Quy định của bộ luật hình sự về dấu hiệu định tội đối với tội nhận hối lộ

THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ  
VỀ DẤU HIỆU ĐỊNH TỘI ĐỐI VỚI TỘI NHẬN HỐI LỘ  
Đào Phương Thanh*  
* ThS. Trường Đại học Luật Hà Nội  
Thông tin bài viết:  
Tóm tắt:  
Bài viết phân tích những điểm mới trong quy định Bộ luật Hình sự năm  
2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017 (BLHS năm 2015)  
về dấu hiệu định tội của tội nhận hối lộ. Bài viết cũng chỉ ra những hạn  
chế, bất cập và đề xuất giải pháp khắc phục hạn chế, bấp cập trong quy  
định của BLHS năm 2015 về vấn đề này.  
Từ khóa: Bộ luật hình sự 2015,  
tội nhận hối lộ, người có chức  
vụ quyền hạn, hối lộ trong lĩnh  
vực tư.  
Lịch sử bài viết:  
Nhận bài  
Biên tập  
Duyệt bài  
: 16/5/2020  
: 13/6/2020  
: 18/6/2020  
Article Infomation:  
Abstract:  
This article provides an analysis of new contents in a number of the  
provisions of the Penal Code of 2015, which were amended by a number  
of articles in 2017 (the Penal Code of 2015) on the criminal signs of  
bribery receipt. The article also points out the shortcomings of the  
current regulations and proposed recommendations for the shortcomings  
of the Penal Code of 2015 related to the concerned issues.  
Keywords: The Penal Code  
of 2015, bribery receipt, person  
of powerful and high position,  
bribery in the private sector.  
Article History:  
Received  
Edited  
: 16 May 2020  
: 13 Jun 2020  
: 18 Jun 2020  
Approved  
1. Những điểm mới của Bộ luật Hình sự  
năm 2015 về dấu hiệu định tội của tội  
nhận hối lộ  
Một là, về chủ thể, nhằm đáp ứng yêu  
cầu của thực tiễn cũng như yêu cầu của  
Công ước quốc tế về chống tham nhũng,  
BLHS năm 2015 đã có những bổ sung quan  
trọng. Cụ thể, khoản 1 Điều 352 BLHS  
năm 2015 quy định “Các tội phạm về chức  
vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động  
đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người  
có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện  
công vụ, nhiệm vụ”. Với việc bổ sung dấu  
Tội nhận hối lộ được quy định tại  
Điều 354 BLHS năm 2015 có nhiều điểm  
mới về dấu hiệu định tội, về hình phạt, về  
kỹ thuật lập pháp so với quy định về tội  
nhận hối lộ trong BLHS năm 1999. Trong  
đó, các nội dung mới cơ bản về yếu tố định  
tội gồm:  
38  
Số 02(426) - T1/2021  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
hiệu thực hiện “nhiệm vụ”, quy định này đã  
mở rộng phạm vi chủ thể của tội phạm về  
chức vụ bao gồm cả những người có chức  
vụ, quyền hạn thực hiện công vụ nhà nước  
giao và những người có chức vụ, quyền  
hạn thực hiện nhiệm vụ trong các cơ quan,  
tổ chức ngoài nhà nước. Khoản 6 Điều 354  
BLHS năm 2015 cũng bổ sung quy định  
“Người có chức vụ, quyền hạn trong các  
doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà  
nhận hối lộ, thì bị xử lý theo quy định tại  
Điều này”. Theo đó, chủ thể thực hiện tội  
nhận hối lộ “không chỉ là người có chức  
vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước  
(cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp,  
lực lượng vũ trang, doanh nghiệp nhà  
nước…) mà còn có thể là người có chức  
vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức  
ngoài nhà nước”1. Bổ sung này “đã phản  
ánh được yêu cầu của thực tiễn và tương  
thích với công ước của Liên hợp quốc về  
chống tham nhũng”2.  
hoặc người có chức vụ, quyền hạn không  
nhận của hối lộ cho mình nhưng đồng ý để  
người đưa hối lộ chuyển của hối lộ cho bên  
thứ ba như người thân, tổ chức khác…. Mặt  
khác, theo quy định của Công ước quốc tế  
về chống tham nhũng, hành vi nhận hối lộ  
cũng bao gồm cả hành vi nhận lợi ích không  
chính đáng cho một người hoặc một tổ chức  
khác. Nhằm khắc phục những hạn chế này  
cũng như đáp ứng các yêu cầu của Công  
ước quốc tế về chống tham nhũng, BLHS  
năm 2015 đã mô tả hành vi nhận hối lộ là  
“lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc  
qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ  
lợi ích nào (…) cho chính bản thân người  
đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để  
làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc  
theo yêu cầu của người đưa hối lộ”. Với  
quy định này, hành vi nhận của hối lộ cho  
bên thứ ba được hưởng lợi (người hoặc tổ  
chức khác) cũng được coi là hành vi phạm  
tội nhận hối lộ.  
Hai là, quy định về bên thứ ba được  
hưởng lợi. Theo quy định về tội nhận hối  
lộ trong BLHS năm 1999, “đối tượng được  
hưởng lợi từ tiền, tài sản hoặc các lợi ích  
vật chất khác của hành vi hối lộ là chính  
bản thân người nhận hối lộ”3. Tuy nhiên,  
thực tế cho thấy, nhiều trường hợp người  
có chức vụ, quyền hạn lợi dụng “kẽ hở”  
này để che giấu hành vi phạm tội của mình  
Ba là, về của hối lộ: Theo quy định  
của Điều 279 BLHS năm 1999, của hối lộ  
được quy định bao gồm: tiền, tài sản, lợi  
ích vật chất. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy,  
rất nhiều trường hợp lợi ích mà người có  
chức vụ, quyền hạn nhận được là lợi ích phi  
vật chất như tình dục, sự ca ngợi, tôn vinh  
một cách không chính đáng4, việc làm5…  
xét về tính chất, việc người có chức vụ,  
1. TS. Nguyễn Văn Hương, Những điểm mới, những bất cập của quy định về các tội phạm tham nhũng trong  
Bộ luật Hình sự năm 2015, Tạp chí Luật học, số đặc biệt về Bộ luật Hình sự năm 2015, 2016, tr.61.  
2. TS. Đào Lệ Thu, Đánh giá tính thống nhất giữa Luật Phòng, chống tham nhũng với các Bộ luật Hình sự  
(1999 và 2015), Kỷ yếu Hội thảo “Tính thống nhất giữa Bộ luật hình sự với các luật khác trong hệ thống pháp  
luật Việt Nam”, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2016, tr.54.  
3. Nguyễn Văn Thuyết (chủ biên), Bình luận những điểm mới của Bộ luật Hình sự hiện hành, Nxb. Chính trị  
quốc gia sự thật, Hà Nội, 2018, tr.458.  
4. TS. Nguyễn Văn Hương, Những điểm mới, những bất cập của quy định về các tội phạm tham nhũng trong  
Bộ luật Hình sự năm 2015, Tạp chí Luật học, số đặc biệt về Bộ luật Hình sự năm 2015, 2016, tr.62.  
5. Nguyễn Văn Thuyết (chủ biên), Bình luận những điểm mới của Bộ luật Hình sự hiện hành, Nxb. Chính trị  
quốc gia sự thật, Hà Nội, 2018, tr.458.  
Số 02(426) - T1/2021  
39  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
quyền hạn nhận lợi ích vật chất hay phi vật  
chất từ người đưa hối lộ thì tính nguy hiểm  
của hành vi là như nhau, nhưng việc nhận  
lợi ích phi vật chất lại không được coi là  
phạm tội nhận hối lộ là điều bất hợp lý. Hơn  
nữa, theo Công ước quốc tế về chống tham  
nhũng, phạm vi của hối lộ rất rộng, bao gồm  
mọi loại tài sản, vật chất hay phi vật chất,  
động sản hay bất động sản, hữu hình hay  
trừu tượng, và các văn bản pháp lý hay giấy  
tờ chứng minh quyền sở hữu hoặc lợi ích  
đối với tài sản đó6. Để khắc phục những hạn  
chế này, khoản 1 Điều 254 BLHS năm 2015  
đã bổ sung dấu hiệu “lợi ích phi vật chất”  
vào tội danh này.  
của hai hành vi này khác nhau, tính chất và  
mức độ nguy hiểm của hành vi cũng khác  
nhau. Cụ thể, nếu như quan hệ xã hội bị  
xâm hại bởi hành vi tham nhũng trong lĩnh  
vực công nói chung và hành vi nhận hối  
lộ trong lĩnh vực công nói riêng là những  
quan hệ xã hội đảm bảo cho hoạt động  
đúng đắn, uy tín của cơ quan nhà nước,  
tổ chức công7, trật tự của nền công vụ, uy  
tín của hệ thống công quyền8, thì quan hệ  
xã hội bị xâm hại bởi hành vi tham nhũng  
trong lĩnh vực tư là “quyền lợi của người  
chủ doanh nghiệp, người sử dụng lao động,  
đến sự tín nhiệm trong quan hệ lao động ở  
khu vực tư”9. Dưới góc độ kinh tế, hành vi  
hối lộ trong lĩnh vực tư sẽ “làm tăng chi  
phí và giảm đáng kể lợi nhuận của doanh  
nghiệp, làm hình thành những thói quen  
kinh doanh thiếu lành mạnh, làm méo mó  
bản chất các quan hệ kinh tế”10. Vì vậy,  
pháp luật hình sự nhiều nước trên thế giới  
không quy định tội nhận hối lộ trong lĩnh  
vực tư trong cùng điều luật với nhận hối lộ  
trong lĩnh vực công. Ở Pháp, tội phạm hối  
lộ trong khu vực tư bị xem là những hành  
vi vi phạm sự tín nhiệm của người sử dụng  
lao động đối với người lao động11. Ở Đức,  
tội phạm hối lộ trong khu vực tư được quy  
2. Những hạn chế, bất cập trong quy  
định của BLHS năm 2015 về dấu hiệu  
định tội của tội nhận hối lộ và kiến nghị  
hoàn thiện  
Bên cạnh những điểm mới nêu trên,  
quy định của BLHS năm 2015 về dấu hiệu  
định tội của tội nhận hối lộ còn một số hạn  
chế, bất cập sau:  
Một là, quy định hành vi hối lộ trong  
lĩnh vực công và hối lộ trong lĩnh vực tư  
với cùng một tội danh, trong cùng một điều  
luật là chưa hợp lý, vì lý do sau: khách thể  
6. Điều 2 UNCAC.  
7. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập II, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,  
2013, tr.361.  
8. TS. Đào Lệ Thu, Hối lộ trong khu vực tư theo luật hình sự một số nước và đề xuất đối với việc áp dụng quy  
định về hối lộ ở khu vực ngoài nhà nước trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16/2018,  
tr.13 - 19.  
9. TS. Đào Lệ Thu, Hối lộ trong khu vực tư theo luật hình sự một số nước và đề xuất đối với việc áp dụng quy  
định về hối lộ ở khu vực ngoài nhà nước trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16/2018,  
tr.13 - 19.  
10. ThS. Lưu Thanh Hùng, Tội phạm tham nhũng trong lĩnh vực tư theo công ước UNCAC và hoàn thiện  
theo-cong-uoc-uncac-va-hoan-thien-blhs-nuoc-ta/rJ7ZSzauz.html.  
11. Xem: Bonifassi S. (2003), “Country Report of France” trong sách: G. Heine, B. Huber and T. O. Rose  
(eds), Private Commercial Bribery - A Comparison of National and Supranational Legal Structures, Freiburg  
im Breisgau: ICC The World business organization, 2003, tr.92.  
40  
Số 02(426) - T1/2021  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
định tại Chương 26 BLHS12 (Điều 299  
“Nhận và đưa hối lộ trong giao dịch kinh  
doanh” và Điều 300 “Những trường hợp  
đặc biệt nghiêm trọng của nhận và đưa hối  
lộ trong giao dịch kinh doanh và lĩnh vực  
chăm sóc sức khỏe”). Hành vi nhận để/vì  
tạo lợi thế cho người khác khi mua hàng  
hoặc dịch vụ kinh doanh trong cạnh tranh  
theo cách thức không minh bạch với mục  
đích đưa hối lộ là nhằm cạnh tranh không  
lành mạnh13. Luật Hình sự Thụy Điển14  
quy định tội phạm hối lộ trong khu vực tư  
không chỉ để bảo vệ riêng lợi ích của người  
sử dụng lao động mà còn để bảo vệ lợi ích  
chung của cộng đồng15 và một số yếu tố  
quan trọng như “sự vận hành của nền kinh  
tế thị trường” hay “sự cạnh tranh mang  
tính lành mạnh”16.  
Theo quy định của khoản 6 Điều 354  
BLHS năm 2015, chủ thể thực hiện hành  
vi nhận hối lộ trong lĩnh vực tư là người  
có chức vụ, quyền hạn trong mọi doanh  
nghiệp ngoài nhà nước, và người có chức  
vụ, quyền hạn trong mọi tổ chức ngoài nhà  
nước. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp  
luật hiện hành, chưa có một văn bản nào  
xác định những người được coi là người có  
chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp,  
tổ chức ngoài nhà nước.  
Trên diễn đàn khoa học có ý kiến cho  
rằng, người có chức vụ, quyền hạn trong  
doanh nghiệp là “người có chức danh, chức  
vụ, có thực quyền (quyền quyết định toàn  
bộ hoặc một phần công việc nhất định tại  
doanh nghiệp), bao gồm người thành lập  
doanh nghiệp; người quản lý doanh nghiệp;  
người đại diện theo pháp luật của doanh  
nghiệp và những người làm việc trong ban  
kiểm soát của doanh nghiệp”17. Ý kiến khác  
lại cho rằng, “người có chức vụ, quyền hạn  
trong doanh nghiệp phải là những người  
được doanh nghiệp (…) tín nhiệm giao  
cho một nhiệm vụ hoặc nhân danh doanh  
nghiệp (…) giải quyết một công việc thuộc  
phạm vi hoạt động của họ. Quyền hạn  
Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của  
các nước, chúng tôi cho rằng, BLHS năm  
2015 cần thiết kế hai điều khác nhau quy  
định về tội nhận hối lộ lĩnh vực công và tội  
nhận hối lộ trong lĩnh vực tư.  
Hai là, bất cập trong việc xác định  
người có chức vụ, quyền hạn trong doanh  
nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước.  
12. Bộ luật Hình sự Đức năm 1871. Bản sửa đổi, bổ sung mới nhất được sử dụng trong bài viết này xem trên  
13. TS. Đào Lệ Thu, Hối lộ trong khu vực tư theo luật hình sự một số nước và đề xuất đối với việc áp dụng quy  
định về hối lộ ở khu vực ngoài nhà nước trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16/2018,  
tr.13 - 19.  
14. BLHS Thuỵ Điển ban hành năm 1962, có hiệu lực năm 1965. Bản sửa đổi, bổ sung mới nhất được sử  
2431554b5eab03/the-swedish-criminal-code.pdf, truy cập ngày 01/12/2020.  
15. TS. Đào Lệ Thu, Hối lộ trong khu vực tư theo luật hình sự một số nước và đề xuất đối với việc áp dụng quy  
định về hối lộ ở khu vực ngoài nhà nước trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16/2018,  
tr.13 - 19.  
16. Lejonhufvud (2003), “Country Report of Sweden” trong sách: G. Heine, B. Huber and T. O. Rose (eds),  
Private Commercial Bribery - A Comparison of National and Supranational Legal Structures. Freiburg im  
Breisgau: ICC The World business organization, 2003, pp.410-411.  
17. Nguyễn Văn Thuyết (chủ biên), Bình luận những điểm mới của Bộ luật Hình sự hiện hành, Nxb. Chính trị  
quốc gia sự thật, Hà Nội, 2018, tr.450.  
Số 02(426) - T1/2021  
41  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
mà những người này có được là do được  
ủy thác, được tín nhiệm bởi doanh nghiệp  
(…) đó. Như vậy, các chủ thể này có thể là  
người điều hành, quản lý ở bất kỳ một vị  
trí nào hoặc cũng có thể là người lao động  
tuy không có chức vụ nhưng được doanh  
nghiệp (…) ngoài nhà nước giao nhiệm vụ  
và chính nhiệm vụ này làm phát sinh quyền  
của họ”18.  
nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng  
toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động  
của doanh nghiệp19. Do đó, hành vi nhận  
hối lộ của người quản lý doanh nghiệp tư  
nhân không hẳn sẽ luôn có tính nguy hiểm  
cho xã hội, xâm phạm đến quyền lợi của  
người chủ doanh nghiệp, người sử dụng  
lao động, đến sự tín nhiệm trong quan hệ  
lao động ở khu vực tư và cũng chưa hẳn sẽ  
làm tăng chi phí và giảm đáng kể lợi nhuận  
của doanh nghiệp.  
Theo quy định tại các điểm d, đ, khoản  
2 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng  
năm 2018, người có chức vụ, quyền hạn  
trong doanh nghiệp bao gồm “Người giữ  
chức danh, chức vụ quản lý trong doanh  
nghiệp, tổ chức” “Những người khác  
được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ và  
có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ,  
công vụ đó”. Luật Doanh nghiệp năm 2020  
quy định về người quản lý doanh nghiệp;  
theo đó, người quản lý doanh nghiệp là  
người quản lý doanh nghiệp tư nhân và  
người quản lý công ty, bao gồm chủ doanh  
nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ  
tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội  
đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ  
tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội  
đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám  
đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác  
theo quy định tại Điều lệ công ty. Như vậy,  
theo quy định của pháp luật hiện hành,  
phạm vi chủ thể của tội nhận hối lộ quá  
rộng và chưa thực sự hợp lý. Bởi lẽ, doanh  
nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá  
Kinh nghiệm của một số nước cho  
thấy, luật hình sự các nước này cũng quy  
định chủ thể của tội nhận hối lộ trong lĩnh  
vực tư là những người có chức vụ, quyền  
hạn trong doanh nghiệp, họ có thể là người  
quản lý doanh nghiệp nhưng có những  
loại trừ nhất định, hoặc là nhân viên bình  
thường nhưng được giao thực hiện những  
nhiệm vụ nhất định trong một số lĩnh vực.  
Ví dụ, theo quy định của BLHS Pháp,  
người nhận hối lộ là người “nắm giữ hoặc  
thực hiện, trong bối cảnh của một hoạt  
động mang tính nghề nghiệp hoặc mang  
tính xã hội, bất kỳ một vị trí quản lý hoặc  
một công việc nào cho bất kỳ một người  
nào20. “Theo quy định đó người nhận hối  
lộ trong khu vực tư chỉ có thể là “nhân  
viên” hoặc “người điều hành”. Người đại  
diện hoặc giám đốc của công ty không  
thuộc phạm vi các chủ thể này”21. Theo  
quy định của BLHS Nga, chủ thể nhận hối  
lộ là người thực hiện chức năng quản lý tổ  
18. TS. Đào Lệ Thu, Hối lộ trong khu vực tư theo luật hình sự một số nước và đề xuất đối với việc áp dụng quy  
định về hối lộ ở khu vực ngoài Nhà nước trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16/2018,  
tr.13 - 19.  
19. Khoản 1, Điều 188 Luật Doanh nghiệp năm 2020.  
20. Điều 445-2 BLHS Pháp.  
21. TS. Đào Lệ Thu, Hối lộ trong khu vực tư theo luật hình sự một số nước và đề xuất đối với việc áp dụng quy  
định về hối lộ ở khu vực ngoài nhà nước trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16/2018,  
tr.13 - 19.  
42  
Số 02(426) - T1/2021  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
chức thương mại hoặc các tổ chức khác22.  
Luật Chống tham nhũng của Liên bang Nga  
chỉ rõ những chủ thể có hành vi tham nhũng  
trong kinh doanh bao gồm: Thành viên của  
Hội đồng quản trị, thành viên của Ban giám  
đốc, người đang thực hiện một công việc  
hoặc trách nhiệm thường xuyên hoặc tạm  
thời đối với những chức năng tổ chức, kỷ  
luật, hành chính, kinh tế của tổ chức.  
Luật Phòng, chống tham nhũng24. Trong  
khi đó, xét về chức năng, BLHS có nhiệm  
vụ “phải tội phạm hóa các hành vi bị các  
luật khác xác định có thể bị truy cứu trách  
nhiệm hình sự”25. Để thực hiện nhiệm vụ  
này, BLHS “phải “theo” các luật khác  
để “phục vụ” các luật phòng, chống cũng  
như các luật chuyên ngành”26. Tức là, về  
nguyên tắc, các quy định của BLHS phải  
phù hợp với quy định tại các luật phòng,  
chống và các luật chuyên ngành khác. Nói  
cách khác, việc quy định bất kỳ bên thứ  
ba được hưởng lợi nào mà không có sự  
loại trừ để thấy được tính vụ lợi khiến cho  
phạm vi của hành vi nhận hối lộ quá rộng  
nhưng lại không hợp lý.  
Để khắc phục hạn chế nêu trên, Chúng  
tôi cho rằng, cơ quan có thẩm quyền cần  
sớm ban hành văn bản xác định cụ thể người  
có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp,  
tổ chức ngoài Nhà nước.  
Ba là, quy định của Điều 354 BLHS  
năm 2015 về bên thứ ba được hưởng lợi  
chưa thể hiện được tính vụ lợi của tội nhận  
hối lộ.  
Đối chiếu với các tội danh khác trong  
BLHS năm 2015 cho thấy, một số tội quy  
định hành vi phạm tội có sự loại trừ nhất  
định. Ví dụ: điểm a khoản 1 Điều 240 - Tội  
làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy  
hiểm cho người, quy định trường hợp loại  
trừ là, “trừ trường hợp pháp luật có quy định  
khác”; điểm a khoản 1 Điều 151 - Tội mua  
bán người dưới 16 tuổi, quy định trường  
hợp loại trừ là, “trừ trường hợp vì mục đích  
nhân đạo”…  
Điều 354 BLHS năm 2015 quy định:  
“…của hối lộ có thể cho một người khác  
hoặc tổ chức khác mà không nhất thiết  
phải cho chính người có chức vụ, quyền  
hạn. (…) Của hối lộ cũng có thể được  
người nhận sử dụng vào việc có tính chất  
chung như cho cơ sở chăm sóc người tàn  
tật hoặc trẻ em mồ côi không nơi nương  
tựa…”23. Như vậy, việc nhận một lợi ích  
cho bên thứ ba được hưởng lợi, bất kể có vì  
động cơ vụ lợi hay không, bất kể có vì mục  
đích nhân đạo hay không, đều là hành vi  
phạm tội nhận hối lộ. Quy định này không  
phù hợp với định nghĩa về tham nhũng của  
Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần sửa đổi  
Điều 354 BLHS năm 2015 theo hướng bổ  
sung một số trường hợp loại trừ nhất định  
để thấy được tính vụ lợi của hành vi nhận  
hối lộ  
22. Điều 204 BLHS Nga.  
23. GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017  
(phần các tội phạm), quyển 2, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2018, tr.616.  
24. Theo khoản 2 Điều 1 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, tham nhũng được định nghĩa là “hành vi  
của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”. Theo Từ điển tiếng Việt, Hoàng  
Phê (chủ biên), Nxb. Đà Nẵng, 2000, tr.1130, vụ lợi là “mưu cầu lợi ích cho riêng mình”.  
25. GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa và các tác giả khác, Bộ luật Hình sự năm 2015 với việc đáp ứng yêu cầu tội  
phạm hóa của các luật khác, Tạp chí Luật học, số đặc biệt về BLHS năm 2015, tr.36.  
26. GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa và các tác giả khác, Tlđd, tr.37.  
Số 02(426) - T1/2021  
43  
pdf 6 trang Thùy Anh 3340
Bạn đang xem tài liệu "Quy định của bộ luật hình sự về dấu hiệu định tội đối với tội nhận hối lộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfquy_dinh_cua_bo_luat_hinh_su_ve_dau_hieu_dinh_toi_doi_voi_to.pdf