Đề cương ôn tập môn Triết học - Câu 6 (Có đáp án)
CÂU 6. VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN
1.Nội dung cơ bản của NQ TW5 K8 và những kết luận hội nghị lần thứ 10
BCHTWƯ k9
2. Tư tưởng đạo đức của đảng về sự gắn kết và đồng bộ giữa 3 lính vực:
PTKTế là trung tâm, Xây dựng đảng là then chốt với xây dựng và PT văn hóa.
3. Về lãnh đạo và phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đi qua chặng
đường gần 25 năm và thu được những kết quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Cùng
với những thành tựu quan trọng về kinh tế, an ninh - quốc phòng, đối ngoại,
vấn đề phát triển văn hóa- xã hội và xây dựng con người luôn luôn được
Đảng coi trọng.
Trước những khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp của tình hình
thế giới và khu vực, Đảng luôn kiên định xây dựng và thực hiện các chủ trương,
chính sách đổi mới đúng đắn trên nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực văn hóa, chỉ
đạo hoạch định các chính sách văn hóa nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Về chủ trương, đường lối
Trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước từ năm 1986, những nhận thức
mới của Đảng về văn hóa có bước chuyển quan trọng. Nền văn hóa mà Đảng xác
định phải xây dựng là nền văn hóa với đặc trưng dân tộc, hiện đại, nhân văn. Một
hệ thống lý luận văn hóa được hợp thành với lý luận chung trong quá trình đổi mới
tư duy của toàn xã hội.
Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII ra Nghị quyết về xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Toàn bộ tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã làm sáng lên
bức tranh của nền văn hóa đất nước trong tương lai. Đó là nền văn hóa với vai trò
là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực thúc đẩy kinh tế- xã hội phát
triển, gắn với sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, gắn với những vấn đề nảy sinh
trong xu thế toàn cầu hóa và nền kinh tế thị trường. Đối với công tác lãnh đạo văn
hóa, Nghị quyết khẳng định: Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng, cơ bản và chiến
lược không chỉ đối với công tác lãnh đạo mà cả công tác quản lý văn hóa, với mỗi
cán bộ, đảng viên.
Có thể nói Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đã thể hiện sự phát triển cả
nhận thức và tư duy lý luận về văn hóa, lãnh đạo văn hóa của Đảng. Đó cũng
1
chính là kết tinh của sự kế thừa và phát triển Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về văn hóa, về xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa, về phương
pháp lãnh đạo văn hóa, quản lý văn hóa; là sản phẩm từ tổng kết lý luận và thực
tiễn trong quá trình hơn 70 năm lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo văn hóa của Đảng./.
Đến Đại hội IX, những tư tưởng chủ yếu của Đảng về phát triển văn hóa
được thể hiện trên cơ sở thực tiễn thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII),
Nghị quyết Đại hội IX tiếp tục nhấn mạnh vị trí của văn hóa trong lịch sử phát
triển của dân tộc ta; khẳng định sức sống lâu bền của những quan điểm, tư tưởng
nêu trong Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) trong đời sống xã hội, trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta; về ý nghĩa , Nghị quyết nhấn mạnh đó là tầm cao, chiều sâu của sự phát
triển của dân tộc, khẳng định và làm rõ vị trí của văn hóa trong đời sống dân tộc,
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX) kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị
quyết Trung ương 5 (khóa VIII) và ra kết luận tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây
dựng và phát triển văn hóa làm nền tảng tinh thần xã hội, gắn kết và đồng bộ với
phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt.
Đại hội X, Đảng xác định tiếp tục phát triển sâu rộng, nâng cao chất lượng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Gắn kết chặt chẽ hơn với
phát triển kinh tế xã hội; Làm cho văn hóa thấm sâu và mọi lĩnh vực đời sống xã
hội; Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam; Bảo vệ và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập kinh tế quốc tế; Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, sinh viên,
học sinh, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh
văn hóa Việt Nam; Đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng,
kháng chiến, di sản văn hóa vật thể, phi vật thể; Kết hợp hài hòa giữa bảo tồn, phát
huy với kế thừa và phát triển, giữ gìn di tích với phát triển kinh tế du lịch. tinh
thần tự nguyện, tính tự quản của nhân dân trong xây dựng văn hóa; Đa dạng hóa
các hoạt động của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
Để thực hiện được yêu cầu trên, trong xây dựng chính sách, tổ chức thực hiện
cần phải phát huy tính năng động, chủ động của các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn
thể nhân dân, các hội văn học nghệ thuật, khoa học, trí thức, báo chí, của các cá
nhân; Xây dựng và phát triển chương trình giáo dục văn hóa, thẩm mỹ, nếp sống
văn hóa hiện đại trong nhân dân; Phát huy tiềm năng, khuyến khích sáng tạo văn
học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật;
Đồng thời tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa; Xây dựng cơ chế chính sách,
chế tài ổn định; Tăng cường mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa; Chống
sự xâm nhập văn hóa độc hại, lai căng, phản động; Xây dựng, nâng cấp đồng bộ
2
hệ thống thiết chế văn hóa; Tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại
chúng phát triển; Nâng cao chất lượng tư tưởng văn hóa, hiện đại về mô hình, cơ
cấu, cơ sở vật chất kỹ thuật; Xây dựng cơ chế quản lý khoa học, phù hợp; Đi đôi
với phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sỹ; Đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động, cơ cấu tổ chức của các hội văn học- nghệ thuật từ trung ương đến
địa phương.
Định hướng đối với các chính sách văn hóa
Quá trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, vấn đề định hướng phát triển đất nước
là cực kỳ quan trọng. Định hướng đúng để đạt tới mục tiêu mà cương lĩnh năm
1991 về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã đề ra,
được Đại hội VII của Đảng thông qua. Theo đó, phát triển kinh tế theo định hướng
xã hội chủ nghĩa để phấn đấu đến năm 2020 cơ bản nước ta trở thành nước công
nghiệp. Nhưng điều cốt lõi là chất lượng phát triển, phát triển muốn đạt chất lượng
nhất thiết phải có nội dung văn hóa- xã hội. Phát triển văn hóa- xã hội và xây
dựng con người luôn luôn gắn bó với định hướng chính trị, định hướng phát
triển kinh tế đất nước. Và cũng như phát triển kinh tế, phát triển văn hóa
cũng phải coi trọng chất lượng, phải đúng hướng. Bác Hồ từng nói . Những
con người đó phải được chăm lo cả về bản lĩnh chính trị tư tưởng, học vấn, sức
khỏe, trí tuệ, tình cảm và đạo đức, đó chính là văn hóa.
Nền văn hóa định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua các chính sách văn hóa
mang tính nhân văn, vì con người; phát huy tiềm năng, trí tuệ con người để đáp
ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, của nền kinh tế tri thức trong xu thế
hội nhập quốc tế. Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng, ý nghĩa, vai trò, vị trí của
văn hóa trong đời sống dân tộc và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, nghị quyết
Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng đã đề cập đến chính sách văn hóa trong nhiệm
vụ thứ 10 đó là . Nhiệm vụ chỉ rõ việc phải hoàn chỉnh các văn bản luật pháp về
văn hóa, nghệ thuật, thông tin trong điều kiện của cơ chế thị trường; ban hành các
chính sách khuyến khích sáng tạo văn hóa và nâng mức đáp ứng nhu cầu hưởng
thụ văn hóa của nhân dân. Do tầm quan trọng, tính cấp thiết của nhiệm vụ này nến
Nghị quyết đã ghi nội dung đó vào giải pháp thứ II trong cụm các giải pháp
Đến Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX), Trung ương Đảng khẳng định cần
tiếp tục thực hiện đầy đủ 5 quan điểm chỉ đạo đã được Nghị quyết Trung ương 5
(khóa VIII) đề ra. Trong kết luận của Hội nghị Trung ương 10, mục tiêu đầu tiên
xây dựng và phát triển văn hóa trong những năm tiếp theo nêu
Như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đánh đuổi giặc
ngoại xâm, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đảng ta luôn quan
tâm đến văn hóa và càng coi trọng hơn trong thời kỳ đổi mới, trong điều kiện xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội
3
Đảng các kỳ VIII, IX, X; các kết luận, chỉ thị của Hội nghị Trung ương các khóa
trên đều thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng trong nhìn nhận, đánh giá, chỉ
đạo xây dựng và phát triển văn hóa, gắn chặt với chiến lược xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo hướng đó, văn hóa phải thực sự
trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển, đồng thời đòi hỏi một cơ chế
chính sách đảm bảo cho văn hóa và kinh tế cùng phát triển.
Yêu cầu chính trị tư tưởng đối với chính sách văn hóa
Các chính sách văn hóa phải phản ánh những giá trị nhân văn của văn hóa Việt
Nam. Muốn vậy phải xác định được những giá trị nhân văn của Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tập trung làm nổi bật hệ thống giá trị nhân văn đó ở
tinh thần Đồng thời phải kết hợp hài hòa 3 lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi
ích toàn xã hội. Đây cũng chính là một trong những động lực của sự nghiệp đổi mới.
Các chính sách văn hóa đều theo tinh thần xã hội hóa. Hiện nay còn không ít
người hiểu vấn đề xã hội hóa chưa đầy đủ. Điều đó trở thành lực cản cho sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa. Công tác giáo dục, tuyên truyền cần phải
làm cho mọi người nhận thức được xã hội hóa là vấn đề hết sức cần thiết, nhất là
đối với hoàn cảnh kinh tế của nước ta còn nhiều khó khăn, Nhà nước không thể
“bao” toàn bộ. Xã hội hóa là nhằm tạo sự quan tâm của toàn xã hội; thu hút trí tuệ,
nhân lực, vật lực của toàn xã hội; gây nhân tố thúc đẩy các hoạt động văn hóa phát
triển theo hướng biến đổi về chất, đổi mới về hình thức và nội dung. Xã hội hóa
cũng là một nội dung quan trọng của giải pháp xây dựng, ban hành các chính sách
văn hóa trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII). Trong quá trình đất nước
thực hiện chủ trương đổi mới, nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thì xã hội hóa hoạt động văn hóa được coi như một động
lực thúc đẩy các hoạt động văn hóa phát triển.
Chính sách văn hóa đúng định hướng của Đảng, bám sát yêu cầu về tư tưởng
chính trị còn góp phần tạo nên sự ổn định và lành mạnh hóa xã hội. Ở đâu không
ổn định thì ở đó không thể phát triển. Một gia đình, tập thể, cộng đồng và lớn hơn
là toàn xã hội nếu có đời sống văn hóa phong phú, chất lượng cao, bình đẳng…
tức là có chính sách văn hóa nhân văn.
Xây dựng đời sống văn hóa được coi như bước đi ban đầu của sự nghiệp xây
dựng và phát triển văn hóa, là nhiệm vụ quan trọng của việc xây dựng môi trường
văn hóa lành mạnh. Đồng thời xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cũng
chính là góp phần tạo ra môi trường chính trị- xã hội ổn định, an toàn và bền vững
trên cơ sở đời sống kinh tế được đảm bảo.
4
Bổ sung: Tư tưởng chỉ đạo của đảng trên lĩnh vực văn hóa
1. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Viêt Nam, Đảng ta luôn coi trọng vấn
đề văn hóa. Nghị quyết trung ương 10 ( khóa IX) của Đảng (2004) ngoài việc
khẳng định lại quan điểm Kết hợp hài hòa, tương xứng giữa tăng trưởng kinh tế
và phát triển văn hóa mà Nghị quyết trung ương 5 ( khóa VIII) đặt ra mà còn
nhấn mạnh Gắn kết với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Điều đó thể hiện
một bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng ta về quan điểm phát triển
bền vững nói chung, đặc biệt là về vị trí, vai trò của văn hóa trong sự phát triển
bền vững hiện nay.
Ngay từ khi ra đời, trong những văn kiện, nghị quyết đầu tiên, Đảng ta đã
xác định văn hóa là một lĩnh vực rất quan trọng mà người cộng sản phải quan tâm.
Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 của Đảng ta đã khẳng định: “ Cách
mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo.”
Trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, Đảng ta cũng đều khẳng định: Sự nghiệp xây
dựng và phát triển văn hóa ở nước ta phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,… Rút
ra nhận định: Nhờ có đường lối đúng đắn, phương thức lãnh đạo phù hợp, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, kháng chiến, kiến quốc.
* Sự cần thiết phải đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trên lĩnh
vực văn hóa thời kỳ đổi mới:
Bước vào thời kỳ đổi mới ( kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
mở rộng hợp tác quốc tế, giao lưu văn hóa diễn ra sâu rộng,…) Đảng ta rất quan
tâm và có nhiều văn kiện, nghị quyết đề cập đến xây dựng và phát triển văn hóa
gắn với yêu cầu, nhiệm vụ, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cách mạng.
Đặc biệt, năm 1998, Nghị quyết TW 5 ( khóa VIII) “ Về xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” ra đời đã đánh dấu một
bước phát triển mới trong nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa nói chung và vấn
đề đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa. Nghị
quyết TW 5 ( khóa VIII) thực sự là chiến lược xây dựng và phát triển văn hóa
trong thởi kỳ đổi mới ở nước ta. Trong Nghị quyết, Đảng ta đã nêu 10 nhiệm vụ, 4
hệ thống giải pháp và 5 quan điểm chỉ đạo, trong đó khẳng định: “ Xây dựng và
phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo”
1. Nêu khái quát ngắn gọn một số thành tựu và hạn chế qua quá trình 5 năm
triển khai Nghị quyết Trung ương 5 ( khóa VIII)
Kết luận Hội nghị trung ương 10 ( khóa IX) đã chỉ rõ nguyên nhân dẫn đến
những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm trong quá trình triển khai Nghị quyết trung
5
ương 5 ( khóa VIII) gồm có 4 nguyên nhân, trong đó có tới 3 nguyên nhân gắn
với công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, đó là:
Thứ nhất: Nhận thức trong Đảng từ trung ương đến cấp ủy, các cấp về vai
trò đặc biệt quan trọng của văn hóa chưa thật đầy đủ, các quan điểm chỉ đạo,
phương hướng phát triển và các nhiệm vụ của văn hóa được xác định trong Nghị
quyết chưa được quán triệt và thực hiện nghiêm túc, việc tổ chức thực hiện còn
thiếu tập trung, chưa đồng bộ, không kiên quyết.
Thứ hai: Nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước
chưa được triển khai tích cực, có nơi còn xem nhẹ, không ít cán bộ, Đảng viên
chưa nêu được tấm gương văn hóa cho quần chúng.
Thứ ba: Trong mặt trận Tổ quốc, đoàn thể còn thiếu hạn chế, chậm thể chế
hóa các quan điểm, chủ trương lớn, bị động trước những khuynh hướng mới xuất
hiện và một số biến đổi phức tạp tên lĩnh vực văn hóa. Chưa có kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng tài năng, nâng cao năng lực của những người hoạt động, sang tạo văn
hóa, coi nhẹ đấu tranh trên lĩnh vực lý luận, phê bình Văn học – Nghệ thuật, chưa
xây dựng được cơ chế, chính sách và giải pháp phù hợp để phát triển văn hóa
trong cơ chế thị trường định hướng XHCN.
2.
Do vậy, để tiếp tục triển khai sâu rộng Nghị quyết trung ương 5 ( khóa
VIII) và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam trong những năm tới, Đảng đã
nhấn mạnh giải pháp trên và coi đó là giải pháp hàng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo
công tác văn hóa trong giai đoạn hiện nay.
3. Quy trình trong lãnh đạo lĩnh vực văn hóa
a)
Đảng đề ra đường lối văn hoá và những đinh hướng xây dựng và phát triển
văn hoá trong từng thời kỳ cụ thể của cách mạng nước nhà. Trong thời kỳ đổi
mới, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, mọi hoạt động văn hoá văn nghệ
phải nhằm xậy dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống,
xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh cho sự phát triển xã hội.
b)
Đảng hoạch định những chủ trương lớn về phát triển các lĩnh vực văn hoá.
Đó là xây dựng những chủ trương chính sách có tầm chiến lược cho sự phát triển
văn hoá trên những lĩnh vực chủ yếu, các nhiệm vụ cụ thể: Xây dựng con người
Việt Nam trong giai đoạn cách mạng với 5 đức tính; xây dựng môi trường văn
hoá; phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn và phát huy các di sản văn
hoá; phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ; phát triển đi
đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng; bảo tồn , phát huy và phát triển
văn hoá các dân tộc thiểu số; có chính sách văn hoá đối với tôn giáo; mở rộng hợp
tác quốc tế về văn hoá; củng cố, xây dựng hoàn thiện thể chế hoá như Nghị quyết
Trung ương 5 khoá VIII của Đảng đã đề ra. Các cấp uỷ Đảng, cán bộ Đảng phụ
6
trách công tác văn hoá cần đi sát, nắm chắc tình hình hoạt động trên lĩnh vực văn
hóa – tư tưởng đề lãnh đạo, chỉ đạo, giúp các cơ quan nhà nước thể chế hoá các
chủ trương, chính sách của Đảng, kiến nghi các giải pháp giải quyết kịp thời, có
hiệu quả những khó khăn, vướng mắc, trở ngại đối với ngành văn hoá trong việc
thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Các cơ quan quản lý nhà nược về văn hoá, thể chế, nghị quyết, chủ trương, chính
sách, chỉ thị, thông tư ... của đảng đối với từng lĩnh vực , cơ quan, đơn vị hoạt
động trên các lĩnh vực văn hoá như phương châm đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng trên lĩnh vực văn hoá văn nghệ đã được đề ra.
Để lãnh đạo và quản lý văn hoá một cách có hiệu quả, việc xây dựng đội ngũ cán
bộ hoạt động trên lĩnh vực văn hoá là một nhiệm vụ rất quan trọng và có ý nghĩa
quyết định.
c. Coi trọng chức năng kiểm tra của Đnảg đối với văn hoá. Việc thẩm định nhựng
sản phẩm văn hoá trước khi đưa ra công chúng cần được tiến hành băng một cơ
chế thích hợp. Sực hỉ đạo của các cơ quan chức năng của Đảng phải gắn kết chặt
chẽ, phối hợp đồng bộ với các cơ quan quản lý nhà nước về văn hoá trong quản lý
và thực hiện các quy định đã ban hành.Các hôịo đông nghệ thuật do các cấp uỷ
Đảng và chính quyền thành lập bao gồm người có uy tín và am hiểu nhất vè một
ngành nghệ thuật hoặc một số ngành nghệ thuật gần nhau. Trong thẩm định, cần
lưu ý kiến đóng góp của các chuyên gia có liên quan đến tất cả các khâu của hoạt
động văn hoá. cần đánh giá đúng năng lực và tạo điều kiện cho năng lực sáng tạo
văn hoá phát triển đúng định hướng; trân trọng nhân cách, tài năng và sự sáng tạ,
phong cách trong sáng tạo văn hoá; chu đao, tế nhị, chân thành trong quan hệ đối
xử, có cách làm việc thích hợp với từng cá tính sáng tạo, tránh và loại bỏ những
quan niệm hẹp hòi, định kiến.
Xây dựng một cơ chế lãnh đạo và quản lý phù hợp với từng cấp, từng khu vực,
tưng địa bàn, vùa bảo đảm sự chặt chẽ, đúng đắn của các hoạt động văn hoá vừa
tạo hành lang thông thoáng cho sự phát triển văn hoá nói chung và hco sự phát huy
tài năng sáng tạo, nét độc đáo trong sáng tạo văn hoá của từng cá nhân.
Đặc biệt, đối với nhưng hoạt động có biểu hiện chệch hướng trên lĩnh vực văn
hoá, những sản phẩm văn hoá có nội dung độc hại, phủ định lịch sử, chối bỏ cách
mạng, kích động tâm lý chống đối chế độ gây thù hằn dân tộc, chia rẽ và phá hoại
khối đoàn kết toàn dân, cản trở công cuộc đổi mới, gây tác hại to lớn và lâu dài
trong đời sống tình cảm, văn hoá, tinh thần của Đảng và chế độ ta, đến công cuốc
công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước,.. Đảng cần phải có những giải pháp chỉ
đạo đề làm rõ đúng, sai và phương hướng, biện pháp khắc phục.
e. Đẳng lãnh đạo thông qua tổ chức đáng, chính quyền, đoàn thể ở các cấp, các
đơn vị, cơ quan văn hoá và thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên. “Đảng lãnh đạo
7
hệ thống chính trị, đề ra đường lối, chính sách xây dựng và bảo vệ đất nước, nắm
vững tổ chức và cán bộ để đảm bảo thực hiẹn có kết quả đường lối của Đảng.
Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng chứ không chỉ thông qua cá nhân đảng
viên; lãnh đạo bằng các quyết định cảu tập thể và bằng cách theo dõi, cho ý kiến
chủ đạo, kiểm tra việc thực hiện, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn những lệch
lạc. Đảng lãnh đạo phát huy mạnh mẽ vai trò phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực
của nhà nước chứ không điều hành thay Nhà nước”. Do vậy, cần củng cố các tổ
chức đảng, coi trọng việc xây dựng Đảng trong các tổ chức, cơ quan văn hoá; kiện
toàn bộ phận tham mưu giúp cấp uỷ Đảng lãnh đạo văn hoá từ Trung ương đến địa
phương. Cán bộ, đảng viên làm công tác lãnh đạo, quản lý văn hoá phải là những
cán bộ, dảng viên nắm vững đương lối, quan diểm của Đảng. am hiểu và có kinh
nghiệm chuyên môn về lĩnh vực được giao và có quan hệ tốt với các nhà hoạt
dộng văn hoá. Trong lãnh đạo phải có cách tiếp cận và chú trọng tâm lý của những
ngườilàm công tác văn hoá. Khắc phục quan niệm giản đơn, không đúng khi gắn
những người làm công tác văn hoá với những công việc cj thể hàng ngày. Trong
lãnh đạo phải dựa vào hàon cảnh, điều kiện cụ thể, không dập khuôn máy móc...
Trong đổi mới và nâng cao hiệu quả phương thức lãnh đạo văn hoá, có 2 khuynh
hướng mà các cấp, các đơn vị , cơ quan quản lý văn hoá cần tránh: một là, khuynh
hướng bao biện, ôm đồm,can thiệp quá sâu vào công việc tác nghiệp, chuyên môn
thuần tuý; hai là, buông lỏng sự lãnh đạo, chỉ đạo. Cả 2 khuynh hướng đó xét về
phương thức lãnh đạo trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
giao lưu và hội nhập văn hoá dều không phù hợp với những định hướng lớn, cơ
bản của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn háo tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
4. Liên hệ thực tiễn cơ quan, địa phương.
III. Kết luận:
Nêu khái quát nhận xét, đánh giá về những quan điểm trên
8
Bổ sung:
1. Quan niệm về phát triển và phát triển bền vững trong giai đoạn hiện nay.
Vài chục năm trở lại đây, trên thế giới xuất hiện các quan điểm khcá nhau về phát triển, trong
đó, một trong những vấn đề cốt lõi được đặt ra và cần phải giải quyết chính là mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết những vấn đề xã hội. Mối quan hệ đó được thể hiện
trên 3 mô hình chủ yếu sau:
Mô hình thứ nhất: Tăng trưởng kinh tế cao với bất kỳ giá nào, ít chú ý đến các vấn đề xã
hội. Những nước theo quan điểm này cho rằng, đạt được tăng trưởng kinh tế cao sẽ tạo tiền
đề giải quyết các vấn đề xã hội. trong đó có vấn đề nghèo đói; họ nhấn mạnh đến nhân tố
kinh tế, kỹ thuật, hậu quả của nó là phân hoa giàu nghèo tăng nhanh.
Mô hình thứ hai: Tăng trưởng kinh tế trứơc, sau đó giải quyết các vấn đề xã hội. Những
người theo quan điểm này cho rằng phải tập trung tăng trưởng kinh tế cao, điều tiết mạnh về
thu nhập để phân phối công bằng hơn cho mọi người . Hậu quả của nó trong giai đoạn sau là
làm giảm tốc độ tăng trưởng và tăng tính ỷ lại của các nhà máy, xí nghiệp vào sự bảo trợ của
Nhà nước.
Mô hình thứ ba: Thực hiện tăng trưởng kinh tế đồng thời với phát triển xã hội. Mô hình này
đặt vấn đề phát triển xã hội trong quá trình phát triển kinh tế, phân phối thu nhập công bằng,
phát triển hệ thống an sinh xã hội trợ giúp người nghèo, nhóm yếm thế. Kết hợp hài hoà phát
triển kinh tế và phát triển xã hội.
Thực tiễn sự lựa chọn lý thuyết và mô hình phát triển thế giới trong thời gian qua cho thấy:
Một số lý thuyết trên thế giới trong thời gian qua cho thấy: Một số lý thuyết phát triển chỉ có
tác dụng tích cực trong những khoảng thời gian và phạm vi không gian nhất định. Nhiều
tham vọng được đặt ra theo những lý thuyết phải triển nào đó đã không thu đựơc kết quả như
mong muốn. Ngược lại, đã đưa đến những hậu quả nặng nề, không chỉ ở những nước đang
phát triển mà ngay cả ở các nước có trình độ công nghiệp páht triển cao.
Đứng trước tình hình đó, nhiều nhà khoa học đã lên triếng cảnh báo về những tác
động tiêu cực do sự lựa chọn mô hình phát triển phiến diện mang lại. Đó là:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế nhưng không có tiến bộ và công bằng xã hội.
Thứ hai. Tăng trưởng kinh tế nhưng lại dẫn đến sự tàn lụi của nông nghiệp và nông thôn
Thứ ba tăng trưởng kinh tế nhưng văn hoá đạo đức xuống cấp, thậm chí suy đồi.
Thứ tư, tăng trưởng kinh tế nhưng môi trường suy thoái, sự cân bằng bị phá vỡ
Như vậy, phát triển, hiều theo đúng nghĩa của nó. phải được hiểu là sự phát triển kinh tế
xã hội; và chỉ khi nào sự phát triển kinh tế hướng vào việc phục vụ lợi ích cộng đồng, vì sự
tiến bộ và công bằng xã hội thì sự phát triển mới thực hiện theo đúng bản chất của nó. Nội
hàm của phát triển đã bao hàm cả tăng trưởng kinh tế cới tiến bộ xã hội và hạnh phúc con
người
9
2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh kế và phát triển văn hóa
Giữa văn hóa và phát triển có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tuy vậy nhận thức về
vai trò của văn hóa với phát triển trước đây và hiện nay có khác nhau. Có một thời gian khá
dài PT được coi là sự tăng trưởng đơn thuần về kinh tế, không chú ý đến tiến bộ và công
bằng XH, không đảm bảo sự PT hợp lý giữa các khu vực kinh tế, dẫn đến khoảng cách lớn
giữa thành thị và nông thôn, không chú ý đến việc giữ gìn những giá trị văn hóa dân tộc, làm
xói mòn, xuống cấp, suy thoái những giá trị đó, không chú ý bảo vệ môi trường sinh thái, làm
cạn kiệt và phá vỡ môi trường tự nhiên.
Vì vậy người ta chỉ quan tâm tới những yếu tố tác động trực tiếp tới tăng trưởng kinh tế
trong văn hóa là Giáo dục – Đào tạo, Khoa học – Công nghệ, còn những yếu tố khác trong
văn hóa được quan niệm là những yếu tố phi kinh tế và không được quan tâm.
Thực tế quan niệm phát triển chỉ là tăng trưởng kinh tế, nhấn mạnh tăng trưởng kinh tế
mà không quan tâm đến vấn đề xã hội và các vấn đề khác tức là có tăng trưởng kinh tế nhưng
đứng trước nhiều bất cập, không bền vững, không ổn định,… Hiện nay, phát triển được quan
niệm là sự kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội. Vì vậy,
phát triển bền vững là sự phát triển về kinh tế song song với phát triển về xã hội. Để có phát
triển bền vững phải có phát triển kinh tế, phát triển văn hóa. Phải coi văn hóa là nền tảng,
mục tiêu, động lực, hệ điều tiết của sự phát triển.
3. Vai trò của văn hóa đối với phát triển theo quan điểm của Đảng ta : Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, văn hóa là mục tiêu, là động lực của sự phát triển kinh tế.
+ Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội vì:
Muốn xây dựng một xã hội cần phải có hai nền tảng: nền tảng vật chất và nền tảng
tinh thần. Nền tảng vật chất do kinh tế quy định. Nền tảng tinh thần chính là văn hóa. Hai nền
tảng này cần phát triển song song, hài hòa, tương xứng với nhau thì xã hội mới phát triển
bền vững được.
Nói đến văn hóa là nói đến hệ giá trị. Văn hóa tạo nên những giá trị cốt lõi, chuẩn
mực, bao gồm cả những giá trị lâu dài, ổn định, mang bản sắc riêng, cả những giá trị tiên tiến
phù hợp với xu thế thời đại. VH với những giá trị cảu mình xây dựng thước đo mức độ nhân
bản, trình độ, hành vi ứng xử của con người, là chỗ dựa cho bất cứ quốc gia trong bối cảnh
toàn cầu hóa.
+ Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển bởi vì:
Phát triển suy cho cùng là vì con người. Mục tiêu của phát triển không chỉ là nâng
cao mức sống mà phải là nâng cao chất lượng sống của con người trong sự kết hợp hài hòa
giữa điều kiện vật chất và tinh thần, giữa mức sống cao với lối sống đẹp, cho mình và cho
mọi người.
+ Văn hóa là động lực của sự phát triển bởi vì: Thứ nhất: Xã hội phát triển là xã hội
có nền văn hóa cao; Thứ hai: là khả năng chuyển hóa các năng lực tinh thần của con người,
tạo nguồn lực nội sinh, nền tảng cho sự phát triển; Thứ ba: Văn hóa thúc đẩy sự phát triển xã
10
hội, tức là văn hóa gắn liền với văn minh kỹ thuật; Thứ tư: Văn hóa tham gia vào quá trình
định hướng, chọn lựa cho sự phát triển lâu bền của dân tộc;
3. Thực tiễn việc gắn kết giữa các nhiệm vụ ở nước ta trong thời gian qua:
Sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp, có một số
mặt nghiêm trọng hơn, tổn hại không nhỏ đến uy tín của Đảng và Nhà nước, niềm tin của
nhân dân . Trong thời gian qua, sự phát triển của văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng với
tăng trưởng kinh tế, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một
trong những những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình phát triển KT và nhiệm vụ xây
dựng Đảng,…
Như vậy muốn xây dựng, phát triển văn hóa dân tộc, nhất thiết phải xây dựng, phát
triển văn hóa từ trong Đảng.
4. Muốn có sự PT bền vững những vấn đề gì cần phải tiếp tục quan tâm giải
quyết?
-
-
-
Tăng trưởng kinh tế nhanh để theo kịp cáo quốc gia trong khu vực.
Quan tâm đến xây dựng con người( Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống)
Xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh ( Xây dựng văn hóa trong Đảng).
III. Kết thúc vấn đề
Tiến hành đồng bộ và gắn kết giữa văn hóa với kinh tế và văn hóa với xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, đó là điều kiện cơ bản để hoạt động văn hóa thúc đẩy mạnh mẽ 2 nhiệm vụ
trung tâm và then chốt của cách mạng. Mặt khác, cũng nhằm nâng cao vị trí, chất lượng và
hiệu quả công tác văn hóa lên ngang tầm nhiệm vụ chiến lược của đất nước trong giai đoạn
hiện nay.
11
Bạn đang xem tài liệu "Đề cương ôn tập môn Triết học - Câu 6 (Có đáp án)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- de_cuong_on_tap_mon_triet_hoc_cau_6_co_dap_an.doc