hành và quản lý nền kinh tế quốc dân. Đối với các tổ  
chức, xí nghiệp, kế toán là công cụ bảo vệ sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn nhằm đảm bảo quyền chủ  
động sản xuất kinh doanh và tổ chức hoạt động tài chính của tổ chức, xí nghiệp”.  
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay là nền kinh tế sản xuất hàng hoá  
nhiều thành phần, được vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, đòi hỏi hệ  
thống kế toán phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu quản lý các hoạt động  
kinh tế của đơn vị và của Nhà nước cũng như phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực kế toán quốc tế.  
1.3. Chức năng và nhiệm vụ của hạch toán kế toán  
1.3.1. Chức năng  
Trong công tác quản lý hạch toán kế toán có hai chức năng: chức năng phản ánh và chức năng  
giám đốc.  
2
1.3.1.1. Chức năng phản ánh (Chức năng thông tin)  
Chức năng phản ánh thể hiện ở chỗ kế toán thực hiện công việc theo dõi toàn bộ các hiện  
tượng kinh tế tài chính phát sinh trong quá trình hoạt động của đơn vị thông qua việc tính toán, ghi  
chép, phân loại, xử lý và tổng kết các dữ liệu có liên quan đến quá trình hoạt động và sử dụng vốn  
của đơn vị.  
- Trước hết, kế toán đo lường các hoạt động kinh tế tài chính bắng cách kế toán theo dõi toàn  
bộ các hiện tượng kinh tế - tài chính phát sinh trong quá trình hoạt động của đơn vị và tiến hành ghi  
chép dữ liệu thu nhận được vào các chứng từ kế toán.  
- Tiếp theo là quá trình xử lý các dữ liệu thu nhận được thành những thông tin có ích theo yêu  
cầu của người sử dụng thông tin. Quá trình xử lý được tiến hành qua việc phân loại, sắp xếp, hệ  
thống hoá và tổng hợp các dữ liệu (được thực hiện trên hệ thống tài khoản và sổ kế toán).  
- Sau đó, những thông tin đã qua xử lý được truyền đạt qua hệ thống báo cáo kế toán đến cho  
những người cần sử dụng thông tin kế toán, giúp họ đề ra quyết định kinh tế đúng đắn.  
Như vậy, rõ ràng kế toán không chỉ dừng lại ở việc ghi chép và lưu trữ dữ liệu, mà quan trọng  
hơn là thiết lập một hệ thống thông tin cho công tác quản lý, cho người ra quyết định.  
1.3.1.2. Chức năng giám đốc (Chức năng kiểm tra)  
Chức năng giám đốc thể hiện ở chỗ thông qua số liệu đã được phản ánh, kế toán sẽ nắm được  
một cách có hệ thống toàn bộ quá trình và kết quả hoạt động của đơn vị làm cơ sở cho việc đánh giá  
được đúng đắn, kiểm soát chặt chẽ tình hình chấp hành luật pháp, việc thực hiện các mục tiêu đã đề  
ra nhằm giúp cho hoạt động ngày càng mang lại hiệu quả cao. Thực hiện tốt chức năng kiểm tra là  
cơ sở để kế toán cung cấp thông tin đáng tin cậy phục vụ cho công tác phân tích, đánh giá được đầy  
đủ, đúng đắn tình hình và kết quả hoạt động của đơn vị trong từng thời kỳ nhất định, ra các quyết  
định đúng đắn, phù hợp nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị.  
Chức năng phản ánh và chức năng giám đốc có mối quan hệ với nhau rất chặt chẽ. Phản ánh  
là cơ sở để giám đốc, đồng thời thông qua giám đốc sẽ giúp cho việc phản ánh chính xác, rõ ràng,  
đầy đủ hơn. Hai chức năng này được thực hiện bởi một hệ thống các phương pháp kế toán bao gồm:  
chứng từ kế toán, ghi sổ kép, tính giá, tổng hợp - cân đối.  
Với hai chức năng vốn có như trên của hạch toán kế toán và xuất phát từ yêu cầu quản lý hoạt  
động kinh tế ở đơn vị, hạch toán kế toán trở thành một công cụ cần thiết và quan trọng không những  
đối với bản thân của đơn vị hạch toán mà còn rất cần thiết và quan trọng đối với những người có lợi  
ích trực tiếp và gián tiếp nằm ngoài doanh nghiệp như: người mua, người bán, nhà đầu tư, cơ quan  
tài chính, cơ quan pháp luật,…  
1.3.2. Nhiệm vụ  
Để thực hiện tốt chức năng của mình, nhằm thu nhận, xử lý và cung cấp đầy đủ thông tin, đáp  
ứng nhu cầu sử dụng thông tin của các đối tượng, hạch toán kế toán cần thực hiện tốt các nhiệm vụ  
sau:  
- Ghi chép thông tin phản ánh số hiện có, tình hình luân chuyển và sử dụng tài sản, vật tư, tiền  
vốn, quá trình, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và sử dụng kinh phí của đơn vị.  
- Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch thu - chi tài chính, kỷ  
luật thu nộp, thanh toán, kiểm tra việc giữ gìn, sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn, kinh phí, phát hiện  
3
và ngăn ngừa kịp thời những hành động lãng phí, tham ô, vi phạm chính sách, chế độ kỷ luật kế toán  
tài chính.  
- Cung cấp các số liệu, tài liệu cho việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, kiểm tra và  
phân tích hoạt động kinh tế tài chính, phục vụ công tác lập và theo dõi thực hiện kế hoạch, cũng như  
công tác thống kê và thông tin kinh tế.  
- Các nhiệm vụ trên có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau: thực hiện tốt nhiệm vụ ghi chép, tính  
toán, phản ánh mới có nền tảng, cơ sở để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, nhiệm vụ cung cấp thông tin,  
số liệu, tài liệu.  
Bởi vậy, hạch toán kế toán phải thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ đó mới có thể phát huy được  
vai trò của mình trong hệ thống quản lý.  
1.3.3. Yêu cầu  
Để phát huy vai trò của hạch toán kế toán, thực hiện được nhiệm vụ quy định, hạch toán kế  
toán phải đảm bảo những yêu cầu sau:  
- Tài liệu kế toán cung cấp phải đảm bảo tính thống nhất về nội dung và phương pháp tính  
toán với các tài liệu kế hoạch, với tài liệu kế toán kỳ trước, với tài liệu kế toán của các đơn vị cùng  
ngành để đảm bảo cho kế toán phản ánh và kiểm tra được tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch  
tình hình và xu thế phát triển của đơn vị cũng như tính hiệu quả và các hoạt động giữa các đơn vị  
cùng ngành, cùng lĩnh vực hoạt động.  
- Tài liệu kế toán cung cấp phải phản ánh chính xác, trung thực và khách quan tình hình thực  
tế hoạt động, quản lý kế toán tài chính của đơn vị. Giúp cho người quản lý sử dụng thông tin kế toán  
nhận biết đúng, sát thực trạng hoạt động của đơn vị, từ đó có những quyết định kinh tế đúng đắn.  
- Tài liệu kế toán cung cấp đảm bảo tính kịp thời có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc ra  
các quyết định kế toán thích hợp có hiệu quả. Bởi vậy, tất cả các nghiệp vụ kinh tế - tài chính phát  
sinh trong quá trình hoạt động của đơn vị phải được kế toán ghi chép, tính toán, phản ánh chính xác  
kịp thời. Để thực hiện được điều đó, một trong những nhân tố quan trọng là kế toán cần được trang  
bị và ứng dụng các phương tiện kỹ thuật thu nhận và xử lý thông tin hiện đại.  
- Tài liệu kế toán cung cấp phải đảm bảo tính đầy đủ. Thông tin kế toán cung cấp phản ánh  
đầy đủ các mặt hoạt động, các hiện tượng kinh tế xảy ra trong đơn vị giúp cho các nhà quản lý, các  
đối tượng sử dụng thông tin kế toán có thể nhận biết đầy đủ, toàn diện các mặt hoạt động của đơn vị  
để điều hành, quản lý đơn vị và đề ra các quyết định thích hợp có hiệu quả cao cho đơn vị và cho xã  
hội.  
- Tài liệu kế toán cung cấp phải rõ ràng, dễ hiểu. Thông tin kế toán cung cấp không những  
phục vụ cho công việc điều hành quản lý nội bộ đơn vị mà còn phục vụ cho đối tượng có lợi ích trực  
tiếp và gián tiếp đối với đơn vị như: cổ đông, người lao động, ngân hàng, nhà đầu tư, cơ quan thuế…  
Vì vậy, thông tin kế toán cung cấp phải rõ ràng, dễ hiểu giúp cho các đối tượng này dễ dàng nhận  
thức được tình hình và kết quả hoạt động của đơn vị cũng như ra các quyết định đúng đắn, góp phần  
thúc đẩy hoạt động của đơn vị ngày càng hiệu quả hơn.  
- Tổ chức công tác kế toán ở đơn vị phải quán triệt nguyên tắc tiết kiệm nhằm đảm bảo công  
tác kế toán có hiệu suất cao, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị.  
1.4. Phân loại hạch toán kế toán  
4
Hạch toán kế toán là khoa học thu nhận, hệ thống hoá, xử lý và cung cấp thông tin về tài sản  
và sự vận động của tài sản ở các đơn vị, kiểm tra, giám sát tài sản và các hoạt động kinh tế tài chính  
ở các đơn vị đó, đồng thời phục vụ cho công tác kiểm tra các hoạt động kinh tế tài chính và cho việc  
ra các quyết định kinh tế.  
Cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học thông tin và nhu cầu sử dụng thông tin  
trong việc ra các quyết định kinh tế, yêu cầu về chất lượng, số lượng thông tin do kế toán cung cấp  
đòi hỏi ngày càng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn, nhanh chóng và kịp thời hơn. Để đáp ứng  
yêu cầu đó, hạch toán kế toán không ngừng phát triển về nội dung, hình thức tổ chức, phương tiện  
xử lý và cung cấp thông tin.  
Xét trong toàn bộ thông tin mà kế toán cung cấp có sự khác nhau về mức độ khái quát của  
thông tin, về nội dung kinh tế tài chính của thông tin, về đối tượng được cung cấp thông tin….Căn  
cứ vào sự khác nhau của thông tin do kế toán cung cấp có thể chia kế toán thành các loại sau:  
1.4.1. Căn cứ vào đối tượng sử dụng thông tin của kế toán  
Do có hai phạm vi phục vụ khác nhau của thông tin kế toán (bên trong và bên ngoài đơn vị)  
nên kế toán được chia thành:  
- Kế toán quản trị: Là loại hạch toán kế toán mà thông tin về các hoạt động kinh tế - tài chính  
được hạch toán kế toán thu nhận, xử lý với mục đích chủ yếu thỏa mãn nhu cầu thông tin của các  
nhà quản trị đơn vị, làm cơ sở để đề ra các giải pháp, các quyết định hữu hiệu, đảm bảo cho quá trình  
hoạt động của đơn vị có hiệu quả cao trong hiện tại và tương lai.  
- Kế toán tài chính: Là loại hạch toán kế toán mà thông tin về các hoạt động kinh tế - tài chính  
được hạch toán kế toán thu nhận, xử lý với mục đích cung cấp thông tin đó chủ yếu cho các đối  
tượng bên ngoài đơn vị như các cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị, cá nhân tài trợ có quan tâm  
đến hoạt động của đơn vị với những mục đích khác nhau.  
- Những điểm giống nhau:  
+ Cả hai đều nằm trong hệ thống thông tin kế toán, trong đó kế toán quản trị sử dụng số liệu  
ghi chép ban đầu của kế toán tài chính.  
+ Cả hai đều liên quan đến việc phục vụ thông tin cho quản lý doanh nghiệp. Trong đó kế  
toán quản trị liên quan đến điều hành và quản lý của từng bộ phận, từng yếu tố, quá trình hoạt động  
của doanh nghiệp, còn kế toán tài chính có liên quan đến hoạt động quản lý toàn doanh nghiệp.  
- Những điểm khác nhau:  
Tiêu thức phân biệt  
Kế toán quản trị  
Kế toán tài chính  
Mục tiêu  
Phục vụ cho nhà quản trị bên Phục vụ cho các thành phần bên ngoài  
trong doanh nghiệp doanh nghiệp  
Đặc điểm thông tin  
Nhanh, linh hoạt, chủ yếu hướng Tuân thủ các nguyên tắc kế toán, phản  
về tương lai và được biểu diễn ánh cả quá khứ và được biểu hiện  
dưới hình thái tiền tệ và hiện vật. dưới hình thái tiền tệ.  
5
Phạm vi và nội dung Cung cấp thông tin về từng Cung cấp thông tin tổng quát toàn  
của thông tin  
khâu, từng bộ phận, yếu tố, quá doanh nghiệp.  
trình hoạt động của doanh  
nghiệp.  
Kỳ báo cáo  
Báo cáo thường xuyên, kịp thời. Báo cáo định kỳ: tháng, quý, năm.  
Tính pháp lý của thông Không có tính pháp lệnh, chỉ có Có tính pháp lệnh, việc lập các báo  
tin hiệu lực trong nội bộ doanh cáo phải tuân thủ theo những nguyên  
nghiệp.  
tắc chung nhằm đảm bảo cho sự tin  
cậy của những người nhận báo cáo.  
1.4.2. Căn cứ vào mức độ khái quát thông tin do kế toán cung cấp  
Căn cứ vào mức độ khái quát thông tin do kế toán cung cấp, kế toán chia thành:  
- Kế toán tổng hợp: Là loại hạch toán kế toán mà thông tin về các hoạt động kinh tế - tài chính  
được hạch toán kế toán thu nhận, xử lý ở dạng tổng quát và được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ.  
- Kế toán chi tiết: Là loại hạch toán kế toán mà thông tin về các hoạt động kinh tế - tài chính  
được hạch toán kế toán thu nhận, xử lý ở dạng chi tiết, cụ thể và được biểu hiện không những dưới  
hình thái tiền tệ mà cả dưới hình thái hiện vật, hình thái lao động.  
1.4.3. Căn cứ vào cách ghi chép và thu nhận thông tin  
Căn cứ vào cách ghi chép và thu nhận thông tin, kế toán chia thành :  
- Kế toán đơn: Là loại hạch toán kế toán mà cách ghi chép thu nhận thông tin về các hoạt động  
kinh tế tài chính được tiến hành một cách riêng biệt, độc lập. Kế toán đơn được thực hiện ngay từ  
thời kỳ đầu hình thành hạch toán kế toán để ghi chép các hoạt động sản xuất, trao đổi, buôn bán và  
ngày nay kế toán đơn vẫn còn dược thực hiện để ghi chép, thu nhận thông tin về các hoạt động kinh  
tế - tài chính có liên quan đến tài sản của đơn vị một cách chi tiết, cụ thể (ghi vào tài khoản kế toán  
chi tiết) đáp ứng yêu cầu quản lý tài sản đó và về các hoạt động kinh tế - tài chính có liên quan đến  
tài sản của các đơn vị, tổ chức, cá nhân khác mà hiện tại tài sản đó đơn vị đang có trách nhiệm quản  
và sử dụng nó (ghi vào tài khoản ngoài bảng).  
- Kế toán kép: Là loại hạch toán kế toán mà cách ghi chép, thu nhận thông tin về các hoạt  
động kinh tế - tài chính được tiến hành trong mối quan hệ mật thiết với nhau. Kế toán kép được thực  
hiện vào thời kỳ hạch toán kế toán đã có bước phát triển cùng với bước phát triển của nền sản xuất  
hàng hóa và ngày nay kế toán kép được thực hiện phổ biến để ghi chép, thu nhận thông tin về các  
hoạt động kinh tế - tài chính có liên quan đến tài sản của đơn vị ở mức độ tổng quát nhất định, đáp  
ứng yêu cầu quản lý tài sản đó (ghi vào tài khoản kế toán tổng hợp)  
1.4.4. Căn cứ vào đặc điểm và mục đích hoạt động  
Hạch toán kế toán được chia thành:  
- Kế toán công: Là loại hạch toán kế toán được tiến hành ở nhiều đơn vị hoạt động không có  
tính chất kinh doanh, không lấy danh lợi làm mục đích hoạt động. Mục tiêu chính của các đơn vị này  
là hoạt động phục vụ cộng đồng, vì sự an sinh và phát triển chung của xã hội (các tổ chức đoàn thể  
xã hội, các tổ chức nhà nước…)  
6
- Kế toán doanh nghiệp: Là loại hạch toán kế toán được tiến hành ở các doanh nghiệp hoạt  
động với mục tiêu chính là kinh doanh sinh lời. Tuy nhiên, loại hạch toán kế toán kế toán kế toán  
này cũng được tiến hành ở một số doanh nghiệp hoạt động không vì mục đích sinh lời mà chủ yếu  
là hoạt động phục vụ cộng đồng.  
Các loại hạch toán kế toán được tiến hành trong các đơn vị với mục đích thu nhận, kiểm tra,  
xử lý và cung cấp toàn bộ thông tin về tài sản và sự vận động của tài sản, toàn bộ thông tin về các  
hoạt động kinh tế tài chính, đảm bảo cho các đơn vị hoạt động hiệu quả cao hơn, góp phần thúc đẩy  
sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.  
2. Một số khái niệm và nguyên tắc kế toán  
2.1. Một số khái niệm  
2.1.1. Khái niệm đơn vị kế toán  
Nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh kế toán thống kê và Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước  
cũng như các chế độ, thể lệ về kế toán đảm bảo sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước về kế  
toán, đảm bảo cơ sở pháp lý cho kế toán ở đơn vị. Trong các văn bản Nhà nước đã ban hành có quy  
định: Tất cả các đơn vị có sử dụng tài sản và hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ đã được quy  
định đều phải tiến hành hạch toán kế toán. Các đơn vị đó được gọi chung là đơn vị kế toán, trong đó  
phân biệt: Đơn vị kế toán cấp chủ quản, đơn vị kế toán cấp cơ sở và đơn vị kế toán phụ thuộc. Các  
đơn vị kế toán sử dụng hạch toán kế toán thực hiện việc thu nhận, xử lý thông tin về các hoạt động  
kinh tế - tài chính một cách thường xuyên, liên tục, toàn diện có hệ thống và định kỳ cung cấp những  
thông tin đó cho các cơ quan quản lý nhà nước, các đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin kế toán.  
Đây là khái niệm căn bản nhất, nó đề ra cho công tác kế toán giới hạn về chủ thể mà với chủ  
thể đó tổ chức kế toán phải bảo đảm cung cấp thông tin một cách đầy đủ, toàn diện đồng thời không  
được lẫn lộn với bất kỳ một chủ thể nào khác.  
2.1.2. Khái niệm thước đo tiền tệ (đơn vị tính toán tiền tệ)  
Thước đo tiền tệ là đơn vị tính toán đồng nhất, ghi nhận các nghiệp vụ kế toán phát sinh và  
kế toán đồng thời chỉ phản ánh những gì có thể biểu hiện bằng tiền. Các đơn vị kế toán đều phải sử  
dụng thước đo tiền tệ là đồng Việt Nam. Trong trường hợp đơn vị có sử dụng ngoại tệ phải ghi  
nguyên tệ và quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá bình quân liên ngân hàng do ngân hàng Nhà nước  
Việt Nam công bố. Nếu sử dụng thước đo hiện vật, thước đo lao động bên cạnh thước đo tiền tệ phải  
sử dụng đơn vị đo lường chính thức của Nhà nước quy định.  
2.1.3. Khái niệm kỳ hạch toán  
Kỳ hạch toán là độ dài của một khoảng thời gian được quy định mà vào thời điểm cuối kỳ, kế  
toán phải lập các báo cáo tài chính phản ánh tình hình và kết quả hoạt động, tình hình tài sản và  
nguồn vốn của doanh nghiệp để phục vụ cho yêu cầu so sánh, tổng hợp, kiểm tra và đánh giá của các  
đối tượng khác nhau.  
Kỳ hạch toán mà đơn vị cung cấp thông tin về hoạt động kinh tế - tài chính của đơn vị trong  
vòng một năm được gọi là niên độ kế toán. Niên độ kế toán có thể theo năm dương lịch (từ 01 – 01  
đến 31 - 12) hoặc có thể là 12 tháng liên tục bất kỳ (từ ngày đầu của tháng này – tháng 1 năm nay  
đến ngày cuối cùng tháng trước – tháng i – 1 năm sau).  
2.2. Một số nguyên tắc  
7
Những khái niệm và những nguyên tắc kế toán có tính phổ biến được Liên đoàn kế toán quốc  
tế thừa nhận được thể hiện trong các văn bản pháp quy và thực tế công tác kế toán ở nước ta. Trong  
chuẩn mực kế toán Việt Nam – chuẩn mực số 01- chuẩn mực chung đã trình bày nội dung các nguyên  
tắc kế toán cơ bản:  
2.2.1. Cơ sở dồn tích  
Mỗi nghiệp vụ kinh tế - tài chính của doanh nghiệp liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn  
vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi vào sổ kế toán vào thời điểm phát sinh thực tế chứ  
không căn cứ vào thời điểm thu hoặc chi tương đương tiền. Báo cáo tài chính được lập trên cơ sở  
phân tích phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và tương lai.  
2.2.2. Hoạt động liên tục  
Kế toán ở các đơn vị là việc ghi chép, phản ánh tình hình hoạt động của doanh nghiệp cho dù  
khả năng hoạt động của doanh nghiệp có thể là :  
- Tiếp tục hoạt động.  
- Có thể ngừng hoạt động.  
Tuy vậy, theo khái niệm hoạt động liên tục thì công việc kế toán được đặt ra trong điều kiện  
giả thiết rằng đơn vị sẽ tiếp tục hoạt động vô thời hạn hoặc ít nhất cũng hoạt động trong thời gian 1  
năm nữa.  
Khái niệm hoạt động liên tục có liên quan đến việc lập hệ thống báo cáo tài chính. Vì giả thiết  
đơn vị tiếp tục hoạt động, nên khi lập báo cáo tài chính người ta quan tâm đến giá thị trường của các  
loại tài sản, vốn, công nợ … mặc dù trên thực tế giá thị trường có thể thay đổi, mà chỉ phản ánh tài  
sản của đơn vị theo giá vốn – hay cũng gọi là “giá phí”. Hơn nữa, vì quan niệm doanh nghiệp còn  
tiếp tục hoạt động nên việc bán đi những tài sản dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanhs của doanh  
nghiệp theo giá thị trường không đặt ra. Chính vì thế mà giá thị trường không thích hợp và thực sự  
không cần thiết phải phản ánh giá trị tài sản trên báo cáo tài chính.  
Mặc dù vậy, trong trường hợp đặc biệt khi giá thị trường thấp hơn giá vốn, kế toán có thể sử  
dụng giá thị trường như yêu cầu của nguyên tắc “thận trọng”. Mặt khác, khi một doanh nghiệp đang  
chuẩn bị ngừng hoạt động: Phá sản, giải thể, bán… thì khái niệm “Hoạt động liên tục” sẽ không có  
tác dụng trong việc lập báo cáo, khi đó giá trị thị trường mới là có tác dụng.  
Như vậy, báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả định là doanh nghiệp đang hoạt động  
và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong tương lai gần, nghĩa là doanh nghiệp không  
có ý định cũng như không buộc phải ngừng hoạt động hoặc phải thu hẹp đáng kể quy mô hoạt động  
của mình. Trường hợp thực tế khác với giả định hoạt động liên tục thì báo cáo tài chính phải lập trên  
một cơ sở khác và giải thích cơ sở đó sử dụng lập báo cáo tài chính.  
2.2.3. Giá gốc (giá vốn)  
Nguyên tắc “giá gốc” là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của kế toán. Nguyên tắc này  
đòi hỏi tất cả các loại tài sản, vật tư, hàng hoá, các khoản công nợ, chi phí… phải được ghi chép,  
phản ánh theo giá gốc của chúng, tức là theo số tiền mà đơn vị bỏ ra để có được tài sản đó. Giá gốc  
của tài sản được tính theo số tiền hoặc tương đương tiền đã trả, phải trả hoặc tính theo giá trị hợp lý  
của tài sản đó vào thời điểm tài sản được ghi nhận. Giá gốc của tài sản không được thay đổi trừ khi  
có quy định khác trong chuẩn mực kế toán cụ thể.  
8
Nguyên tắc “giá gốc” có mối quan hệ chặt chẽ với khái niệm thước đo tiền tệ và nguyên tắc  
hoạt động liên tục.  
Chính vì giả thiết đơn vị tiếp tục, không bị giải thể trong một tương lai gần nên người ta không  
quan tâm đến giá thị trường của các loại tài sản khi ghi chép và phản ánh chúng trên báo cáo tài  
chính. Hơn nữa giá thị trường lại luôn biến động nên kế toán không thể dùng giá thị trường để ghi  
chép, lập báo cáo tài chính được. Một lý do khác là để tính toán, xác định được kết quả kinh doanh  
lãi hay lỗ người ta phải so sánh giữa giá bán với giá gốc.  
2.2.4. Nguyên tắc trọng yếu  
Thông tin được coi là trọng yếu trong trường hợp nếu thiếu thông tin hoặc thiếu sự chính xác  
của thông tin đó có thể làm sai lệch đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh  
tế của người sử dụng báo cáo tài chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào độ lớn và tính chất của thông  
tin hoặc các sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Tính trọng yếu của thông tin phải đựơc  
xem xét trên cả phương diện định lượng và định tính.  
Nguyên tắc trọng yếu - hay cũng gọi là thực chất, giúp cho việc ghi chép kế toán đơn giản,  
hiệu quả hơn nhưng vẫn đảm bảo được tính chất trung thực, khách quan.  
Nguyên tắc này chú trọng đến các yếu tố, các khoản mục chi phí mang tính trọng yếu quyết  
định bản chất, nội dung của các sự kiện kinh tế, đồng thời lại cho phép bỏ qua không ghi chép các  
nghiệp vụ, sự kiện không quan trọng, không lảm ảnh hưởng tới bản chất, nội dung nghiệp vụ kinh tế  
phát sinh.  
2.2.5. Nguyên tắc phù hợp  
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị sau một kỳ hoạt động là số chênh lệch (lãi  
hoặc lỗ) giữa doanh thu bán hàng và chi phí cho số hàng đã bán.  
Việc ghi nhận doanh thu và chi phí phải phù hợp với nhau. Khi ghi nhận một khoản doanh  
thu thì phải ghi nhận một khoản chi phí tương ứng có liên quan đến việc tạo ra doanh thu đó. Chi phí  
tương ứng với doanh thu gồm chi phí của kỳ tạo ra doanh thu, chi phí của các kỳ trước và chi phí  
của các kỳ sau nhưng liên quan đến doanh thu đó.  
Nguyên tắc phù hợp đưa ra hướng dẫn về việc phát hiện chi phí để tính kết quả. Chi phí để  
tính toán, xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là tất cả các chi phí đã cấu thành trong số  
hàng đã bán (đó là giá thành toàn bộ của hàng đã bán).  
Nói cách khác, nguyên tắc phù hợp đưa ra việc xác định phần chi phí tương ứng với doanh  
thu đã thực hiện.  
2.2.6. Nguyên tắc thận trọng  
Nguyên tắc này đề cập đến việc lựa chọn những giải pháp trong vô số giải pháp sao cho ít ảnh  
hưởng nhất tới nguồn vốn chủ sở hữu, với sự lựa chon như vậy,kế toán chỉ ghi các khoản thu nhập  
khi có những chứng cứ chắc chắn, còn chi phí thì được ghi ngay khi chưa có chứng cứ chắc chắn.  
Với những tài sản có xu hướng giảm giá, mất giá hoặc không bán được cần phải dự tính khoản thiệt  
hại để thực hiện việc trích lập dự phòng tính vào chi phí, hoặc cố gắng tính hết những khoản chi phí  
có thể được cho số sản phẩm, hàng hoá đã bán để số sản phẩm, hàng hoá chưa bán được có thể chịu  
phần chi phí ít hơn…  
Như vậy, nguyên tắc thận trọng đòi hỏi:  
- Phải lập các khoản dự phòng nhưng không lập quá lớn.  
9
- Không đánh giá cao hơn giá trị của tài sản và các khoản thu nhập.  
- Không đánh giá thấp hơn giá trị của các khoản nợ phải trả và chi phí.  
- Doanh thu và thu nhập chỉ được ghi nhận khi có bằng cứ chắc chắn và khả năng thu được  
lợi ích kinh tế, còn chi phí phải được ghi nhận khi có bằng chứng về khả năng phát sinh.  
2.2.7. Nguyên tắc nhất quán  
Nguyên tắc này đòi hỏi việc áp dụng, thực hiện các khái niệm, nguyên tắc, chuẩn mực và các  
phương pháp kế toán… phải thống nhất trong suốt các niên độ kế toán. Trong những trường hợp đặc  
biệt, nếu có sự thay đổi chính sách kế toán đã lựa chọn thì đơn vị phải giải trình được lý do và sự  
thay đổi của ảnh hưởng đó trong Thuyết minh báo cáo tài chính.  
Thực hiện nguyên tắc nhất quán sẽ đảm bảo cho số liệu thông tin của kế toán trung thực,  
khách quan và đảm bảo tính thống nhất, so sánh được của các chỉ tiêu giữa các kỳ với nhau.  
Các khái niệm, nguyên tắc kế toán nêu trên cần hiểu là những khái niệm, nguyên tắc cơ bản  
áp dụng cho kế toán tài chính. Còn ở phạm vi kế toán nói chung thì tại Điều 7 Luật kế toán Việt Nam  
có nêu nguyên tắc kế toán như sau:  
- Giá trị của tài sản được tính theo giá gốc bao gồm: Chi phí mua, chi phí bốc xếp, vận chuyển,  
lắp ráp, chế biến và các chi phí liên quan trực tiếp khác đến khi đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng  
sử dụng. Đơn vị kế toán không được điều chỉnh lại giá trị tài sản đã ghi sổ kế toán, trừ trường hợp  
pháp luật có quy định khác.  
- Các quy định và phương pháp kế toán đã chọn phải được áp dụng nhất quán trong kỳ kế  
toán năm, trường hợp có sự thay đổi về các quy định và phương pháp kế toán đã chọn thì đơn vị kế  
toán phải giải trình trong báo cáo tài chính.  
- Đơn vị kế toán phải thu thập, phản ánh khách quan đầy đủ, đúng thực tế và đúng kỳ kế toán  
mà nghiệp vụ kinh tế - tài chính phát sinh.  
- Thông tin số liệu trong báo cáo tài chính năm của đơn vị kế toán phải công khai theo quy  
định về nội dung công khai báo cáo tài chính của Luật kế toán.  
- Đơn vị kế toán phải sử dụng phương pháp đánh giá tài sản và phân bổ các khoản thu chi một  
cách thận trọng, không được làm sai lệch kết quả hoạt động kinh tế, tài chính của đơn vị kế toán.  
- Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng kinh phí Ngân sách nhà nước ngoài  
việc thực hiện quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 7 Luật kế toán còn phải thực hiện kế toán  
theo mục lục Ngân sách nhà nước.  
Về cơ bản giữa các nguyên tắc được thừa nhận trong phạm vi quốc tế và nguyên tắc quy định  
trong Luật kế toán không có sự mâu thuẫn nhau mà chúng hoàn toàn nhất quán và bổ sung cho nhau.  
3. Đối tượng của hạch toán kế toán  
3.1. Đối tượng chung của hạch toán kế toán  
Hạch toán kế toán là khoa học kinh tế, có đối tượng nghiên cứu là một nội dung của quá trình  
tái sản xuất xã hội. Nghiên cứu xác định đối tượng của hạch toán kế toán là nghiên cứu xác định  
những nội dung cụ thể của quá trình tái sản xuất xã hội mà kế toán nghiên cứu, phản ánh, kiểm tra  
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội.  
Các đơn vị để tiến hành hoạt động được cần phải có một lượng tài sản nhất định. Trong quá  
trình hoạt động, lượng tài sản đó luôn luôn biến động. Trong khi đó hạch toán kế toán là công cụ  
10  
phục vụ cho việc điều hành và quản lý hoạt động kinh tế - tài chính. Để quản lý chặt chẽ các tài sản  
trong đơn vị kế toán cần phải phản ánh, kiểm tra và cung cấp thông tin về tình hình hiện có và sự  
vận động của nó trong quá trình hoạt động của đơn vị.  
Trong quá trình hoạt động, tài sản của đơn vị luôn luôn biến đổi và chuyển hóa từ hình thái  
này sang hình thái khác. Do đó, kế toán cần phải thu nhận và cung cấp thông tin về quá trình biến  
đổi và chuyển hoá tài sản của đơn vị. Bởi vậy đối tượng của hạch toán kế toán còn có thể biểu hiện  
một cách cụ thể hơn về quá trình biến đổi tài sản chính là quá trình hoạt động kinh doanh của đơn  
vị.  
Như vậy, tài sản và sự vận động của tài sản trong quá trình hoạt động của các đơn vị là đối  
tượng nghiên cứu chung của hạch toán kế toán.  
3.2. Đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán trong các đơn vị  
Để nghiên cứu đầy đủ, rõ ràng đối tượng của hạch toán kế toán cần đi sâu nghiên cứu đối  
tượng cụ thể của hạch toán kế toán trong các đơn vị, tiêu biểu là đơn vị sản xuất – một đơn vị kinh  
tế cơ sở của nền kinh tế quốc dân sử dụng tài sản và có các hoạt động kinh tế tài chính đa dạng,  
phong phú tạo ra của cải vật chất cho xã hội - đảm bảo cho xã hội tồn tại và phát triển. Từ đó, nghiên  
cứu nhận biết đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán trong các đơn vị khác.  
3.2.1. Tài sản là đối tượng của hạch toán kế toán  
Đơn vị sản xuất là đơn vị cơ sở của nền kinh tế quốc dân với chức năng sản xuất ra những sản  
phẩm vật chất hữu ích để đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống xã hội. Để thực hiện chức năng sản  
xuất ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu xã hội, đơn vị sản xuất cần thiết phải có một số tài sản nhất  
định như máy móc, thiết bị sản xuất, các phương tiện kỹ thuật, các loại nguyên vật liệu...Trong điều  
kiện nền kinh tế thị trường, các loại tài sản trong đơn vị sản xuất đều được đo lường bằng thước đo  
tiền tệ bên cạnh thước đo hiện vật. Biểu hiện bằng tiền (giá trị) của tài sản trong đơn vị sản xuất được  
gọi là vốn kinh doanh của đơn vị.  
Tài sản trong đơn vị có nhiều loại khác nhau và được hình thành từ các nguồn khác nhau. Như  
vậy các loại vốn kinh doanh, nguồn vốn kinh doanh là hai mặt biểu hiện khác nhau của cùng một  
lượng tài sản. Một lượng vốn kinh doanh của đơn vị sản xuất là đối tượng cụ thể của hạch toán kế  
toán trong đơn vị sản xuất.  
Để sử dụng hợp lý, có hiệu quả các loại vốn kinh doanh, khai thác huy động triệt để các nguồn  
vốn kinh doanh cần phải nghiên cứu nhận biết đầy đủ nội dung các loại vốn kinh doanh và các nguồn  
hình thành vốn kinh doanh trong đơn vị sản xuất.  
3.2.1.1. Vốn kinh doanh  
Vốn kinh doanh bao gồm hai loại: Vốn lưu động, vốn cố định  
a. Vốn lưu động  
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền (trị giá) của tài sản lưu động và các khoản đầu tư ngắn  
hạn, bao gồm: các loại tiền, chứng khoán ngắn hạn, tài sản trong thanh toán, tài sản dự trữ trong sản  
xuất kinh doanh, do đó vốn lưu động trong đơn vị sản xuất cũng được chia thành các loại vốn tương  
ứng: Vốn bằng tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, vốn trong thanh toán, vốn dự trữ sản  
xuất kinh doanh.  
11  
- Vốn bằng tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn là trị giá các loại tiền như: Tiền mặt  
tại quỹ, tiền gửi ở ngân hàng…; trị giá các loại chứng khoán ngắn hạn, các khoản góp vốn ngắn hạn,  
cho vay ngắn hạn.  
- Vốn trong thanh toán là trị giá tài sản của đơn vị đang nằm trong quá trình thanh toán như:  
khoản phải thu của khách hàng, tạm ứng cho công nhân viên, khoản phải thu khác (các khoản nợ  
phải thu)  
- Vốn dự trữ sản xuất kinh doanh là trị giá tài sản của đơn vị đang trong quá trình dự trữ cho  
hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị tiến hành  
thường xuyên, liên tục, không bị gián đoạn như trị giá các loại nguyên liệu, vật liệu, công cụ dụng  
cụ dự trữ trong kho chuẩn bị đưa vào sản xuất, trị giá các loại sản phẩm chế dở trên dây chuyền sản  
xuất (nửa thành phẩm tự chế, sản phẩm dở dang), trị giá các loại thành phẩm dự trữ trong kho chuẩn  
bị bán ra.  
b. Vốn cố định  
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền (trị giá) của tài sản cố định và các khoản đầu tư tài chính  
dài hạn. Tài sản cố định trong đơn vị sản xuất bao gồm: tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô  
hình (bao gồm cả tài sản cố định thuê tài chính)  
+ Tài sản cố định hữu hình: Là những tư liệu lao động có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu  
dài như: nhà cửa, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải…  
+ Tài sản cố định vô hình: Là những tài sản cố định không có hình thái vật chất, phản ánh một  
lượng giá trị mà đơn vị đã thực sự đầu tư, xuất phát từ lợi ích hay đặc quyền, đặc lợi của đơn vị bao  
gồm: bằng phát minh sáng chế, quyền sử dụng đất…  
Các khoản đầu tư tài chính dài hạn bao gồm các loại chứng khoán dài hạn, góp vốn dài hạn,  
cho vay dài hạn, cho thuê tài sản cố định theo phương thức thuê tài chính, đầu tư kinh doanh bất  
động sản, đầu tư vào công ty con, đầu tư vào công ty liên kết.  
Trong các đơn vị sản xuất khác nhau, nội dung cụ thể, tỷ trọng các loại vốn kinh doanh có  
khác nhau và trong từng đơn vị sản xuất ở những thời kỳ hoạt động khác nhau nội dung cụ thể, tỷ  
trọng các loại vốn kinh doanh cũng có khác nhau. Vì vậy, cần phải nghiên cứu, có các giải pháp,  
quyết định đúng đắn để hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao.  
3.2.1.2. Nguồn vốn kinh doanh  
Trong đơn vị sản xuất kinh doanh các nguồn vốn kinh doanh bao gồm: các khoản nợ phải trả  
và nguồn vốn chủ sở hữu.  
a. Các khoản nợ phải trả  
Nợ phải trả là các nguồn vốn mà đơn vị sản xuất phải huy động, khai thác trên cơ sở chính  
sách, chế độ Nhà nước quy định và các hợp đồng đã thỏa thuận giữa đơn vị với các tổ chức, đơn vị,  
cá nhân khác, đơn vị có quyền sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định. Sau thời gian đó đơn  
vị phải hoàn trả. Các khoản nợ phải trả bao gồm:  
- Nợ ngắn hạn: Là khoản nợ mà đơn vị có trách nhiệm phải thanh toán trong thời hạn một  
năm hoặc một chu kỳ kinh doanh.  
- Nợ dài hạn: Là khoản nợ mà đơn vị có trách nhiệm phải thanh toán trong thời hạn trên một  
năm.  
- Theo tính chất các khoản nợ được chia thành 2 loại:  
12  
+ Nợ tín dụng (tiền vay): vay ngắn hạn, vay dài hạn…  
+ Nợ phải trả khác: các khoản phải trả cho người bán, phải trả người lao động, khoản thuế và  
các khoản phải nộp Nhà nước, khoản phải trả phải nộp khác.  
b. Nguồn vốn chủ sở hữu  
Nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của đơn vị, đơn vị có quyền sử dụng  
lâu dài trong suốt thời gian hoạt động của đơn vị. Nguồn vốn chủ sở hữu được hình thành từ sự đóng  
góp ban đầu và được bổ sung từ sự đóng góp tiếp theo của các chủ sở hữu, từ kết quả hoạt động sản  
xuất kinh doanh của đơn vị. Nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm:  
- Nguồn vốn kinh doanh  
- Lợi nhuận chưa phân phối  
- Nguồn vốn chuyên dùng  
- Nguồn vốn chủ sở hữu khác.  
Do nhu cầu vốn kinh doanh của đơn vị ở từng thời kỳ hoạt động có khác nhau, bởi vậy cần  
phải nhận biết đầy đủ các nguồn vốn kinh doanh của đơn vị để có biện pháp khai thác, huy động triệt  
để các nguồn vốn kinh doanh đó đảm bảo nhu cầu vốn kinh doanh và đảm bảo cho đơn vị hoạt động  
đem lại hiệu quả cao, góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội.  
3.2.2. Sự vận động của tài sản là đối tượng của hạch toán kế toán  
Trong quá trình tái sản xuất, tài sản của doanh nghiệp luôn vận động không ngừng. Nó không  
chỉ biến đổi về hình thái tồn tại mà còn biến đổi cả về mặt giá trị.  
Trong các doanh nghiệp sản xuất, tài sản của đơn vị thường xuyên vận động qua ba giai đoạn:  
Mua hàng - Sản xuất - Bán hàng.  
- Giai đoạn mua hàng: Đơn vị bỏ tiền ra mua máy móc thiết bị, vật tư, tài sản để chuẩn bị cho  
quá trình sản xuất. Do đó, tài sản của đơn vị biến đổi từ hình thái tiền tệ sang hình thái hiện vật.  
- Giai đoạn sản xuất: Đơn vị sử dụng các loại nguyên liệu - vật liệu, tài sản lưu động và sức  
lao động để tạo ra sản phẩm theo mục đích đã định.  
- Giai đoạn bán hàng: Đơn vị xuất kho thành phẩm, hàng hoá bán cho khách hàng để thu về  
một lượng tiền tương ứng. Tài sản của đơn vị chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ.  
Quá trình trên được lặp đi lặp lại không ngừng gây nên sự vận động của tài sản làm phát sinh  
các khoản chi phí, các khoản thu nhập, kết quả kinh doanh. Vì vậy, cần thiết phải nắm bắt thông tin  
kịp thời, đầy đủ về quá trình vận động của tài sản. Đây chính là một phần công việc của hạch toán  
kế toán hay quá trình vận động của tài sản trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị  
là đối tượng của hạch toán kế toán.  
* Chú ý :  
- Đối với doanh nghiệp kinh doanh thương mại: Tài sản của doanh nghiệp chỉ vận động qua  
hai giai đoạn :  
+ Giai đoạn mua hàng: Đơn vị bỏ tiền ra mua máy móc thiết bị, vật tư, tài sản để chuẩn bị  
cho quá trình bán hàng. Do đó, tài sản của đơn vị biến đổi từ hình thái tiền tệ sang hình thái hiện vật.  
+ Giai đoạn bán hàng: Đơn vị xuất kho hàng hoá chuyển cho người mua để thu về một lượng  
tiền tương ứng. Tài sản của đơn vị chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ.  
13  
- Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp: Đơn vị hành chính sự nghiệp là các đơn vị thực  
hiện chức năng quản lý hành chính Nhà nước, sự nghiệp y tế, văn hóa, giáo dục, sự nghiệp khoa học  
công nghệ, sự nghiệp kinh tế. Để tiến hành các hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ đã được Nhà  
nước giao, các đơn vị hành chính sự nghiệp cần có một khối lượng tài sản nhất định. Tài sản này chủ  
yếu do ngân sách Nhà nước cấp bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động. Quá trình vận động của  
tài sản trong quá trình hoạt động của các đơn vị hành chính sự nghiệp là quá trình chi tiêu các loại  
tài sản phục vụ cho hoạt động chuyên môn của đơn vị. Nguyên tắc cơ bản trong chi tiêu là không bồi  
hoàn trực tiếp các khoản chi. Mọi khoản chi đều phải theo dự toán và tuân thủ các quy định của chế  
độ tài chính hiện hành của Nhà nước.  
Như vậy, đối tượng chung của hạch toán kế toán là tài sản và các hoạt động kinh tế tài chính  
hay là tài sản và sự vận động của tài sản trong quá trình hoạt động của các đơn vị. Trong đơn vị sản  
xuất đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán là các loại vốn kinh doanh, nguồn vốn kinh doanh (2  
mặt biểu hiện của tài sản) và các giai đoạn kinh doanh (biểu hiện của sự vận động của tài sản – các  
khoản chi phí, thu nhập và kết quả kinh doanh).  
Ví dụ: Tại Công ty X, ngày 02 tháng 01 năm N có tài liệu về số tài sản và nguồn hình thành  
số tài sản đó của doanh nghiệp như sau: (đơn vị tính: 1000đ)  
- Tiền mặt tồn quỹ  
500.000  
4.500.000  
10.000.000  
2.000.000  
1.000.000  
100.000  
- Tiền gửi ngân hàng  
- Nguyên liệu vật liệu chính  
- Vật liệu phụ  
- Nhiên liệu  
- Phụ tùng thay thế  
- Vật liệu khác  
400.000  
- Sản phẩm dở dang trên dây chuyền sản xuất  
- Thành phẩm trong kho  
- Phải thu khách hàng  
- Tạm ứng cho công nhân viên  
- Nhà xưởng  
1.000.000  
1.500.000  
800.000  
100.000  
3.000.000  
1.000.000  
20.000.000  
2.000.000  
1.000.000  
1.600.000  
30.000.000  
5.000.000  
1.000.000  
1.500.000  
1.000.000  
6.000.000  
- Nhà văn phòng  
- Máy móc thiết bị sản xuất  
- Phương tiện vận tải  
- Thiết bị văn phòng  
- Tài sản cố định hữu hình khác  
- Vốn đầu tư của chủ dở hữu  
- Nguồn vốn đầu tư XDCB  
- Quỹ đầu tư phát triển  
- Lợi nhuận sau thuế chưa phân phối  
- Vay ngắn hạn của Công ty Y  
- Vay ngắn hạn của ngân hàng  
14  
- Vay dài hạn của ngân hàng  
- Nợ phải trả người bán  
2.000.000  
2.500.000  
1.000.000  
500.000  
- Thuế phải nộp Nhà nước  
- Tiền lương và các khoản phải trả người lao  
động  
Yêu cầu:  
Căn cứ vào tài liệu trên hãy phân loại tài sản của doanh nghiệp theo hai cách phân loại: theo  
kết cấu vốn kinh doanh và nguồn vốn kinh doanh.  
GIẢI  
1. Phân loại tài sản theo kết cấu vốn kinh doanh:  
* Vốn lưu động  
Vốn bằng tiền  
21.900.000  
5.000.000  
500.000  
+ Tiền mặt  
+ Tiền gửi ngân hàng  
Vốn trong thanh toán  
+ Phải thu của khách hàng  
+ Tạm ứng  
4.500.000  
900.000  
800.000  
100.000  
Vốn dự trữ kinh doanh  
+ Nguyên liệu vật liệu  
+ Sản phẩm dở dang  
+ Thành phẩm  
16.000.000  
13.500.000  
1.000.000  
1.500.000  
28.600.000  
28.600.000  
50.500.000  
* Vốn cố định  
Tài sản cố định hữu hình  
Tổng cộng Vốn kinh doanh  
2. Phân loại Tài sản theo nguồn hình thành vốn kinh doanh:  
* Nợ phải trả 13.000.000  
Nợ tín dụng  
+ Vay ngắn hạn  
+ Vay dài hạn  
Nợ phải trả khác  
+ Phải trả cho người bán  
8.000.000  
6.000.000  
2.000.000  
5.000.000  
2.500.000  
500.000  
+ Phải trả người lao động  
+ Thuế và các khoản phải nộp NN  
+ Phải trả công ty Y  
1.000.000  
1.000.000  
37.500.000  
31.500.000  
* Nguồn vốn chủ sở hữu  
Nguồn vốn kinh doanh chủ yếu  
15  
+ Vốn đầu tư của chủ sở hữu  
+ Lợi nhuận sau thuế chưa phân phối  
Nguồn vốn chuyên dùng khác  
+ Nguồn vốn đầu tư XDCB  
30.000.000  
1.500.000  
6.000.000  
5.000.000  
1.000.000  
50.500.000  
+ Quỹ đầu tư phát triển  
Tổng cộng Nguồn vốn kinh doanh  
4. Phương pháp hạch toán kế toán  
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, hạch toán kế toán sử dụng hệ thống các phương  
pháp khoa học, bao gồm:  
- Phương pháp chứng từ kế toán  
- Phương pháp tài khoản kế toán  
- Phương pháp tính giá  
- Phương pháp tổng hợp - cân đối kế toán.  
4.1. Phương pháp chứng từ kế toán  
Phương pháp chứng từ kế toán là phương pháp kế toán phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài  
chính phát sinh và thực sự hoàn thành theo thời gian và địa điểm phát sinh nghiệp vụ đó vào các bản  
chứng từ kế toán và sử dụng các bản chứng từ đó phục vụ cho công tác kế toán và quản lý kế toán  
tài chính.  
4.2. Phương pháp tài khoản kế toán  
Là phương pháp kế toán phân loại các đối tượng kế toán để phản ánh và kiểm tra một cách  
thường xuyên, liên tục, có hệ thống tình hình và sự vận động của từng đối tượng kế toán riêng biệt.  
(Tài khoản kế toán là hình thức biểu hiện của phương pháp tài khoản kế toán, nó là từ sổ kế  
toán (bảng liệt kê) được sử dụng để phản ánh một cách liên tục và có hệ thống tình hình hiện có và  
sự biến động của từng đối tượng kế toán cụ thể).  
4.3. Phương pháp tính giá  
Là phương pháp kế toán sử dụng thước đo tiền tệ để tính toán, xác định giá trị của từng loại  
và tổng số tài sản của đơn vị thông qua mua vào, sản xuất ra theo những nguyên tắc nhất định.  
4.4. Phương pháp tổng hợp - cân đối kế toán  
Là phương pháp kế toán mà việc thiết kế và sử dụng các bảng tổng hợp - cân đối được dựa  
trên cơ sở các mối quan hệ cân đối vốn có của kế toán để tổng hợp số liệu từ các sổ kế toán theo các  
chỉ tiêu kế toán tài chính cần thiết nhằm cung cấp thông tin cho việc điều hành, quản lý các hoạt  
động kinh tế của đơn vị và những người có lợi ích nằm ngoài đơn vị.  
Kết luận: Các phương pháp kế toán có mối quan hệ với nhau, phương pháp này làm tiền đề  
cho phương pháp kia. Trong thực tiễn công tác kế toán, các phương pháp kế toán trên phải được thực  
hiện đồng thời trong mối quan hệ hữu cơ của chúng. Lập chứng từ là nhằm thu nhận và cung cấp  
thông tin đầy đủ, kịp thời về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động của các đơn  
vị. Phương pháp tính giá nhằm biểu hiện các đối tượng kế toán có liên quan trong nghiệp vụ bằng  
tiền để làm cơ sở ghi vào tài khoản theo cách ghi đơn hoặc ghi kép bằng phương pháp tài khoản kế  
toán. Phương pháp tổng hợp – cân đối kế toán nhằm tổng hợp số liệu trên các tài khoản kế toán (sổ  
kế theo toán) theo các chỉ tiêu kinh tế - tài chính cần thiết và được biểu hiện trên các báo cáo kế toán.  
16  
CHƯƠNG II  
PHƯƠNG PHÁP CHỨNG TỪ KẾ TOÁN  
1. Khái niệm, ý nghĩa của phương pháp chứng từ kế toán  
1.1. Khái niệm  
Trong quá trình hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ của đơn vị đã diễn ra thường xuyên  
các hoạt động kinh tế tài chính khác nhau ở những địa điểm và thời gian khác nhau. Những hoạt  
động này đã gây nên sự biến động, thay đổi về phạm vi, quy mô và hình thái của tài sản trong đơn  
vị. Để phục vụ điều hành và quản lý có hiệu quả các hoạt động trong đơn vị, thực hiện tính toán kinh  
tế, kiểm tra bảo vệ, sử dụng tài sản, kiểm tra các hoạt động kinh tế tài chính, hạch toán kế toán đã  
xây dựng những phương pháp khoa học để có thể thu nhận được thông tin về các hoạt động kinh tế  
tài chính diễn ra trong quá trình hoạt động của đơn vị một cách đầy đủ, kịp thời, trung thực và chính  
xác, kiểm tra, xử lý và cung cấp thông tin cho các bộ phận chức năng có liên quan tham gia quản lý  
tài sản, quản lý các hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị, trong đó có phương pháp chứng từ kế  
toán.  
Phương pháp chứng từ kế toán là phương pháp kế toán phản ánh các nghiệp vụ kế toán tài  
chính phát sinh và thực sự hoàn thành theo thời gian và địa điểm phát sinh của nghiệp vụ đó vào các  
bản chứng từ kế toán và sử dụng các bản chứng từ đó phục vụ cho công tác kế toán và công tác quản  
lý.  
1.2. Nội dung  
Nội dung phương pháp chứng từ kế toán được thể hiện cụ thể thông qua các hình thức là các  
bản chứng từ kế toán và chương trình luân chuyển chứng từ kế toán.  
Bản chứng từ kế toán là phần tử chứa đựng thông tin (vật mang tin) về hoạt động kinh tế tài  
chính, nó chứng minh cho các hoạt động kinh tế tài chính phát sinh và thực sự hoàn thành.  
Chương trình luân chuyển chứng từ kế toán là đường đi của chứng từ kế toán được xác định  
trước đến các bộ phận chức năng, các cá nhân có liên quan, thực hiện chức năng truyền thông tin về  
các hoạt động kinh tế tài chính phản ánh trong chứng từ kế toán.  
Chương trình luân chuyển chứng từ kế toán có thể được tổ chức theo các mô hình: liên tiếp,  
song song,…tùy theo thời gian và nhu cầu nhận thông tin của các bộ phận chức năng, các cá nhân  
có nhu cầu nhận thông tin được phản ánh trong chứng từ kế toán.  
1.3. Ý nghĩa  
Phương pháp chứng từ kế toán có ý nghĩa quan trọng trong công tác kiểm tra chỉ đạo các hoạt  
động kinh tế và công tác kế toán, biểu hiện cụ thể như sau:  
- Thu nhận cung cấp đầy đủ, kịp thời, nhanh chóng, trung thực, chính xác những thông tin về  
các hoạt động kinh tế tài chính phát sinh tại những địa điểm, thời gian khác nhau trong quá trình hoạt  
động sản xuất kinh doanh của đơn vị.  
- Thông qua phương pháp này, kế toán có thể kiểm tra thường xuyên tính hợp pháp, hợp lý  
của nghiệp vụ kinh tế phát sinh, ngăn ngừa những hiện tượng hoạt động vi phạm chính sách, chế độ,  
xâm phạm tài sản.  
17  
- Nhờ có phương pháp này giúp cho các bộ phận chức năng, các cá nhân có thể nhận biết kịp  
thời các hoạt động kinh tế tài chính xảy ra, có những giải pháp quyết định đúng đắn, phù hợp và có  
hiệu quả cho sản xuất kinh doanh và công tác quản lý.  
Ý nghĩa của phương pháp chứng từ kế toán còn được thể hiện qua tính pháp lý của chứng từ  
kế toán. Chứng từ kế toán là cơ sở pháp lý cho mọi số liệu, tài liệu kế toán. Số liệu, tài liệu kế toán  
phản ánh các hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị đều được ghi chép, tính toán trên cơ sở số liệu  
của chứng từ kế toán đã đựơc kiểm tra, đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý của hoạt động kinh tế tài chính  
ghi trong chứng từ kế toán. Chứng từ kế toán là điểm bắt đầu của quá trình kế toán. Chất lượng của  
chứng từ kế toán có ảnh hưởng lớn đến chất lượng thông tin kế toán.  
Chứng từ kế toán là cơ sở pháp lý cho việc kiểm tra tình hình chấp hành chính sách chế độ,  
thể lệ kinh tế tài chính, kiểm tra tình hình chấp hành các mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên, kiểm tra và  
xác định vật chất của các đơn vị, bộ phận, cá nhân đối với hoạt động kinh tế ghi trong chứng từ kế  
toán.  
Chứng từ kế toán là cơ sở pháp lý cho việc giải quyết mọi sự tranh chấp, khiếu tố về kinh tế,  
tài chính, thực hiện kiểm tra kinh tế, kiểm tra kế toán trong đơn vị.  
Với ý nghĩa của phương pháp chứng từ kế toán, với tính pháp lý của bản chứng từ kế toán,  
phương pháp chứng từ kế toán được kế toán các đơn vị sử dụng cùng với các phương pháp kế toán  
khác để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của kế toán, phát huy vai trò kế toán trong quản lý có hiệu  
quả của các hoạt động của các đơn vị.  
2. Các loại chứng từ kế toán  
2.1. Khái niệm, ý nghĩa của chứng từ kế toán  
2.1.1. Khái niệm  
Căn cứ vào điều 1 của chế độ chứng từ ban hành theo quyết định số 186 ngày 14-8-1995 của  
Bộ tài chính thì chứng từ kế toán được định nghĩa như sau : “Chứng từ kế toán là những minh chứng  
bằng giấy tờ về nghiệp vụ kinh tế tài chính đã phát sinh và thực sự hoàn thành”.  
Căn cứ vào khoản 7 Điều 4 của Luật kế toán thì chứng từ kế toán được nêu : “Chứng từ kế  
toán là những giấy tờ và vật mang tin phản ánh nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh và đã hoàn  
thành, làm căn cứ ghi sổ kế toán”.  
2.1.2. Ý nghĩa  
Chứng từ kế toán là phương tiện để phản ánh mọi nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh trong  
quá trình hoạt động của các đơn vị, nó có ý nghĩa quan trọng trong công tác kế toán và công tác quản  
lý, được biểu hiện cụ thể:  
- Chứng từ kế toán là bằng chứng để chứng minh tính hợp pháp, hợp lý của các nghiệp vụ kế  
toán phát sinh ở đơn vị.  
- Chứng từ kế toán là căn cứ pháp lý cho mọi số liệu, thông tin kinh tế và là cơ sở số liệu ghi  
sổ kế toán.  
- Chứng từ kế toán là căn cứ pháp lý để kiểm tra việc chấp hành các chế độ chính sách và  
quản lý kinh tế tài chính ở đơn vị, kiểm tra tình hình về bảo quản và sử dụng tài sản, phát hiện và  
ngăn ngừa, có biện pháp xử lý mọi hiện tượng tham ô, lãng phí tài sản của đơn vị, của Nhà nước.  
- Chứng từ kế toán là bằng chứng để kiểm tra kế toán, bằng chứng để giải quyết các vụ kiện  
tụng tranh chấp về kinh tế, kiểm tra kinh tế, kiểm toán trong đơn vị …  
18  
2.2. Các loại chứng từ kế toán  
Hoạt động kinh tế tài chính trong các đơn vị rất đa dạng và phong phú, do đó chứng từ kế toán  
được sử dụng để phản ánh các hoạt động kinh tế tài chính đó cũng có nhiều loại khác nhau. Để sử  
dụng có hiệu quả chứng từ kế toán trong công tác kế toán, công tác quản lý cần nhận biết đầy đủ các  
loại chứng từ kế toán. Do vậy cần nghiên cứu việc phân loại chứng từ kế toán.  
2.2.1. Phân loại chứng từ theo công dụng  
Theo cách phân loại này, chứng từ kế toán được chia thành ba loại:  
- Chứng từ mệnh lệnh: Là loại chứng từ mang quyết định của chủ thể quản lý như: lệnh chi  
tiền mặt, lệnh xuất kho vật tư, loại chứng từ này không được dùng để ghi vào sổ sách kế toán.  
- Chứng từ thực hiện: Là loại chứng từ phản ánh các nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh và thực  
sự hoàn thành, là căn cứ để ghi sổ kế toán. Ví dụ: phiếu chi, phiếu thu…  
- Chứng từ liên hợp: Là loại chứng từ kết hợp hai nội dung của hai loại chứng từ trên. Ví dụ:  
Lệnh kiêm phiếu chi.  
* Tác dụng:  
- Giúp cho kế toán biết được chứng từ nào là căn cứ để ghi sổ và loại chứng từ nào là cơ sở  
để thực hiện.  
- Giúp cho người quản lý biết cách làm thế nào để tăng loại chứng từ liên hợp để giảm bớt số  
lượng chứng từ.  
2.2.2. Phân loại chứng từ theo địa điểm lập chứng từ  
Theo cách phân loại này, chứng từ kế toán được chia thành hai loại:  
- Chứng từ bên trong:  
Là các chứng từ do các bộ phận nội bộ của doanh nghiệp lập như: Phiếu xuất kho, phiếu nhập  
kho, phiếu thu…  
- Chứng từ bên ngoài:  
Là loại chứng từ phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính có liên quan đến đơn vị và được lập  
từ các đơn vị bên ngoài như: hoá đơn mua hàng, giấy báo Có,…  
* Tác dụng:  
- Làm cơ sở cho kế toán xác định được trọng tâm của việc kiểm tra chứng từ, từ đó đưa ra  
những biện pháp thích hợp cho công tác kiểm tra từng loại chứng từ.  
2.2.3. Phân loại chứng từ theo nội dung của nghiệp vụ kế toán phản ánh trên chứng từ  
Theo cách phân loại này chứng từ được chia thành các loại như sau:  
- Chứng từ tiền mặt  
- Chứng từ tiền gửi ngân hàng  
- Chứng từ vật tư, hàng hoá.  
- Chứng từ tài sản cố định.  
* Tác dụng:  
- Là cơ sở để phân loại, tổng hợp số liệu, định khoản kế toán để ghi sổ kế toán.  
2.2.4. Phân loại chứng từ theo mức độ khái quát và số liệu phản ánh trên chứng từ  
19  
Theo cách phân loại này chứng từ kế toán được chia thành 2 loại: Chứng từ gốc (chứng từ  
ban đầu) và chứng từ tổng hợp.  
- Chứng từ gốc: Là chứng từ kế toán phản ánh trực tiếp hoạt động kinh tế tài chính xảy ra, sao  
chụp lại nguyên vẹn hoạt động kinh tế tài chính đó, do đó chứng từ gốc là cơ sở ghi chép, tính toán  
số liệu, tài liệu ghi sổ kế toán, thông tin kinh tế và kiểm tra, quản lý các hoạt động kinh tế tài chính  
như: phiếu thu, phiếu chi, phiếu nhập kho, …  
- Chứng từ tổng hợp: Là loại chứng từ được dùng để tổng hợp số liệu từ các chứng từ gốc  
(chứng từ ban đầu) theo từng nghiệp vụ kinh tế (nội dung kinh tế) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho  
việc ghi sổ kế toán. Thuộc chứng từ tổng hợp có chứng từ ghi sổ, bảng tổng hợp chứng từ gốc. Chứng  
từ tổng hợp phải kèm theo các chứng từ gốc mới có giá trị sử dụng trong ghi sổ kế toán, thông tin  
kinh tế, quản lý.  
* Tác dụng:  
- Giúp cho những người làm công tác nghiên cứu và công tác kế toán cụ thể cần nghiên cứu  
xây dựng và tăng cường sử dụng chứng từ tổng hợp để giảm bớt số lần ghi sổ kế toán.  
- Xác định được tầm quan trọng của từng loại chứng từ mà có cách sử dụng và bảo quản thích  
hợp.  
2.2.5. Phân loại chứng từ kế toán theo quy định của Nhà nước về chứng từ kế toán  
Theo cách phân loại này chứng từ kế toán được chia thành chứng từ kế toán thống nhất bắt  
buộc và chứng từ kế toán hướng dẫn.  
- Chứng từ kế toán thống nhất bắt buộc: là chứng từ kế toán phản ánh các hoạt động kinh tế  
tài chính có mối quan hệ kinh tế giữa các pháp nhân hoặc có yêu cầu quản lý chặt chẽ mang tính phổ  
biến rộng rãi. Chứng từ kế toán thống nhất bắt buộc được Nhà nước ban hành áp dụng thống nhất  
cho tất cả các đơn vị như: Phiếu thu, phiếu chi, Phiếu nhập kho, Phiếu xuất kho, Hoá đơn bán hàng…  
- Chứng từ kế toán hướng dẫn là chứng từ kế toán phản ánh các hoạt động kinh tế tài chính  
có mối quan hệ kinh tế nội bộ đơn vị, có tính chất riêng biệt, không phổ biến. Chứng từ kế toán  
hướng dẫn được Nhà nước hướng dẫn các chỉ tiêu (yếu tố) đặc trưng, các ngành, các thành phần kinh  
tế, các đơn vị có thể thêm bớt các chỉ tiêu cho phù hợp yêu cầu quản lý của ngành, của đơn vị nhưng  
phải đảm bảo tính pháp lý cần thiết của chứng từ kế toán. Thuộc chứng từ kế toán hướng dẫn có:  
Biên lai thu tiền, Phiếu xuất vật tư theo hạn mức,…các chứng từ phản ánh các nghiệp vụ nội sinh do  
kế toán lập…  
2.3. Các yếu tố cơ bản của chứng từ kế toán (Chứng từ gốc)  
Chứng từ kế toán là cơ sở để chứng minh cho các hoạt động kinh tế tài chính xảy ra, là cơ sở  
để ghi sổ kế toán và thông tin kinh tế về các hoạt động kinh tế tài chính đó. Do vậy chứng từ kế toán  
phải có những yếu tố (chỉ tiêu) đặc trưng cho hoạt động kinh tế về nội dung, phạm vi, quy mô, thời  
gian, địa điểm xảy ra hoạt động kinh tế tài chính đó cũng như yếu tố về trách nhiệm của đơn vị, bộ  
phận, cá nhân có liên quan đến hoạt động kinh tế tài chính…Những yếu tố cơ bản của chứng từ kế  
toán có thể chia thành 2 loại: yếu tố cơ bản và yếu tố bổ sung.  
Một chứng từ kế toán (chứng từ gốc) được coi là hợp pháp, hợp lệ phải có đầy đủ các yếu tố  
cơ bản sau :  
- Tên gọi chứng từ: Mọi chứng từ kế toán phản ánh trực tiếp cá hoạt động kinh tế tài chính  
đều phải có tên gọi như phiếu thu, phiếu nhập kho, hoá đơn,…Tên gọi của chứng từ phản ánh khái  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 122 trang Thùy Anh 05/05/2022 6920
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Nguyên lý kế toán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_nguyen_ly_ke_toan.pdf