Công cụ huy động nguồn lực tài chính đất đai phục vụ đầu tư cơ sở hạ tầng đô thị: Kinh nghiệm của nhật bản và bài học cho Việt Nam

CÔNG CỤ HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH ĐẤT ĐAI  
PHỤC VỤ ĐẦU TƯ CƠ SỞ HẠ TẦNG ĐÔ THỊ:  
KINH NGHIỆM CỦA NHẬT BẢN VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM  
ThS. Nguyễn Thanh Lân1  
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân  
Tóm tắt  
Trong bối cảnh phát triển đô thị hiện nay, việc đa dạng hóa các nguồn tài chính cho  
phát triển đô thị nói chung và CSHT đô thị nói riêng là vô cùng quan trọng và cấp bách.  
Trong đó, việc triển khai áp dụng các công cụ và cơ chế thu hồi phần giá trị đất đai để huy  
động nguồn lực tài chính từ đất phục vụ đầu tư vào CSHT đô thị được xem như là một phương  
thức khả thi và bền vững. Nội dung bài viết đề cập một số vấn đề lý thuyết về huy động nguồn  
lực tài chính từ đất đầu tư cơ sở hạ tầng đô thị thông qua các công cụ thu hồi giá trị đất đai;  
đồng thời tập trung tìm hiểu thực tiễn triển khai các công cụ thu hồi giá trị đất đai tại Nhật  
Bản. Trên cơ sở đó, bài viết rút ra một số định hướng và bài học kinh nghiệm có thể vận dụng  
vào điều kiện cụ thể của các đô thị tại Việt Nam.  
Từ khóa: Cơ sở hạ tầng; Đô thị; Giá trị đất gia tăng; Nguồn lực tài chính đất  
đai; Thu hồi giá trị đất đai (LVC).  
1. Đặt vấn đề  
Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (CSHT) đóng vai trò quan trọng, thiết yếu đối với  
mỗi đô thị và quốc gia. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, nhiều đô thị và thành phố trên  
thế giới đang phải đối mặt với áp lực về tài chính trong việc huy động các nguồn vốn  
phục vụ quá trình phát triển CSHT. Bằng chứng thực tế cho thấy, trong phát triển CSHT  
tại nhiều đô thị và các quốc gia trên thế giới, bên cạnh việc thu hút và huy động vốn từ  
các nguồn như: Nguồn vốn ngân sách nhà nước, đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài, cần  
phải huy động nguồn vốn quan trọng khác - đó là nguồn vốn hóa từ phần gia tăng giá trị  
của đất đai tại đô thị (Nguyễn Thanh Lân, 2018).  
Ở Việt Nam, việc "xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công  
trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn" được xác định là  
một trong 3 đột phá chiến lược (Theo Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011  
- 2020 Việt Nam). Đáng quan tâm, tại các thành phố lớn, cần có những giải pháp đầu tư  
vào hạ tầng đô thị với nhiều công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị như các trục giao thông  
hướng tâm, các đường vành đai v.v. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, nguồn vốn bố trí  
cho phát triển hạ tầng (cụ thể hạ tầng đường bộ) tại các đô thị nói riêng và các địa phương  
đang thiếu hụt trầm trọng, chủ yếu dựa vào nguồn vốn ngân sách nhà nước và vốn vay  
(Trần Kim Chung, 2017). Vấn đề đặt ra, chúng ta cần tìm kiếm, nghiên cứu và huy động  
các nguồn vốn tài chính khác – mà cụ thể ở đây là huy động nguồn vốn tài chính từ đất  
đai thông qua các công cụ thu hồi giá trị đất (Land value capture tools).  
1
Tel: 097.996.1838; Email: nguyenthanhlan@neu.edu.vn  
331  
Bài viết này nhằm mục tiêu tổng hợp một số vấn đề lý thuyết có liên quan đến việc  
huy động nguồn lực tài chính từ đất đai phục vụ đầu tư cơ sở hạ tầng đô thị (tập trung vào  
hạ tầng giao thông) thông qua các công cụ thu hồi/ điều tiết giá trị đất đai. Ngoài ra, bài  
viết tập trung phân tích và khai thác những kinh nghiệm thực tiễn trong huy động nguồn  
lực tài chính đất đai phục vụ đầu tư cơ sở hạ tầng đô thị của Nhật Bản. Trên cơ sở đó, bài  
viết đề xuất một số bài học có thể áp dụng cho Việt Nam.  
2. Lý luận chung về huy động nguồn lực tài chính từ đất đầu tư cơ sở hạ tầng đô thị  
thông qua các công cụ thu hồi giá trị đất đai  
Khi đề cập đến vấn đề huy động nguồn lực và thu hồi giá trị nói chung trong khoa  
học kinh tế và quản lý, Lepak và cộng sự (2007) cho rằng có thể chia làm 03 cấp độ tương  
ứng với 03 chủ thể tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội, cụ thể là: các cá nhân, các  
tổ chức (doanh nghiệp) và xã hội (nhà nước).  
Đối với đất đai, việc huy động nguồn lực tài chính đất đai và thu hồi giá trị đất đai  
(land value capture) thường được sử dụng theo 02 cách phổ biến, đó là: (i) Nhấn mạnh  
vào mục đích sử dụng - với hàm ý loại chính sách hoặc công cụ pháp lý để thu hồi phần  
tăng thêm giá trị của đất đai (bất kể nguyên nhân nào làm thay đổi giá trị đất đai); (ii)  
Nhấn mạnh vào kết quả của quá trình đầu tư CSHT hoặc các quy định chính sách của nhà  
nước làm thay đổi giá trị đất đai. Đây là cách được sử dụng trực tiếp, đề cập đến sự cải  
thiện (betterment) làm gia tăng giá trị đất đai (Nguyễn Thanh Lân, 2018). Như vậy, sự  
phân chia này cũng khá tương đồng với cơ chế huy động nguồn lực đất đai nhằm cung  
cấp tài chính CSHT đô thị do Peterson (2009) và Alterman. R (2012) đề xuất.  
Để có thể huy động nguồn lực tài chính đất đai, chúng ta cần thiết sử dụng các công  
cụ thu hồi phần gia tăng của giá trị đất đai do quá trình đầu tư CSHT tại đô thị. Về cơ  
bản, có 03 nhóm công cụ chủ yếu được sử dụng là: công cụ điều tiết chung (công cụ vĩ  
– macro instruments), công cụ trực tiếp (Direct instruments) và công cụ gián tiếp  
(Indirect instruments) (Rebelo, E. M, 2017). Trong đó:  
(a) Công cụ điều tiết chung: Được phản ánh trong chế độ pháp lý sử dụng đất của  
mỗi quốc gia. Đây được xem chính là điều kiện thúc đẩy chính sách quản lý và sử dụng đất  
đai hiệu quả hơn. Suzuki và các cộng sự (2015) quan niệm rằng, các công cụ điều tiết chung  
vừa đóng vai trò định hướng sử dụng đất, đồng thời thực hiện việc thu hồi phần giá trị gia  
tăng của đất trên cơ sở quá trình phát triển đất đai. Các công cụ điều tiết chung được đề cập  
đến chủ yếu bao gồm: Nhà nước trực tiếp kiểm soát đối việc sử dụng các quỹ đất đã được  
quốc hữu hóa; Thực hiện chế độ thuê đất có thời hạn thay vì giao đất; Thực hiện chế độ dữ  
dự đất đai thông qua ngân hàng đất đai (land banking); Tái điều chỉnh đất đai (land  
readjustment) (Alterman. R, 2012).  
(b) Công cụ điều tiết trực tiếp: Đây là các công cụ được sử dụng thu hồi giá trị tăng  
của đất đai, bất động sản (có thể thu hồi một phần hoặc toàn bộ). Công cụ này không cần  
phải áp dụng biện pháp bổ sung khi triển khai thực hiện và căn cứ vào phần giá trị tăng  
thêm của đất/ BĐS được tạo ra do các điều kiện kinh tế thuận lợi. Căn cứ vào nguồn gốc  
hình thành phần giá trị gia tăng có thể chia làm 02 nhóm chính: (i) Phần gia tăng giá trị  
332  
tự nhiên của đất đai (Unearned increment) – Đây là phần giá trị tăng thêm không liên  
quan đến các quyết định của chính phủ mà do những thay đổi trong quá trình phát triển  
kinh tế, xã hội (ví dụ: quá trình phát triển dân số, tập trung dân cư, sự tăng trưởng kinh tế  
v.v.) làm thay đổi giá trị đất đai; (ii) Phần gia tăng giá trị đất đai từ những cải thiện đất  
đai (Betterment) - Đây là giá trị tăng thêm do các quyết định cụ thể của chính phủ là trực  
tiếp gây ra như là: thay đổi mục đích sử dụng đất, quy hoạch, kiểm soát đất v.v. hoặc  
quyết định đầu tư CSHT công cộng (Nguyễn Thanh Lân, 2018).  
Qua nghiên cứu tổng quan, có thể khẳng định, các công cụ trực tiếp điều tiết phần giá  
trị gia tăng của đất đai và BĐS được hiểu như là các công cụ thuế hoặc công cụ thuế tương  
đương (Nguyễn Thanh Lân, 2018). Trong đó, thuế tài sản áp dụng vào các tài sản nhà đất,  
góp phần tạo lập nguồn thu ổn định cho ngân sách địa phương tại nhiều quốc gia. Đáng chú  
ý, công cụ Thuế giá trị gia tăng của BĐS liền kề (Betterment tax - còn được hiểu Thuế đánh  
do sự cải thiện CSHT) được xem là công cụ phản ánh trực diện nhất cả về mục tiêu và  
nguồn gốc hình thành phần giá trị tăng thêm đất đai và BĐS, thường mức thuế được áp  
dụng từ 30-60 % của giá trị đất ước tính đạt được (Peterson, 2009). Về tổng thể và tác động  
dài hạn, các sắc thuế đất và BĐS được coi là một công cụ tài chính đất đai và phương thức  
được hiệu quả trong điều tiết phần giá trị đất gia tăng; đồng thời, đây cũng là công cụ nhằm  
khuyến khích phát triển tư nhân xung quanh một dự án CSHT giao thông tại đô thị (Smith,  
J. J., & Gihring, T. A, 2006).  
(c) Công cụ gián tiếp: Đây là công cụ áp dụng nhằm gián tiếp thu phần lợi ích tăng  
thêm để tài trợ cho việc đầu tư và nâng cao năng lực CSHT, có sự khác biệt giữa các quốc  
gia và các địa phương. Do đó, có khá nhiều các thuật ngữ khác nhau được dùng khi đề  
cập đến công cụ gián tiếp (ví dụ như là: “Developer obligations”- nghĩa vụ của người phát  
triển; “Developer agreements” - thỏa thuận của nhà đầu tư; “Planning obligations” – nghĩa  
vụ quy hoạch; “incentive zoning” - khuyến khích phân vùng; “Linkage fees” – phí đấu  
nối, kết nối hạ tầng v.v). Điểm đáng quan tâm, công cụ gián tiếp có sự tương đồng đó là  
đề cập đến sự đóng góp nghĩa vụ của chủ đầu tư phát triển đất đai, BĐS nhằm bù đắp chi  
phí CSHT (Nguyễn Thanh Lân, 2018). Trong đó, nổi bật lên là có 02 công cụ phí cơ bản  
được sử dụng rộng rãi đó là: (i) Phí tác động (impact fee) và (ii) Phí phát triển  
(development charge hoặc development fee). Ngoài ra, phương thức “Tài trợ tăng thuế”  
(TIF - Tax Increment Financing) cũng được coi là biện pháp huy động và tạo vốn cho các  
dự án đầu tư CSHT, chỉnh trang các đô khá hiệu quả ở các nước phát triển.  
3. Kinh nghiệm của Nhật Bản trong vận dụng các công cụ thu hồi giá trị đất đai  
phục vụ đầu tư cơ sở hạ tầng đô thị  
3.1. Quy hoạch đóng vai trò tiên quyết trong phát triển cơ sở hạ tầng đô thị  
Nhật Bản được xem là quốc gia đã thành công trong quá trình đô thị hóa từ sau thế  
chiến thứ 2, do bởi giải quyết thành công những vấn đề đô thị như là: Tập trung quá đông  
cư dân, cơ sở hạ tầng đô thị, ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường v.v. Hiện nay, hệ  
thống giao thông tại các đô thị lớn của Nhật Bản cơ bản đã được xây dựng đồng bộ cùng  
với sự đa dạng các loại phương tiện giao thông công cộng. Mặc dù, diện tích đất hạn chế  
333  
nhưng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đô thị Nhật bản cũng được thiết kế đa dạng và  
hợp lý. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, chính quy hoạch và công tác quy hoạch là  
“chìa khóa” của sự thành công trong quá trình phát triển đô thị (Khánh Phương, 2018).  
Đáng chú ý, trong tiến trình phát triển đô thị, các quy hoạch và kế hoạch phát triển cơ sở  
hạ tầng luôn được ưu tiên (Takeshi Mugishima, 2017) – được thể hiện thông qua Đạo  
luật về Kế hoạch ưu tiên cho phát triển cơ sở hạ tầng vào năm 2003 (Act on Priority Plan  
for Infrastructure Development Act No.20 of 2003).  
Tại Nhật Bản, Chính phủ quyết định năm (05) chức năng riêng biệt liên quan đến  
quy hoạch không gian phát triển nói chung, đó là: (i) Ban hành khuôn khổ luật pháp khung  
về quy trình quy hoạch sử dụng đất; (ii) Lập kế hoạch không gian cấp quốc gia; (iii) Bố  
trí tài chính cho các dự án cơ sở hạ tầng trọng điểm tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến  
quá trình sử dụng đất; (iv) Phê duyệt các kế hoạch không gian của các địa phương; (v)  
Ban hành các quy định chính sách ràng buộc về nội dung của các kế hoạch cấp địa  
phương, cung cấp các tiêu chuẩn cho các công cụ để hướng dẫn chính quyền cấp dưới  
thực hiện (OECD, 2017).  
Ở phạm vi quốc gia, hệ thống quy hoạch không gian của Nhật Bản rất phức tạp và  
sử dụng một số lượng lớn các kế hoạch không gian. Ở cấp quốc gia, có hai quy hoạch  
cung cấp định hướng chiến lược là: Quy hoạch chiến lược không gian quốc gia và Quy  
hoạch sử dụng đất quốc gia. Ở cấp địa phương (cấp tỉnh), trong hệ thống các quy hoạch,  
quy hoạch đô thị sẽ bao gồm có 3 sản phẩm chính: Quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch hạ  
tầng và danh mục các dự án phát triển. Trong đó, quy hoạch sử dụng đất đóng vai trò nền  
tảng trong các đồ án quy hoạch đô thị - sẽ phản ánh rõ được các khu vực phát triển đô thị  
và khu vực hạn chế phát triển đô thị (Sorensen, A, 2005). . Ở đơn vị hành chính cấp dưới  
(cấp quận/ huyên), tại mỗi khu vực quy hoạch (phát triển hoặc hạn chế phát triển), quy  
hoạch cũng thể hiện rõ từng thửa đất và có các quy định ràng buộc chặt chẽ trong thiết kế  
kỹ thuật phát triển, xây dựng công trình đô thị (M. Tominaga, 2011; OECD, 2017).  
Trong quá trình lập quy hoạch, luôn có sự tham gia của người dân và phải đảm bảo  
70% sự chấp thuận tự nguyện của người dân thì các quy hoạch đó mới được phê chuẩn.  
Sau khi các quy hoạch được phê duyệt thì sẽ được công bố rộng rãi để người dân biết,  
thực hiện và giám sát (cụ thể là các quy hoạch có liên quan quy hoạch sử dụng đất và quy  
hoạch hạ tầng). Quy hoạch đô thị sẽ được thực hiện thông qua các dự án phát triển đô thị,  
ví dụ như Dự án phát triển khu dân cư đô thị và các dự án xây dựng hạ tầng v.v. Trong  
quá trình thực hiện, có sự phân cấp trong thực thi giữa cấp trung ương và địa phương, cụ  
thể quy định pháp luật yêu cầu tối thiểu 40% dự án phải ưu tiên cho địa phương thực hiện  
triển khai và quản lý. Đáng chú ý, việc kiểm soát sử dụng đất theo quy hoạch được thực  
hiện rất nghiêm ngặt. Ở các khu vực đã lập dự án khả thi với quy hoạch 1/500 phải ban  
hành thành quy chế với các quy định trong sử dụng đất mang tính bắt buộc (Khánh  
Phương, 2018).  
Bên cạnh đó, các quy định và chính sách kinh tế đất giúp cho quá trình thực hiện  
các quy hoạch và dự án phát triển cơ sở hạ tầng được thuận lợi hơn. Cụ thể, tại Nhật Bản  
334  
việc phân chia lợi ích cho xã hội khi hưởng lợi từ việc giá đất tăng do quy hoạch, phát  
triển cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế đã phát huy hiệu quả, thông qua các quy định về  
đánh thuế lợi nhuận do giá đất tăng khi chuyển nhượng bằng hình thức đánh thuế lợi  
nhuận và siết chặt việc đánh thuế chuyển nhượng đất đai sở hữu trong thời gian ngắn. Để  
làm được điều này, Chính phủ Nhật Bản đã xây dựng được hệ thống giá đất, định giá đất,  
công bố giá đất hợp lý; tổ chức và thu thập các thông tin về kinh tế đất cập nhật. Điều này  
giúp cho cơ quan quản lý nắm bắt được xu hướng giá đất; từ đó có những can thiệp và sử  
dụng công cụ tài chính đất đai phù hợp (Yamashita Masayuki, 2018).  
Như vậy, có thể thấy rằng, việc phát triển cơ sở hạ tầng tại Nhật Bản rất được chú  
trọng, ưu tiên và được tích hợp trong quá trình lập quy hoạch không gian, quy hoạch sử  
dụng đất và quy hoạch đô thị. Bên cạnh đó, quá trình triển khai các quy hoạch luôn đảm  
bảo sự thống nhất và tuân thủ. Đây là điều kiện nền tảng, đóng vai trò vai trò tiên quyết  
trong phát triển cơ sở hạ tầng của các đô thị.  
3.2. Công cụ thu hồi giá trị nhằm huy động nguồn lực tài chính từ đất đai phục vụ  
phát triển cơ sở hạ tầng đô thị  
ng cụ thu hồi giá trị đất đai (LVC) là các công cụ tài chính mà thông qua đó cơ  
quan quản lý nhà nước có thể thu hồi/ điều tiết phần giá trị đất gia tăng không do người sử  
dụng đất/ chủ sở hữu đất tạo ra. Thông thường, các công cụ sẽ nhằm mục tiêu để thu hồi sự  
gia tăng giá trị đất đai do tác động từ các can thiệp của nhà nước như: Quy hoạch, phân  
vùng, đầu tư CSHT, các chính sách công v.v. Như phân tích bên trên, có 03 nhóm các công  
cụ khác thu hồi giá trị khác nhau. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia ứng với các nhóm công cụ sẽ  
được thực hiện bằng các cơ chế thu hồi/ điều tiết cụ thể (chi tiết bảng dưới).  
Bảng 1. Các cơ chế thu hồi giá trị đất đai thường được sử dụng  
Căn cứ  
Một số cơ chế thu hồi giá trị đất đai  
Thuế đất đai/ bất động sản (Property and Land Tax )  
Phí cải thiện (Betterment Levies or Special Assessments)  
Tài trợ tăng thuế (Tax Increment Financing - TIF)  
Dựa trên trên cơ  
sở thuế và phí  
Tư nhân hóa đất đai hoặc cho thuê đất (Land Sale or Land  
Lease)  
Dựa trên sự phát  
triển  
Bán quyền không gian (Air Right Sale)  
Tái điều chỉnh đất (Land Readjustment)  
Đề án tái phát triển đô thị (Urban Redevelopment Schemes)  
Nguồn: Tổng hợp dựa theo Suzuki và các cộng sự (2015).  
Tại Nhật Bản, hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị phát triển khá đa dạng về chủng loại:  
đường bộ, đường sắt, tàu điện ngầm v.v. Chính vì vậy, Chính phủ Nhật Bản cũng đã có  
335  
một số dạng cơ chế cụ thể được triển khai áp dụng rất thành công, đặc biệt trong phát  
triển hệ thống hạ tầng đường sắt đô thị (chi tiết xem thêm tại Suzuki và cộng sự (2015,  
tr.108 ). Đáng chú ý, kết quả nghiên cứu của OECD (2017) cho thấy, Nhật Bản và các  
quốc gia trong nhóm OECD thường sử dụng các cộng cụ điển hình như là: Phí tác động;  
Phương thức hợp tác phát triển (đối tác phát triển - “Joint developments”); Thuế đất đai  
và BĐS; Ngân hàng đất đai (Land Banking); Tài trợ tăng thuế (Tax increment financing);  
Phí cải thiện. Cụ thể, có 04 công cụ chính cơ bản là: Phí tác động; Đối tác phát triển; Thuế  
BĐS/đất; Ngân hàng đất đai là được ưu tiên sử dụng tại Nhật Bản so với các công cụ còn  
lại thông qua các cơ cơ chế thu hồi.  
Bảng 2. Các công cụ thu hồi giá trị đất đai được sử dụng trong nhóm nước OECD  
Ngân  
hàng đất trợ tăng  
Tài  
Không  
áp dụng  
công cụ  
Phí tác  
động  
Đối tác  
phát triển  
Thuế  
BĐS/đất  
Phí cải  
thiện  
đai  
thuế  
Úc  
Áo  
Úc  
Chile  
Áo  
Canada  
Israel  
Bỉ  
Áo  
CH Séc  
Phần Lan PhầnLan  
Ba Lan Hungary  
Hoa Kỳ Ireland  
Slovenia  
Estonia  
Phần Lan  
Pháp  
Đan Mạch Đan Mạch Đức  
Pháp  
Estonia  
Phần Lan  
nQuốc  
NhậtBản  
Phần Lan  
Israel  
nQuốc TâyBanNha  
Anh  
Nhật Bản  
Đức  
Hàn Quốc Na Uy  
Hoa Kỳ  
Hy Lạp  
Israel  
México  
TâyBanNha  
Nhật Bản  
Hàn Quốc  
México  
Hà Lan  
NewZealand Hoa Kỳ  
BĐàoNha  
ThổNhĩKỳ  
Hoa Kỳ  
Ý
Nhật Bản  
Hàn Quốc  
Hà Lan  
New  
Zealand  
Na Uy  
New  
Zealand  
CH  
Slovakia  
Slovakia  
Thụy Điển  
Thụy Sĩ  
Thụy Sĩ  
Hoa Kỳ  
Hoa Kỳ  
17  
15  
11  
8
6
3
5
Nguồn: Tổng hợp dựa theo OECD (2017).  
Đáng chú ý, trong các cơ chế thu hồi giá trị đất được sử dụng tại Nhật Bản, có 03  
công cụ được áp dụng khá phổ biển và đạt hiệu quả là: (i) Tái điều chỉnh đất đai; (ii) Đề  
án tái phát triển đô thị; (iii) Bán quyền không gian (Takeo Murakami, 2015).  
336  
Tình huống tại  
Nhật Bản  
Công cụ  
Đặc trưng công cụ  
Các chủ sở hữu đất đai thực hiện  
gộp đất lại với nhau để điều chỉnh/  
cơ cấu về hình thể, diện tích, vị trí,  
kích thước, mục đích v.v. và đóng  
góp một phần đất để bán/ chuyển  
nhượng nhằm mục đích gây quỹ -  
tạo nguồn tài chính. Quỹ này  
được sử dụng để trả cho chi phí  
đầu tư CSHT công cộng. Điều này  
có thể được sử dụng như một công  
cụ để tài chính tài trợ cho quá  
trình phát triển hạ tầng đô thị  
Thành phố Vườn Tama  
(Tama Garden-City) được  
phát triển bởi Tổng công ty  
Tái điều chỉnh đất  
Tokyu  
(Tokyu  
đai (Cơ chế góp đất)  
Corporation).  
Chủ đất cùng với một nhà phát  
triển thành lập một thực thể hợp  
tác để hợp nhất các lô đất và phát  
triển các tòa nhà cao tầng với khả  
năng tiếp cận tiếp và không gian  
mở. Đồng thời, chính quyền địa Dự án Futakotamagawa  
phương cho phép chuyển đổi mục Station, thuộc Tsukuba  
đích sử dụng đất xung quan khu Express,  
vực trung chuyển, tăng hệ số sử  
Đề án tái phát triển đô  
thị  
dụng đất, mật độ xây dựng, cho  
phép xây dựng các BĐS thương  
mại, các tòa nhà cao cấp và hỗn  
hợp v.v.  
Có sự thỏa thuận theo quy định  
cho phép chủ sở hữu đất/ BĐS  
chuyển nhượng hoặc bán một  
phần “quyền phát triển” không sử  
Dự án Nhà ga Tokyo  
Bán quyền không  
gian  
dụng (ví dụ: Tỷ lệ diện tích tầng  
(Tokyo Station thuộc  
bổ sung để phát triển một tòa nhà  
Marunouchi, Tokyo)  
(Quyền phát triển)  
cao hơn) cho một lô đất liền kề  
hoặc cho một chủ đất trong khu  
vực dự án đã được phê duyệt đầu  
tư.  
Nguồn: Tổng hợp dựa theo Takeo Murakami (2015); Suzuki và các cộng sự (2015).  
Trên thực tế, trong quá trình sử dụng, các cơ chế và công cụ được xem xét sử dụng  
đồng thời cùng với nhau tại mỗi dự án cụ thể. Trong đó, phương thức tái điều chỉnh đất  
đai được ưu tiên sử dụng. Do bởi phương thức này có ưu điểm: Tái điều chỉnh lại các lô  
337  
đất theo quy hoạch mới được thực hiện, qua đó đáp ứng các nhu cầu cơ bản của không  
gian đô thị hiện đại; Chia sẻ chi phí và lợi ích giữa các bên; Sự tham gia của cộng đồng.  
Chính vì vậy, các nhà đầu tư có thể dễ dàng hơn trong triển khai dự án phát triển CSHT  
mà do không cần phải huy động nguồn tài chính lớn (Nguyễn Dư Minh, 2013).  
4. Một số bài học rút ra cho các đô thị tại Việt Nam  
Từ những thành công của Nhật Bản trong việc sử dụng các công cụ thu hồi giá trị  
đất đai để huy động nguồn lực đất đai để giải quyết và đáp ứng nhu cầu về vốn cho đầu  
tư CSHT đô thị và đặt trong bối cảnh thể chế kinh tế, xã hội, trình độ phát triển của Việt  
Nam, có thể rút ra một số một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc sử dụng  
và tăng cường hiệu quả các cơ chế, chính sách huy động tài chính đất đai phục vụ đầu tư  
cơ sở hạ tầng tại các đô thị như sau:  
Thứ nhất, để huy động nguồn lực đất đai thông qua các công cụ thu hồi giá trị cần  
căn cứ vào điều kiện thực tế của mỗi khu vực/ địa bàn đô thị và được xem xét điều chỉnh  
bởi các bên có liên quan, thời gian và quy mô v.v. Tuy nhiên, về cơ bản phương thức và  
cơ chế thu hồi giá trị đất đai bền vững là cần dựa trên sự phát triển, bên cạnh dựa vào cơ  
sở thuế và phí. Theo đó, để thu hồi được giá trị đất một cách tối ưu, cơ quan quản lý nhà  
nước cần tạo ra giá trị đất gia tăng trước khi thu hồi giá trị. Nói cách khác, Nhà nước cần  
phải kiến tạo những điều kiện sự phát triển của đất đai trước khi tiến hành các biện pháp  
thu hồi giá trị.  
Thứ hai, các công cụ thu hồi có thể được áp dụng: Dưới tác động của thị trường đất  
đai/ BĐS, về cơ bản, các công cụ Tái điều chỉnh đất đai và Tái phát triển đô thị là hai  
công cụ chính nên ưu tiên xem xét. Cả hai công cụ dường như là sẽ đảm bảo sự tham gia  
và đồng thuận của cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, quá trình thỏa thuận để đạt được sự đồng  
thuận có thể sẽ tốn thời gian và nguồn lực.  
Hiện nay, ở nước ta, cơ chế tái điều chỉnh đất đai trong quá trình đầu tư phát triển  
CSHT và chỉnh trang các đô thị đã được làm thí điểm tại địa bàn Thành phố Trà Vinh.  
Tuy nhiên, để nhân rộng được mô hình này cần lưu ý đến quá trình lập quy hoạch sử dụng  
đất đất đô thị, sự tham gia và đồng thuận của người dân, pháp lý của phần đất tham gia  
quá trình (trước – sau) tái điều chỉnh, vai trò của nhà nước trong việc ban hành những cơ  
sở pháp lý cho cơ chế và tổ chức thực hiện của chính quyền địa phương.  
Thứ ba, điều kiện để triển khai các công cụ thu hồi giá trị đất đai nhằm huy động  
nguồn lực tài chính đất đai cho phát triển CSHT chính là xây dựng và ban hành được hệ  
thống quy hoạch đô thị, quy hoạch sử dụng đất có chất lượng; kèm theo đó quá trình thực  
thi thống nhất và hiệu quả. Ngoài ra, các cơ quan quản lý nhà nước cần có các chính sách  
kinh tế đất hợp lý có liên quan đến giá đất, định giá đất và tổ chức thu thập thông tin kinh  
tế đất để phục vụ cho quá trình triển khai các công cụ thu hồi giá trị đất đai. Nói cách  
khác, để tạo ra giá trị và thu hồi giá trị đất đai hiệu quả cần phải có nền tảng thể chế và  
xây dựng năng lực quản trị đô thị tốt.  
Cuối cùng, để phát triển hệ thống hạ tầng giao thông đô thị bền vững cần có các  
338  
chính sách hỗ trợ phát triển thông qua các công cụ trợ tài chính, công cụ thuế để phát triển  
hạ tầng cho các loại hình giao thông mới như là hệ thống đường sắt đô thị. Đồng thời, cần  
có cơ chế khuyến khích thu hút mạnh mẽ hơn nữa khu vực tư nhân tham gia, đầu tư cơ  
sở hạ tầng đô thị thông qua cơ chế hợp tác công tư (PPP)./.  
5. Kết luận  
Kinh nghiệm thực tế của Nhật Bản khi huy động nguồn lực tài chính đất đai phục  
vụ phát triển CSHT đô thị cho thấy, các công cụ thu hồi giá trị đất dựa trên sự phát triển  
như Tái điều chỉnh đất đai và Tái phát triển đô thị là phổ biến và được ưu tiên sử dụng.  
Ngoài ra, để triển khai có hiệu quả các công cụ thu hồi giá trị đất đai cần quan tâm đến  
chất lượng hệ thống quy hoạch đô thị. Đây có thể là những định hướng gợi mở cho quá  
trình huy động nguồn lực tài chính phát triển CSHT đô thị của Việt Nam trong thời gian  
tới. Với việc vận dụng các công cụ và cơ chế thu hồi giá trị đất đai cho đầu tư vào CSHT  
sẽ được kỳ vọng như là một giải pháp khả dĩ và bền vững đối với quá trình phát triển đô  
thị Việt Nam.  
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Alterman, Rachelle (2012), Land Use Regulations and Property Values: The  
'Windfalls Capture' Idea Revisited. Chapter in: 'The Oxford Handbook of Urban  
Economics and Planning' (Nancy Brooks, Kieran Donaghy, and Gerrit-Jan Knaap,  
eds.)  
pp.  
755-786,  
Oxford  
University  
Press.  
Available  
at  
2. Lepak, D. P., Smith, K. G., & Taylor, M. S. (2007). Value creation and value capture:  
a multilevel perspective. Academy of management review, 32(1), 180-194.  
3. Peterson, G. E. (2009). Unlocking land values to finance urban infrastructure (Vol.  
7). World Bank Publications.  
4. Rebelo, E. M. (2017). Land betterment capture revisited: A methodology for  
territorial plans. Land Use Policy, 69, 392-407.  
5. Smith, J. J., & Gihring, T. A. (2006). Financing transit systems through value  
capture: An annotated bibliography. American Journal of Economics and  
Sociology, 65(3), 751-786.  
6. Suzuki, H., Murakami, J., Hong, Y. H., & Tamayose, B. (2015). Financing transit-  
oriented development with land values: Adapting land value capture in developing  
countries. World Bank Publications.  
7. Nguyễn Thanh Lân (2018), Các công cụ thu hồi giá trị đất gia tăng trong quá  
trình phát triển kết cấu hạ tầng đô thị ở một số quốc gia trên thế giới, Tạp chí Kinh  
tế và Dự báo, Số 17, Tháng 6/2018, trang 58-61.  
8. Trần Kim Chung (2017), Giải pháp vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng gắn với tái cơ  
339  
cấu đầu tư, Tạp chí Tài chính, Số 652, tháng 3/2017), trang 35-37.  
9. Khánh Phương (2018), Kinh nghiệm quy hoạch đô thị ở Nhật Bản, truy cập ngày  
10. Takeo Murakami (2015), PPP Models for Sustainable Urban Development, High-  
Level Symposium on Sustainable Cities: Connecting People, Environment and  
Technology, Co-Convened By the United Nations and Toyota City, 16 Jan 2015.  
11. Takeshi  
Mugishima (2017), National Level Strategy for Infrastructure  
Development in Japan, truy cập ngày 12/8/2019, tại địa chỉ website:  
12. OECD (2017), Land-use Planning Systems in the OECD: Country Fact Sheets,  
13. M. Tominaga (2011), Urban and spatial planning in Japan, Urbanism. Arhitectură.  
Construcţii • Vol. 2 • Nr. 4, page 29-36.  
14. Sorensen, A. (2005). The making of urban Japan: cities and planning from Edo to  
the twenty first century. Routledge.  
15. Yamashita Masayuki (2018), Kinh nghiệm của Nhật Bản về vấn đề kinh tế đất đai,  
Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về kinh tế đất đai, do Ngân hàng Thế giới và  
Bộ Tài Nguyên và Môi trường, tổ chức tại Hà Nội, ngày 13/7/2018.  
16. Nguyễn Dư Minh (2013), Phương pháp điều chỉnh đất của Nhật Bản, truy cập ngày  
340  
pdf 10 trang Thùy Anh 18/05/2022 840
Bạn đang xem tài liệu "Công cụ huy động nguồn lực tài chính đất đai phục vụ đầu tư cơ sở hạ tầng đô thị: Kinh nghiệm của nhật bản và bài học cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfcong_cu_huy_dong_nguon_luc_tai_chinh_dat_dai_phuc_vu_dau_tu.pdf