Tiếp cận công lý và tiếp cận pháp luật

TIẾP CẬN CÔNG LÝ VÀ TIẾP CẬN PHÁP LUẬT  
TS. Nguyễn Văn Tuân  
Khoa Luật, Trường Đại học Thành Đông  
TÓM TẮT  
Tiếp cận công lý và tiếp cận pháp luật là những vấn đề phức tạp, mang tính học  
thuật mà hiện nay còn có những quan điểm, nhận thức khác nhau, chưa thống nhất về khái  
niệm, nội dung và bản chất của nó. Tiếp cận công lý và tiếp cận pháp luật là hai vấn đề có  
mối quan hệ gần gũi với nhau, nhưng chúng không đồng nhất với nhau mà có sự giao thoa  
với nhau, có những điểm chung nhất định. Bài viết phân tích các quan điểm, nhận thức  
khác nhau về tiếp cận công lý để từ đó đưa ra khái niệm, nội dung của tiếp cận pháp luật,  
cũng như mối quan hệ giữa tiếp cận pháp luật và tiếp cận công lý.  
Từ khóa: Công lý, tiếp cận công lý; Pháp luật, tiếp cận pháp luật.  
ABSTRACT  
Access to justice and law are complex and scholarly issues that currently have  
different perspectives and perceptions, inconsistency on its concept, content and nature.  
Access to justice and access to law are two issues that are closely related, but they are not  
identical with each other, but have interference with each other, and have certain common  
points. The article analyzes different perspectives and perceptions on access to justice in  
order to give the concept, content of the access to the law, as well as the relationship  
between access to law and access to justice.  
Keywords: Justice, access to justice; Law, access to law.  
công bằng, lẽ phải, nhân đạo…của công  
1. Về tiếp cận công lý  
lý thì lúc đó pháp luật mới là biểu hiện của  
Có quan điểm cho rằng: “Công lý  
công lý. Ngược lại, một thứ pháp luật  
liên quan mật thiết với pháp luật. Nói cách  
không bảo vệ cho kẻ yếu chỉ nhằm bảo vệ  
khác pháp luật là hiện thân của công lý,  
quyền lợi cho thiểu số, kẻ mạnh có quyền  
nhưng không đồng nhất với pháp luật,  
lực ấy là thứ pháp luật bất công…Công lý  
không phải có pháp luật tức là sẽ có công  
phụ thuộc vào ý thức pháp luật trong đó  
lý, thực thi đúng pháp luật tức là đã thực  
có thái độ, sự đánh giá của dân chúng đối  
thi được công lý. Chỉ khi nào pháp luật  
với pháp luật, đối với hành xử của nhân  
chuyển tải được toàn bộ những giá trị  
viên công quyền về sự công bằng hay bất  
công”1.  
hệ với công dân…Dưới góc độ pháp luật,  
công lý là sự công bằng, bình đẳng, là nền  
tảng của xã hội dân sự”4.  
Công lý hay tiếp cận công lý cho đến  
nay còn có những cách hiểu, cách tiếp cận  
khác nhau. Trong tiếng Latin từ “justio”  
có thể hiểu là “công lý”, “công bằng”. Có  
quan điểm cho rằng “Quyền tiếp cận công  
lý là quyền của người dân, tổ chức được  
biết về quá trình giải quyết tranh chấp  
kinh tế, dân sự, hành chính, lao động và  
các vụ án hình sự của cơ quan nhà nước  
có thẩm quyền”2 . Còn quan điểm khác lại  
cho rằng, tiếp cận công lý là lĩnh vực rộng,  
bao gồm các vấn đề liên quan đến bảo  
đảm thực thi và bảo vệ quyền của người  
dân khi có khiếu nại, tranh chấp xảy ra 3.  
Dưới góc độ khác, có quan điểm cho rằng  
“Công lý là những giá trị về công bằng, lẽ  
phải, phù hợp với lợi ích chung, với đạo  
lý được xã hội và pháp luật thừa nhận.  
Đây là những tiêu chuẩn làm thước đo cho  
một hệ thống pháp luật, cho cách hành xử  
của nhân viên công quyền trong mối quan  
Thông thường, khi nói đến công lý,  
quyền tiếp cận công lý là nói đến hoạt  
động xét xử của Tòa án, đặc biệt là hoạt  
động xét xử vụ án hình sự. Khi nói đến  
công lý người ta đồng nghĩa nó với Tòa  
án, mặc dù Tòa án là nơi thể hiện rõ nét  
nhất của công lý, là nơi công lý hiện diện  
và được thực thi. Quyền tiếp cận công lý  
không chỉ dừng lại ở việc được biết về quá  
trình giải quyết các tranh chấp thuộc thẩm  
quyền của Tòa án và như vậy quyền tiếp  
cận công lý đồng nghĩa với quyền được  
tiếp cận thông tin trong hoạt động xét xử  
hay nói một cách khác là quyền tiếp cận  
thông tin tư pháp. Quyền tiếp cận công lý  
là quyền của người dân được tiếp cận với  
thông tin pháp luật, quyền hiểu biết pháp  
luật, quyền được tư vấn và trợ giúp pháp  
lý trong hoạt động tư pháp. Tiếp cận công  
lý là quyền của người dân và đồng thời là  
1 Ths. Đinh Thế Hưng, “Quyền tiếp cận  
công lý trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Nghề  
luật, số 1/2011.  
nhật 2010 về tiếp cận công lý ở Việt Nam từ  
quan điểm của người dân” tham luận tại “Hội  
thảo - Báo cáo khảo sát cập nhật 2010 về tiếp  
cận công lý ở Việt Nam từ quan điểm của  
người dân” do Hội luật gia Việt Nam tổ chức,  
Hà Nội, tháng 12/9/2011.  
2 PGS. TS. Phạm Hồng Hải, ‘’Quyền tiếp cận  
công lý ở Việt Nam’’, tham luận tại “Đại hội  
luật gia dân chủ thế giới”, Hà Nội tháng  
9/2009.  
4 Ths. Đinh Thế Hưng, tlđd.  
3
Nguyễn Tiến Lập, Văn phòng luật sư  
NHQuang và cộng sự, “Báo cáo khảo sát cập  
nghĩa vụ của Nhà nước. Trong Nhà nước  
pháp quyền, các yếu tố cơ bản của quyền  
tiếp cận công lý, đó là quyền tiếp cận  
thông tin pháp luật, quyền được tư vấn và  
trợ giúp pháp lý và hệ thống tòa án công  
bằng.  
phổ biến, giáo dục pháp luật cho người  
dân là rất cần thiết. Nhà nước cần có trách  
nhiệm trong việc cung cấp các thông tin  
pháp luật cho người dân một cách đầy đủ,  
kịp thời và dễ tiếp cận nhất. Tư vấn pháp  
luật và trợ giúp pháp lý ngày càng có vai  
trò quan trọng trong việc giúp người dân  
tiếp cận công lý. Tư vấn pháp luật là giúp  
người dân hiểu pháp luật, biết cách cư xử  
đúng pháp luật và lựa chọn phương thức  
giải quyết phù hợp nhất khi có tranh chấp  
xảy ra. Còn trợ giúp pháp lý giúp cho  
người dân nhận được dịch vụ pháp lý  
miễn phí trong trường hợp họ không có  
khả năng chi tr5.  
Với cách tiếp cận mới, có hai cách  
hiểu chính về tiếp cận công lý. Thứ nhất,  
quyền tiếp cận công lý được hiểu như là  
quyền được xét xử công bằng được ghi  
nhận trong luật quốc tế về quyền con  
người. Thứ hai, quyền tiếp cận công lý  
được hiểu là khả năng tìm kiếm sự đền bù  
hoặc sự khắc phục cho những bất công  
hay thiệt hại mà một cá nhân hay nhóm cá  
nhân, đặc biệt là cho nhóm xã hội dễ bị  
tổn thương phải gánh chịu. Nền tảng đầu  
tiên của việc bảo đảm tiếp cận công lý là  
thể chế về các quyền và nghĩa vụ của công  
dân hay còn gọi là bảo vệ pháp lý. Một sự  
bảo đảm pháp lý đầy đủ cần có một hệ  
thống các cơ quan được thiết lập để thực  
hiện và bảo đảm thực hiện chúng một  
cách đúng đắn. Vì vậy, khuôn khổ thiết  
chế là nền tảng thứ hai của việc bảo đảm  
tiếp cận công lý. Nền tảng thứ ba của việc  
bảo đảm tiếp cận công lý là sự hiểu biết  
pháp luật, hệ thống tư vấn và trợ giúp  
pháp lý. Để tiếp cận công lý sự hiểu biết  
pháp luật là rất quan trọng. Vì vậy, việc  
Tiếp cận công lý và bảo vệ quyền  
của người dân là một trọng tâm trong hỗ  
trợ cải cách pháp luật của UNDP tại Việt  
Nam. Vào giữa năm 2003, lần đầu tiên  
một cuộc khảo sát xã hội học về nhận thức  
của người dân về tiếp cận công lý tại Việt  
Nam đã được một nhóm tư vấn độc lập  
tiến hành. Năm 2010 một cuộc khảo sát  
“Tiếp cận công lý – từ quan điểm người  
dân” được tiến hành tại một số tỉnh, thành  
phố trực thuộc Trung ương. Hội luật gia  
Việt Nam và một số Hội luật gia cấp tỉnh  
đã hợp tác và hỗ trợ nhiệt tình cho cuộc  
khảo sát và xây dựng Báo cáo về tiếp cận  
công lý.  
5
Vũ Công Giao “Tiếp cận công lý và các  
chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, Luật  
học 25 (2009).  
nguyên lý của Nhà nước pháp quyền”, Tạp  
Nội dung Báo cáo “Tiếp cận công lý  
ở Việt Nam – từ quan điểm của người  
dân” khảo sát năm 2010 đề cập đến những  
vấn đề cơ bản sau: i) Đánh giá của người  
dân về tiếp cận pháp luật và thiết chế bảo  
vệ pháp luật; ii) Đánh giá của người dân  
về cải cách pháp luật; iii) Các yếu tố văn  
hóa và tâm lý xã hội ảnh hưởng đến tiếp  
cận công lý của người dân; iv) Tiếp cận  
công lý của nhóm yếu thế6.  
luật của người dân và hiểu biết của họ về  
văn bản pháp luật cụ thể. Về thiết chế bảo  
vệ pháp luật, trong Báo cáo “Tiếp cận  
công lý – từ quan điểm người dân” chia  
thành hai nhóm: a) Cơ quan bảo vệ pháp  
luật bao gồm cơ quan nhà nước như Tòa  
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân,  
Công an, Cơ quan thi hành án, Ủy ban  
nhân dân, Thanh tra và tổ chức phi nhà  
nước do người dân tự thành lập và tự quản  
như Tổ hòa giải ở cơ sở và Trưởng  
thôn/Tổ trưởng dân phố, Già làng; b) Các  
thiết chế hỗ trợ bảo vệ quyền của người  
dân bao gồm Tổ chức chính trị - xã hội,  
luật sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý, Tổ  
chức xã hội dân sự và Cơ quan báo chí8.  
Theo chúng tôi việc phân chia thành hai  
nhóm này là chưa hợp lý, cần phân biệt cơ  
quan nhà nước, trong đó có cơ quan bảo  
vệ pháp luật với tổ chức và cá nhân.  
Theo Báo cáo “Tiếp cận công lý ở  
Việt Nam – từ quan điểm của người dân”  
để đến với công lý trong các tình huống  
có nhu cầu, người dân trước hết phải có  
năng lực và điều kiện tiếp cận pháp luật  
và các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tiếp cận  
pháp luật bao gồm hiểu biết pháp luật  
và/hoặc biết cách thức để tìm kiếm và tra  
cứu thông tin pháp luật, để người dân ý  
thức rõ về các quyền của mình trong các  
hoạt động hàng ngày được pháp luật bảo  
vệ; đồng thời, người dân còn được biết  
cần làm gì trong trường hợp các quyền đó  
bị xâm phạm”7. Tiếp cận pháp luật còn là  
việc tham gia của người dân vào quá trình  
dự thảo luật, việc tiếp cận thông tin pháp  
Chỉ số công lý – Thực trạng về Công  
bằng và Bình đẳng dựa trên ý kiến của  
người dân là kết quả của sự hợp tác giữa  
Hội luật gia Việt Nam (VLA), Trung tâm  
Nghiên cứu Phát triển và Hỗ trợ Cộng  
đồng (CECODES) thuộc Liên hiệp các  
6 Văn phòng luật sư NH Quang và Cộng sự,  
Dự thảo “Báo cáo Tiếp cận công lý – từ  
quan điểm của người dân” khảo sát cập nhật  
năm 2010, Hà Nội tháng 8 năm 2011.  
7 Văn phòng luật sư NHQuang và Cộng s,  
tlđd.  
8 Văn phòng luật sư NHQuang và Cộng s,  
tlđd.  
Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam  
(VUSTA) và Chương trình Phát triển  
Liên hiệp quốc (UNDP). Chỉ số công lý  
giới thiệu một hướng tiếp cận mới để đánh  
giá kết quả tiến trình cải cách pháp luật và  
tư pháp đang diễn ra. Dựa vào kinh  
nghiệm các khảo sát về tiếp cận công lý  
đã được tiến hành trước đây, cũng như từ  
việc xây dựng các chỉ số đo lường hiệu  
quả quản trị địa phương đang được sử  
dụng tại Việt Nam, Chỉ số Công lý thực  
nghiệm trên quy mô lớn lần đầu tiên năm  
2012 theo xu hướng xây dựng một công  
cụ định lượng có thể chuyển tải ý kiến và  
đánh giá của người dân về hiệu quả hoạt  
động của các thiết chế nhà nước trong bảo  
đảm công lý và các quyền cơ bản. Đồng  
thời, Chỉ số Công lý giúp các bên có liên  
quan đánh giá và giám sát các thay đổi  
thực chứng về hiệu quả của pháp luật và  
bảo đảm công lý ở Việt Nam.  
thi pháp luật và bảo đảm công lý là: i) Khả  
năng tiếp cận; ii) Công bằng; iii) Liêm  
chính; iv) Tin cậy và hiệu quả; v) Bảo  
đảm các quyền cơ bản. Chỉ số công lý  
năm 2012 phản ánh ý kiến và nhận xét của  
người dân về hiệu quả hoạt động của các  
cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm  
công lý và các quyền cơ bản của người  
dân. Chỉ số công lý này cung cấp một  
điểm tham chiếu hữu ích cho các biện  
pháp cải cách tiếp theo, nhằm làm cho hệ  
thống tư pháp và pháp luật của Việt Nam  
ngày càng hiệu quả và nhạy bén hơn, đáp  
ứng nhu cầu và nguyện vọng của người  
dân9.  
2. Về tiếp cận pháp luật  
Tiếp cận pháp luật là vấn đề còn ít  
công trình nghiên cứu. Như đã trình bày ở  
trên, trong Báo cáo “Tiếp cận công lý – từ  
quan điểm người dân” khảo sát năm 2010  
thì khái niệm tiếp cận pháp luật bao gồm  
hai nội dung: 1) Hiểu biết pháp luật  
và/hoặc biết cách tìm kiếm và tra cứu  
thông tin pháp luật; 2) Người dân biết  
phải làm gì để bảo vệ các quyền của mình.  
Về khái niệm tiếp cận pháp luật này đã thể  
hiện được quyền của người dân trong việc  
hiểu, biết và sử dụng pháp luật, tuy nhiên,  
Chỉ số công lý năm 2012 được xây  
dựng trên cơ sở kết quả tham khảo ý kiến  
của hơn năm nghìn người dân thuộc nhiều  
tầng lớp xã hội sinh sống ở 21 tỉnh, thành  
phố của Việt Nam và tham khảo kinh  
ngiệm quốc tế về đo lường công lý, pháp  
quyền, quản trị quốc gia. Chỉ số công lý  
năm 2012 dựa trên 5 trục nội dung về thực  
9
Báo cáo “Chỉ số công lý – Thực trạng về  
công bằng và bình đẳng dựa trên ý kiến người  
dân năm 2012”, Hà Nội, tháng 7 năm 2013.  
nó chưa phản ánh đầy đủ nội dung khái  
niệm tiếp cận pháp luật.  
và sử dụng pháp luật, nhưng chỉ trong  
phạm vi hoạt động tư pháp.  
Để có thể đưa ra được khái niệm tiếp  
cận pháp luật cần hiểu được từ “tiếp cận”  
là gì? Dưới góc độ ngôn ngữ học thì từ  
“tiếp cận” có nhiều nghĩa. Theo nghĩa  
thông thường “tiếp cận” được hiểu là tiến  
sát gần hay ở gần, kề cạnh10. Còn trong  
tiếng Anh từ “tiếp cận” được dùng trong  
“tiếp cận công lý” là từ “access” khi dịch  
ra tiếng Việt được hiểu là lối vào, cửa vào,  
đường vào hay quyền hoặc cơ hội được  
đến gần, được sử dụng hoặc lui tới viếng  
thăm (quyền xem tài liệu mật, được thăm  
tù nhân)11.  
Theo quan điểm của chúng tôi, tiếp  
cận pháp luật hay quyền tiếp cận pháp luật  
cần được hiểu: 1) Quyền của người dân  
được biết về pháp luật hay nói cách khác  
là quyền được tiếp cận thông tin pháp luật.  
Người dân được biết về quá trình xây  
dựng chính sách pháp luật, đặc biệt là  
những chính sách pháp luật liên quan đến  
quyền lợi của người dân; 2) Quyền được  
hiểu pháp luật, hiểu về các quyền của  
người dân đã được pháp luật ghi nhận; 3)  
Quyền được sử dụng, thực hiện pháp luật  
hoặc bảo vệ các quyền của mình đã được  
pháp luật quy định. Quyền gắn liền với  
trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền, cụ  
thể là trách nhiệm của Nhà nước trong  
việc bảo đảm quyền tiếp cận pháp luật của  
người dân. Trách nhiệm cụ thể của Nhà  
nước là cung cấp thông tin pháp luật cho  
người dân, phổ biến, giáo dục pháp luật  
và hỗ trợ người dân để người dân hiểu và  
bảo vệ các quyền của mình. Đối với các  
tổ chức xã hội, cá nhân đóng vai trò không  
nhỏ trong việc giúp người dân hiểu biết  
pháp luật và tư vấn, trợ giúp pháp lý để  
người dân thực hiện quyền của mình.  
Vậy tiếp cận pháp luật hay quyền  
tiếp cận pháp luật cần được hiểu như thế  
nào. Tất nhiên, chúng ta không thể dựa  
vào Từ điển được vì từ điển chỉ mang tính  
tham khảo. Tuy nhiên, khái niệm “tiếp  
cận” trong tiếp cận pháp luật không thể  
khác xa so với khái niệm “tiếp cận” nói  
chung. Khái niệm tiếp cận pháp luật cần  
được hiểu là đến với pháp luật và không  
chỉ dừng ở đó mà còn là biết, hiểu và sử  
dụng pháp luật. Cũng như tiếp cận công  
lý, người dân có quyền biết, tiếp cận  
thông tin pháp luật, có quyền được hiểu  
10  
Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại từ điển  
11 Từ điển Anh-Anh-Việt, Nxb. Từ điển bách  
tiếng Việt, Nxb. Đại học quốc gia TP. Hồ Chí  
khoa năm 2007.  
Minh, năm 2007.  
Như vậy, khái niệm và nội dung tiếp  
cận pháp luật có những điểm khác so với  
tiếp cận công lý. Tiếp cận công lý chỉ phát  
sinh và thường chỉ phát sinh khi có tranh  
chấp xảy ra, khi mà các quyền của người  
dân bị xâm phạm cần đến sự bảo vệ của  
cơ quan pháp luật. Còn tiếp cận pháp luật  
xuất hiện sớm hơn, khi người dân có nhu  
cầu tìm hiểu pháp luật, tiếp cận với thông  
tin pháp luật, có thể cả những thông tin từ  
khi bắt đầu soạn thảo chính sách pháp luật  
đến khi chúng được ban hành. Quyền tiếp  
cận pháp luật còn thể hiện ở chỗ người  
dân chủ động trong việc sử dụng, thực  
hiện các quyền của mình đã được pháp  
luật quy định mà không để đến khi các  
quyền đó bị xâm phạm. Về phía Nhà nước  
cũng có trách nhiệm sớm hơn trong việc  
tạo điều kiện, giúp người dân thực hiện  
các quyền của mình. Nhà nước có trách  
nhiệm thông tin, phổ biến pháp luật, cung  
cấp các dịch vụ hành chính, tư vấn pháp  
luật và dịch vụ pháp lý cũng như bảo đảm  
điều kiện vật chất để người dân thực hiện  
tốt các quyền của mình. Ngoài trách  
nhiệm của Nhà nước cũng cần nói đến vai  
trò của các tổ chức xã hội, cá nhân trong  
việc bảo đảm quyền tiếp cận pháp luật của  
người dân.  
17/7/2013 của Thủ tướng Chính phủ) nêu  
rõ: “Xã hội hóa công tác phổ biến, giáo  
dục pháp luật và trợ giúp pháp lý nhằm  
phát huy vai trò, trách nhiệm của xã hội  
của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân,  
trong đó Hội luật gia các cấp có vai trò  
quan trọng. Tăng cường, mở rộng các  
nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng trong  
xã hội, thu hút các tổ chức chính tri – xã  
hội, chính trị - xã hội – nghề nghiệp, xã  
hội - nghề nghiệp, doanh nghiệp, cá nhân  
thực hiện xã hội hóa công tác phổ biến,  
giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý;  
tăng cường sự phối hợp giữa các chủ thể  
này với cơ quan nhà nước nhằm nâng cao  
chất lượng, hiệu quả, tính bền vững của  
hoạt động phổ biến pháp luật và trợ giúp  
pháp lý, phục vụ tốt hơn nhu cầu của  
người dân, góp phần nâng cao hiệu quả  
quản lý nhà nước bằng pháp luật”.  
Tiếp cận pháp luật đã được đề cập  
đến trong “Quy định về chuẩn tiếp cận  
pháp luật của người dân tại cơ sở” được  
ban hành kèm theo Quyết định  
09/2013/QĐ-TTg ngày 24 tháng 01 năm  
2013 của Thủ tướng Chính phủ với mục  
đích “Đánh giá thực trạng tiếp cận pháp  
luật của người dân tại cơ sở để có giải  
pháp thúc đẩy, nâng cao trách nhiệm của  
các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc  
triển khai các thiết chế tiếp cận pháp luật,  
bảo đảm điều kiện đáp ứng nhu cầu nhận  
thức pháp luật, thực hiện, bảo vệ và phát  
Đề án “Xã hội hóa công tác phổ biến,  
giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý giai  
đoạn 2013 – 2016(Ban hành kèm theo  
Quyết định số 1133/QĐ-TTg ngày  
huy quyền và lợi ích hợp pháp của công  
dân ngay tại cơ sở; phát huy vai trò của  
pháp luật ngay tại cơ sở; phát huy vai trò  
của pháp luật trong đời sống xã hội, góp  
phần thực hiện mục tiêu Nhà nước pháp  
quyền xã hội chủ nghĩa” (Điều 3 của Quy  
định).  
cận pháp luật và nội hàm của nó. Cần cân  
nhắc về các tiêu chí tiếp cận pháp luật tại  
Điều 5 của Quy định về xây dựng xã,  
phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp  
luật ban hành kèm theo Quyết định  
619/2017/QĐ-TTg ngày 08 tháng 5 năm  
2017 của Thủ tướng Chính phủ. Thông  
qua các tiêu chí tiếp cận pháp luật có thể  
đánh giá được thực trạng tiếp cận pháp  
luật của người dân tại cơ sở. Các tiêu chí  
này cũng cần thể hiện cả trách nhiệm của  
Nhà nước cũng như vai trò của các tổ chức  
xã hội, cá nhân trong việc bảo đảm để  
người dân tiếp cận pháp luật (biết, hiểu và  
sử dụng pháp luật) nhằm thực hiện, bảo  
vệ quyền và lợi ích của họ tại cơ sở, phát  
huy vai trò của pháp luật trong đời sống  
xã hội. Ở đây cần phân biệt quyền tiếp cận  
pháp luật của người dân với trách nhiệm  
bảo đảm quyền tiếp cận của người dân,  
bởi vì quyền luôn luôn đi liền với trách  
nhiệm (nghĩa vụ). Người dân có quyền thì  
cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm bảo  
đảm cho người dân thực hiện quyền của  
mình.  
Tiếp cận pháp luật tiếp tục được quy  
định trong Quyết định 619/2017/QĐ-TTg  
ngày 08 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng  
Chính phủ ban hành kèm theo “Quy định  
về xây dựng xã, phường, thị trấn đạt  
chuẩn tiếp cận pháp luật”. Mặc dù Điều 5  
của Quy định về xây dựng xã, phường, thị  
trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật đã đưa ra  
các tiêu chí tiếp cận pháp luật12, tuy nhiên,  
các tiêu chí này chưa phản ánh được nội  
dung, nội hàm của khái niệm tiếp cận  
pháp luật. Từ nội dung của Điều 5 thì có  
thể hiểu đây là các tiêu chí về thi hành  
pháp luật của Ủy ban nhân dân xã,  
phường thị trấn.  
3. Kết luận  
Từ những phân tích ở trên, chúng tôi  
cho rằng cần hiểu đúng về khái niệm tiếp  
pháp luật; 4) Hòa giải ở cơ sở; 5) Thực hiện  
dân chủ ở cơ sở.  
12 Theo Điều 5 của Quy định, các tiêu  
chí tiếp cận pháp luật bao gồm: 1) Bảo đảm  
thi hành Hiến pháp và pháp luật; 2) Thực hiện  
thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền của Ủy  
ban nhân dân cấp xã; 3) Phổ biến, giáo dục  
pdf 8 trang Thùy Anh 5480
Bạn đang xem tài liệu "Tiếp cận công lý và tiếp cận pháp luật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftiep_can_cong_ly_va_tiep_can_phap_luat.pdf