Quy định của bộ luật hình sự về dấu hiệu định tội đối với tội nhận hối lộ
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
VỀ DẤU HIỆU ĐỊNH TỘI ĐỐI VỚI TỘI NHẬN HỐI LỘ
Đào Phương Thanh*
* ThS. Trường Đại học Luật Hà Nội
Thông tin bài viết:
Tóm tắt:
Bài viết phân tích những điểm mới trong quy định Bộ luật Hình sự năm
2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017 (BLHS năm 2015)
về dấu hiệu định tội của tội nhận hối lộ. Bài viết cũng chỉ ra những hạn
chế, bất cập và đề xuất giải pháp khắc phục hạn chế, bấp cập trong quy
định của BLHS năm 2015 về vấn đề này.
Từ khóa: Bộ luật hình sự 2015,
tội nhận hối lộ, người có chức
vụ quyền hạn, hối lộ trong lĩnh
vực tư.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài
Biên tập
Duyệt bài
: 16/5/2020
: 13/6/2020
: 18/6/2020
Article Infomation:
Abstract:
This article provides an analysis of new contents in a number of the
provisions of the Penal Code of 2015, which were amended by a number
of articles in 2017 (the Penal Code of 2015) on the criminal signs of
bribery receipt. The article also points out the shortcomings of the
current regulations and proposed recommendations for the shortcomings
of the Penal Code of 2015 related to the concerned issues.
Keywords: The Penal Code
of 2015, bribery receipt, person
of powerful and high position,
bribery in the private sector.
Article History:
Received
Edited
: 16 May 2020
: 13 Jun 2020
: 18 Jun 2020
Approved
1. Những điểm mới của Bộ luật Hình sự
năm 2015 về dấu hiệu định tội của tội
nhận hối lộ
Một là, về chủ thể, nhằm đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn cũng như yêu cầu của
Công ước quốc tế về chống tham nhũng,
BLHS năm 2015 đã có những bổ sung quan
trọng. Cụ thể, khoản 1 Điều 352 BLHS
năm 2015 quy định “Các tội phạm về chức
vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động
đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người
có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện
công vụ, nhiệm vụ”. Với việc bổ sung dấu
Tội nhận hối lộ được quy định tại
Điều 354 BLHS năm 2015 có nhiều điểm
mới về dấu hiệu định tội, về hình phạt, về
kỹ thuật lập pháp so với quy định về tội
nhận hối lộ trong BLHS năm 1999. Trong
đó, các nội dung mới cơ bản về yếu tố định
tội gồm:
38
Số 02(426) - T1/2021
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
hiệu thực hiện “nhiệm vụ”, quy định này đã
mở rộng phạm vi chủ thể của tội phạm về
chức vụ bao gồm cả những người có chức
vụ, quyền hạn thực hiện công vụ nhà nước
giao và những người có chức vụ, quyền
hạn thực hiện nhiệm vụ trong các cơ quan,
tổ chức ngoài nhà nước. Khoản 6 Điều 354
BLHS năm 2015 cũng bổ sung quy định
“Người có chức vụ, quyền hạn trong các
doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà
nhận hối lộ, thì bị xử lý theo quy định tại
Điều này”. Theo đó, chủ thể thực hiện tội
nhận hối lộ “không chỉ là người có chức
vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước
(cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp,
lực lượng vũ trang, doanh nghiệp nhà
nước…) mà còn có thể là người có chức
vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức
ngoài nhà nước”1. Bổ sung này “đã phản
ánh được yêu cầu của thực tiễn và tương
thích với công ước của Liên hợp quốc về
chống tham nhũng”2.
hoặc người có chức vụ, quyền hạn không
nhận của hối lộ cho mình nhưng đồng ý để
người đưa hối lộ chuyển của hối lộ cho bên
thứ ba như người thân, tổ chức khác…. Mặt
khác, theo quy định của Công ước quốc tế
về chống tham nhũng, hành vi nhận hối lộ
cũng bao gồm cả hành vi nhận lợi ích không
chính đáng cho một người hoặc một tổ chức
khác. Nhằm khắc phục những hạn chế này
cũng như đáp ứng các yêu cầu của Công
ước quốc tế về chống tham nhũng, BLHS
năm 2015 đã mô tả hành vi nhận hối lộ là
“lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc
qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ
lợi ích nào (…) cho chính bản thân người
đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để
làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc
theo yêu cầu của người đưa hối lộ”. Với
quy định này, hành vi nhận của hối lộ cho
bên thứ ba được hưởng lợi (người hoặc tổ
chức khác) cũng được coi là hành vi phạm
tội nhận hối lộ.
Hai là, quy định về bên thứ ba được
hưởng lợi. Theo quy định về tội nhận hối
lộ trong BLHS năm 1999, “đối tượng được
hưởng lợi từ tiền, tài sản hoặc các lợi ích
vật chất khác của hành vi hối lộ là chính
bản thân người nhận hối lộ”3. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy, nhiều trường hợp người
có chức vụ, quyền hạn lợi dụng “kẽ hở”
này để che giấu hành vi phạm tội của mình
Ba là, về của hối lộ: Theo quy định
của Điều 279 BLHS năm 1999, của hối lộ
được quy định bao gồm: tiền, tài sản, lợi
ích vật chất. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy,
rất nhiều trường hợp lợi ích mà người có
chức vụ, quyền hạn nhận được là lợi ích phi
vật chất như tình dục, sự ca ngợi, tôn vinh
một cách không chính đáng4, việc làm5…
xét về tính chất, việc người có chức vụ,
1. TS. Nguyễn Văn Hương, Những điểm mới, những bất cập của quy định về các tội phạm tham nhũng trong
Bộ luật Hình sự năm 2015, Tạp chí Luật học, số đặc biệt về Bộ luật Hình sự năm 2015, 2016, tr.61.
2. TS. Đào Lệ Thu, Đánh giá tính thống nhất giữa Luật Phòng, chống tham nhũng với các Bộ luật Hình sự
(1999 và 2015), Kỷ yếu Hội thảo “Tính thống nhất giữa Bộ luật hình sự với các luật khác trong hệ thống pháp
luật Việt Nam”, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2016, tr.54.
3. Nguyễn Văn Thuyết (chủ biên), Bình luận những điểm mới của Bộ luật Hình sự hiện hành, Nxb. Chính trị
quốc gia sự thật, Hà Nội, 2018, tr.458.
4. TS. Nguyễn Văn Hương, Những điểm mới, những bất cập của quy định về các tội phạm tham nhũng trong
Bộ luật Hình sự năm 2015, Tạp chí Luật học, số đặc biệt về Bộ luật Hình sự năm 2015, 2016, tr.62.
5. Nguyễn Văn Thuyết (chủ biên), Bình luận những điểm mới của Bộ luật Hình sự hiện hành, Nxb. Chính trị
quốc gia sự thật, Hà Nội, 2018, tr.458.
Số 02(426) - T1/2021
39
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
quyền hạn nhận lợi ích vật chất hay phi vật
chất từ người đưa hối lộ thì tính nguy hiểm
của hành vi là như nhau, nhưng việc nhận
lợi ích phi vật chất lại không được coi là
phạm tội nhận hối lộ là điều bất hợp lý. Hơn
nữa, theo Công ước quốc tế về chống tham
nhũng, phạm vi của hối lộ rất rộng, bao gồm
mọi loại tài sản, vật chất hay phi vật chất,
động sản hay bất động sản, hữu hình hay
trừu tượng, và các văn bản pháp lý hay giấy
tờ chứng minh quyền sở hữu hoặc lợi ích
đối với tài sản đó6. Để khắc phục những hạn
chế này, khoản 1 Điều 254 BLHS năm 2015
đã bổ sung dấu hiệu “lợi ích phi vật chất”
vào tội danh này.
của hai hành vi này khác nhau, tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi cũng khác
nhau. Cụ thể, nếu như quan hệ xã hội bị
xâm hại bởi hành vi tham nhũng trong lĩnh
vực công nói chung và hành vi nhận hối
lộ trong lĩnh vực công nói riêng là những
quan hệ xã hội đảm bảo cho hoạt động
đúng đắn, uy tín của cơ quan nhà nước,
tổ chức công7, trật tự của nền công vụ, uy
tín của hệ thống công quyền8, thì quan hệ
xã hội bị xâm hại bởi hành vi tham nhũng
trong lĩnh vực tư là “quyền lợi của người
chủ doanh nghiệp, người sử dụng lao động,
đến sự tín nhiệm trong quan hệ lao động ở
khu vực tư”9. Dưới góc độ kinh tế, hành vi
hối lộ trong lĩnh vực tư sẽ “làm tăng chi
phí và giảm đáng kể lợi nhuận của doanh
nghiệp, làm hình thành những thói quen
kinh doanh thiếu lành mạnh, làm méo mó
bản chất các quan hệ kinh tế”10. Vì vậy,
pháp luật hình sự nhiều nước trên thế giới
không quy định tội nhận hối lộ trong lĩnh
vực tư trong cùng điều luật với nhận hối lộ
trong lĩnh vực công. Ở Pháp, tội phạm hối
lộ trong khu vực tư bị xem là những hành
vi vi phạm sự tín nhiệm của người sử dụng
lao động đối với người lao động11. Ở Đức,
tội phạm hối lộ trong khu vực tư được quy
2. Những hạn chế, bất cập trong quy
định của BLHS năm 2015 về dấu hiệu
định tội của tội nhận hối lộ và kiến nghị
hoàn thiện
Bên cạnh những điểm mới nêu trên,
quy định của BLHS năm 2015 về dấu hiệu
định tội của tội nhận hối lộ còn một số hạn
chế, bất cập sau:
Một là, quy định hành vi hối lộ trong
lĩnh vực công và hối lộ trong lĩnh vực tư
với cùng một tội danh, trong cùng một điều
luật là chưa hợp lý, vì lý do sau: khách thể
6. Điều 2 UNCAC.
7. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập II, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2013, tr.361.
8. TS. Đào Lệ Thu, Hối lộ trong khu vực tư theo luật hình sự một số nước và đề xuất đối với việc áp dụng quy
định về hối lộ ở khu vực ngoài nhà nước trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16/2018,
tr.13 - 19.
9. TS. Đào Lệ Thu, Hối lộ trong khu vực tư theo luật hình sự một số nước và đề xuất đối với việc áp dụng quy
định về hối lộ ở khu vực ngoài nhà nước trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16/2018,
tr.13 - 19.
10. ThS. Lưu Thanh Hùng, Tội phạm tham nhũng trong lĩnh vực tư theo công ước UNCAC và hoàn thiện
BLHS nước ta, xem http://tapchitoaan.vn/bai-viet/van-de-thoi-su/toi-pham-tham-nhung-trong-linh-vuc-tu-
theo-cong-uoc-uncac-va-hoan-thien-blhs-nuoc-ta/rJ7ZSzauz.html.
11. Xem: Bonifassi S. (2003), “Country Report of France” trong sách: G. Heine, B. Huber and T. O. Rose
(eds), Private Commercial Bribery - A Comparison of National and Supranational Legal Structures, Freiburg
im Breisgau: ICC The World business organization, 2003, tr.92.
40
Số 02(426) - T1/2021
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
định tại Chương 26 BLHS12 (Điều 299
“Nhận và đưa hối lộ trong giao dịch kinh
doanh” và Điều 300 “Những trường hợp
đặc biệt nghiêm trọng của nhận và đưa hối
lộ trong giao dịch kinh doanh và lĩnh vực
chăm sóc sức khỏe”). Hành vi nhận để/vì
tạo lợi thế cho người khác khi mua hàng
hoặc dịch vụ kinh doanh trong cạnh tranh
theo cách thức không minh bạch với mục
đích đưa hối lộ là nhằm cạnh tranh không
lành mạnh13. Luật Hình sự Thụy Điển14
quy định tội phạm hối lộ trong khu vực tư
không chỉ để bảo vệ riêng lợi ích của người
sử dụng lao động mà còn để bảo vệ lợi ích
chung của cộng đồng15 và một số yếu tố
quan trọng như “sự vận hành của nền kinh
tế thị trường” hay “sự cạnh tranh mang
tính lành mạnh”16.
Theo quy định của khoản 6 Điều 354
BLHS năm 2015, chủ thể thực hiện hành
vi nhận hối lộ trong lĩnh vực tư là người
có chức vụ, quyền hạn trong mọi doanh
nghiệp ngoài nhà nước, và người có chức
vụ, quyền hạn trong mọi tổ chức ngoài nhà
nước. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp
luật hiện hành, chưa có một văn bản nào
xác định những người được coi là người có
chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp,
tổ chức ngoài nhà nước.
Trên diễn đàn khoa học có ý kiến cho
rằng, người có chức vụ, quyền hạn trong
doanh nghiệp là “người có chức danh, chức
vụ, có thực quyền (quyền quyết định toàn
bộ hoặc một phần công việc nhất định tại
doanh nghiệp), bao gồm người thành lập
doanh nghiệp; người quản lý doanh nghiệp;
người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp và những người làm việc trong ban
kiểm soát của doanh nghiệp”17. Ý kiến khác
lại cho rằng, “người có chức vụ, quyền hạn
trong doanh nghiệp phải là những người
được doanh nghiệp (…) tín nhiệm giao
cho một nhiệm vụ hoặc nhân danh doanh
nghiệp (…) giải quyết một công việc thuộc
phạm vi hoạt động của họ. Quyền hạn
Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của
các nước, chúng tôi cho rằng, BLHS năm
2015 cần thiết kế hai điều khác nhau quy
định về tội nhận hối lộ lĩnh vực công và tội
nhận hối lộ trong lĩnh vực tư.
Hai là, bất cập trong việc xác định
người có chức vụ, quyền hạn trong doanh
nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước.
12. Bộ luật Hình sự Đức năm 1871. Bản sửa đổi, bổ sung mới nhất được sử dụng trong bài viết này xem trên
13. TS. Đào Lệ Thu, Hối lộ trong khu vực tư theo luật hình sự một số nước và đề xuất đối với việc áp dụng quy
định về hối lộ ở khu vực ngoài nhà nước trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16/2018,
tr.13 - 19.
14. BLHS Thuỵ Điển ban hành năm 1962, có hiệu lực năm 1965. Bản sửa đổi, bổ sung mới nhất được sử
2431554b5eab03/the-swedish-criminal-code.pdf, truy cập ngày 01/12/2020.
15. TS. Đào Lệ Thu, Hối lộ trong khu vực tư theo luật hình sự một số nước và đề xuất đối với việc áp dụng quy
định về hối lộ ở khu vực ngoài nhà nước trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16/2018,
tr.13 - 19.
16. Lejonhufvud (2003), “Country Report of Sweden” trong sách: G. Heine, B. Huber and T. O. Rose (eds),
Private Commercial Bribery - A Comparison of National and Supranational Legal Structures. Freiburg im
Breisgau: ICC The World business organization, 2003, pp.410-411.
17. Nguyễn Văn Thuyết (chủ biên), Bình luận những điểm mới của Bộ luật Hình sự hiện hành, Nxb. Chính trị
quốc gia sự thật, Hà Nội, 2018, tr.450.
Số 02(426) - T1/2021
41
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
mà những người này có được là do được
ủy thác, được tín nhiệm bởi doanh nghiệp
(…) đó. Như vậy, các chủ thể này có thể là
người điều hành, quản lý ở bất kỳ một vị
trí nào hoặc cũng có thể là người lao động
tuy không có chức vụ nhưng được doanh
nghiệp (…) ngoài nhà nước giao nhiệm vụ
và chính nhiệm vụ này làm phát sinh quyền
của họ”18.
nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động
của doanh nghiệp19. Do đó, hành vi nhận
hối lộ của người quản lý doanh nghiệp tư
nhân không hẳn sẽ luôn có tính nguy hiểm
cho xã hội, xâm phạm đến quyền lợi của
người chủ doanh nghiệp, người sử dụng
lao động, đến sự tín nhiệm trong quan hệ
lao động ở khu vực tư và cũng chưa hẳn sẽ
làm tăng chi phí và giảm đáng kể lợi nhuận
của doanh nghiệp.
Theo quy định tại các điểm d, đ, khoản
2 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng
năm 2018, người có chức vụ, quyền hạn
trong doanh nghiệp bao gồm “Người giữ
chức danh, chức vụ quản lý trong doanh
nghiệp, tổ chức” và “Những người khác
được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ và
có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ,
công vụ đó”. Luật Doanh nghiệp năm 2020
quy định về người quản lý doanh nghiệp;
theo đó, người quản lý doanh nghiệp là
người quản lý doanh nghiệp tư nhân và
người quản lý công ty, bao gồm chủ doanh
nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ
tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội
đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ
tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội
đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác
theo quy định tại Điều lệ công ty. Như vậy,
theo quy định của pháp luật hiện hành,
phạm vi chủ thể của tội nhận hối lộ quá
rộng và chưa thực sự hợp lý. Bởi lẽ, doanh
nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá
Kinh nghiệm của một số nước cho
thấy, luật hình sự các nước này cũng quy
định chủ thể của tội nhận hối lộ trong lĩnh
vực tư là những người có chức vụ, quyền
hạn trong doanh nghiệp, họ có thể là người
quản lý doanh nghiệp nhưng có những
loại trừ nhất định, hoặc là nhân viên bình
thường nhưng được giao thực hiện những
nhiệm vụ nhất định trong một số lĩnh vực.
Ví dụ, theo quy định của BLHS Pháp,
người nhận hối lộ là người “nắm giữ hoặc
thực hiện, trong bối cảnh của một hoạt
động mang tính nghề nghiệp hoặc mang
tính xã hội, bất kỳ một vị trí quản lý hoặc
một công việc nào cho bất kỳ một người
nào20. “Theo quy định đó người nhận hối
lộ trong khu vực tư chỉ có thể là “nhân
viên” hoặc “người điều hành”. Người đại
diện hoặc giám đốc của công ty không
thuộc phạm vi các chủ thể này”21. Theo
quy định của BLHS Nga, chủ thể nhận hối
lộ là người thực hiện chức năng quản lý tổ
18. TS. Đào Lệ Thu, Hối lộ trong khu vực tư theo luật hình sự một số nước và đề xuất đối với việc áp dụng quy
định về hối lộ ở khu vực ngoài Nhà nước trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16/2018,
tr.13 - 19.
19. Khoản 1, Điều 188 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
20. Điều 445-2 BLHS Pháp.
21. TS. Đào Lệ Thu, Hối lộ trong khu vực tư theo luật hình sự một số nước và đề xuất đối với việc áp dụng quy
định về hối lộ ở khu vực ngoài nhà nước trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16/2018,
tr.13 - 19.
42
Số 02(426) - T1/2021
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
chức thương mại hoặc các tổ chức khác22.
Luật Chống tham nhũng của Liên bang Nga
chỉ rõ những chủ thể có hành vi tham nhũng
trong kinh doanh bao gồm: Thành viên của
Hội đồng quản trị, thành viên của Ban giám
đốc, người đang thực hiện một công việc
hoặc trách nhiệm thường xuyên hoặc tạm
thời đối với những chức năng tổ chức, kỷ
luật, hành chính, kinh tế của tổ chức.
Luật Phòng, chống tham nhũng24. Trong
khi đó, xét về chức năng, BLHS có nhiệm
vụ “phải tội phạm hóa các hành vi bị các
luật khác xác định có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự”25. Để thực hiện nhiệm vụ
này, BLHS “phải “theo” các luật khác
để “phục vụ” các luật phòng, chống cũng
như các luật chuyên ngành”26. Tức là, về
nguyên tắc, các quy định của BLHS phải
phù hợp với quy định tại các luật phòng,
chống và các luật chuyên ngành khác. Nói
cách khác, việc quy định bất kỳ bên thứ
ba được hưởng lợi nào mà không có sự
loại trừ để thấy được tính vụ lợi khiến cho
phạm vi của hành vi nhận hối lộ quá rộng
nhưng lại không hợp lý.
Để khắc phục hạn chế nêu trên, Chúng
tôi cho rằng, cơ quan có thẩm quyền cần
sớm ban hành văn bản xác định cụ thể người
có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp,
tổ chức ngoài Nhà nước.
Ba là, quy định của Điều 354 BLHS
năm 2015 về bên thứ ba được hưởng lợi
chưa thể hiện được tính vụ lợi của tội nhận
hối lộ.
Đối chiếu với các tội danh khác trong
BLHS năm 2015 cho thấy, một số tội quy
định hành vi phạm tội có sự loại trừ nhất
định. Ví dụ: điểm a khoản 1 Điều 240 - Tội
làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy
hiểm cho người, quy định trường hợp loại
trừ là, “trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác”; điểm a khoản 1 Điều 151 - Tội mua
bán người dưới 16 tuổi, quy định trường
hợp loại trừ là, “trừ trường hợp vì mục đích
nhân đạo”…
Điều 354 BLHS năm 2015 quy định:
“…của hối lộ có thể cho một người khác
hoặc tổ chức khác mà không nhất thiết
phải cho chính người có chức vụ, quyền
hạn. (…) Của hối lộ cũng có thể được
người nhận sử dụng vào việc có tính chất
chung như cho cơ sở chăm sóc người tàn
tật hoặc trẻ em mồ côi không nơi nương
tựa…”23. Như vậy, việc nhận một lợi ích
cho bên thứ ba được hưởng lợi, bất kể có vì
động cơ vụ lợi hay không, bất kể có vì mục
đích nhân đạo hay không, đều là hành vi
phạm tội nhận hối lộ. Quy định này không
phù hợp với định nghĩa về tham nhũng của
Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần sửa đổi
Điều 354 BLHS năm 2015 theo hướng bổ
sung một số trường hợp loại trừ nhất định
để thấy được tính vụ lợi của hành vi nhận
hối lộ
22. Điều 204 BLHS Nga.
23. GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017
(phần các tội phạm), quyển 2, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2018, tr.616.
24. Theo khoản 2 Điều 1 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, tham nhũng được định nghĩa là “hành vi
của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”. Theo Từ điển tiếng Việt, Hoàng
Phê (chủ biên), Nxb. Đà Nẵng, 2000, tr.1130, vụ lợi là “mưu cầu lợi ích cho riêng mình”.
25. GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa và các tác giả khác, Bộ luật Hình sự năm 2015 với việc đáp ứng yêu cầu tội
phạm hóa của các luật khác, Tạp chí Luật học, số đặc biệt về BLHS năm 2015, tr.36.
26. GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa và các tác giả khác, Tlđd, tr.37.
Số 02(426) - T1/2021
43
Bạn đang xem tài liệu "Quy định của bộ luật hình sự về dấu hiệu định tội đối với tội nhận hối lộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
quy_dinh_cua_bo_luat_hinh_su_ve_dau_hieu_dinh_toi_doi_voi_to.pdf