Ngành nghiên cứu văn hóa (cultural studies) lược sử hình thành và cách tiếp cận

LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VĂN HÓA  
NGÀNH NGHIÊN CỨU VĂN HÓA  
(CULTURAL STUDIES)  
LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ CÁCH TIẾP CẬN  
PHẠM QUỲNH PHƯƠNG  
Tóm tắt  
Nếu như ở Việt Nam, tên gọi Văn hóa học đã trở nên quen thuộc, thì ngành Nghiên cứu văn hóa  
(Cultural Studies) của phương Tây vẫn còn ít được biết đến. Bài viết này khái lược sự hình thành của  
ngành Nghiên cứu văn hóa từ những khởi đầu trong giới học thuật Anh và sau đó được lan truyền,  
phát triển và biến đổi khắp nơi trên thế giới. Là một lĩnh vực liên ngành, Cultural Studies dựa trên nhiều  
lý thuyết và phương pháp của các ngành khác, nhưng được làm mới với sự quan tâm đặc biệt đến khía  
cạnh quyền lực, diễn ngôn, hệ tư tưởng và chính trị của văn hóa  
Từ khóa: Nghiên cứu Văn hóa, hình thái, tiếp cận  
Abstract  
In Vietnam, Culturology has been familiar while Cultural Studies in the West has hardly been known.  
This paper features the development of Cultural Studies from the beginning with British academia  
and its spread and changes later to other parts of the world. Based on theories and methods of other  
disciplines, Cultural Studies is interdisplinary with focus on dimensions of power, discourse, ideology  
and politics of culture  
Keyword: Cultural studies, types, approach  
ăn hóa là chủ đề thu hút được sự  
quan tâm đặc biệt của nhiều ngành  
nghiên cứu như nhân học, lịch sử,  
học về văn hóa thường được quan niệm đồng  
nhất, nhưng trên thực tế, cách tiếp cận của hai  
ngành này không hoàn toàn giống nhau. Văn  
hóa học (Culturology) được sử dụng ở nước ta  
xuất phát từ tuyến học thuật của nước Nga Xô  
Viết, còn Nghiên cứu Văn hóa (Cultural Studies)  
lại là sản phẩm của khuynh hướng nghiên cứu  
của các nước Âu - Mỹ. Theo sự tổng hợp của  
Nguyễn Xuân Kính (12), giới nghiên cứu của  
Nga có nhiều định nghĩa về văn hóa học. Ví  
dụ, trong cuốn sách Văn hoá học, những bài  
giảng do A.A. Radughin chủ biên, xuất bản  
V
xã hội học, địa lý nhân văn, văn học v.v.. và  
mỗi ngành khai thác văn hóa theo một khía  
cạnh khác nhau. Tuy nhiên, trong vài thập kỷ  
qua, thế giới đã hình thành thêm một ngành  
nghiên cứu mang tính liên ngành, vượt qua  
những ranh giới chuyên biệt về văn hóa -  
ngành Nghiên cứu Văn hóa (Cultural Studies).  
Các thuật ngữ “Nghiên cứu văn hóa” và  
“Văn hóa học” – với tư cách như một khoa  
NGHIÊN CỨU  
Số 6 - Tháng 12 - 2013  
85  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
năm 1997 (13), X.N. Giarov cho rằng: “Văn hoá  
học là ngành khoa học nhân văn nghiên cứu  
bản chất, những quy luật tồn tại và phát triển  
của văn hoá, nghiên cứu ý nghĩa nhân bản của  
văn hoá và những phương pháp tìm hiểu văn  
hoá. Còn A.A. Belik (3) xác định Văn hoá học  
có hai nghĩa: 1) Khoa học về những đặc điểm  
của sự phát triển, hoạt động và sản xuất các  
văn hoá, về các kiểu thức lịch sử của các văn  
hoá và các phương pháp nghiên cứu chúng;  
2) Lý thuyết văn hoá của L. White, một trong  
những phương thức nhận thức tính đa dạng  
văn hoá của loài người. Cũng như nhiều nhà  
nghiên cứu Việt Nam, Trần Ngọc Thêm khẳng  
định: Với tư cách là một khoa học lý luận, văn  
hóa học có nhiệm vụ nghiên cứu văn hóa như  
một đối tượng riêng biệt trên cơ sở những tư  
liệu do các ngành khác cung cấp với mục đích  
phát hiện các đặc trưng, những qui luật hình  
thành và phát triển”(15,tr.49). Nhưng nội hàm  
củaCultural Studiescủa giới học thuật Âu Mỹ  
có những điểm khác. Theo McGuigan, Cultural  
Studies có ba khía cạnh: Thứ nhất, đó là sự tập  
hợp (hay một phong trào/làn sóng) của các ý  
tưởng mới mẻ trong lĩnh vực văn hóa. Thứ hai,  
đó là một dạng thiết chế, liên quan đến các  
bối cảnh lịch sử, sự hình thành và biến đổi của  
một ngành nghiên cứu. Thứ ba, thuật ngữ này  
mang hàm ý về tính chính trị của sự biểu đạt.  
Nói cách khác, Cultural Studies tìm hiểu cơ chế  
bao hàm và loại trừ, ai có quyền xác định các  
vấn đề và với mục đích gì (10, tr.29). Theo Berry  
và Epstein (5), một trong những điểm khác  
nhau cơ bản giữa Văn hóa học (Culturology)  
và Nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies) là sự  
quan tâm đặc biệt của ngành Nghiên cứu văn  
hóa đối với chính trị, quyền lực, hệ tư tưởng và  
truyền thông, trong khi Văn hóa học xác định  
văn hóa với tư cách là một tổng thể, thống  
nhất hữu cơ, không phụ thuộc vào tự nhiên  
và các mối quan hệ quyền lực. Theo các tác  
giả, văn hóa trong Cultural Studies luôn luôn  
thực hiện hai chức năng, vừa là đối tượng của  
nghiên cứu, vừa là nơi định vị của hoạt động và  
phê bình chính trị.  
Vậy sự hình thành cũng như cách tiếp cận  
và phương pháp của ngành Nghiên cứu văn  
hóa có gì đặc biệt so với các ngành khoa học  
xã hội và nhân văn? Bài viết này nhằm mục  
đích giới thiệu khái quát lịch sử hình thành  
ngành Nghiên cứu văn hóa ở phương Tây,  
cũng như những nét đặc trưng nhất của một  
ngành mới ra đời trong khoảng vài thập kỷ  
qua. Để làm rõ sự khác biệt với thuật ngữ Văn  
hóa học, tránh sự nhầm lẫn về nội hàm thuật  
ngữ cũng như phương pháp tiếp cận, trong  
bài viết này chúng tôi dùng “Nghiên cứu văn  
hóakhi nói đến ngành Cultural Studies có nền  
tảng từ các nước Âu-Mỹ. Cũng để phân biệt với  
việc nghiên cứu văn hóa như một thực hành,  
ngành Nghiên cứu văn hóa sẽ được viết hoa.  
Lược sử hình thành ngành Nghiên cứu văn  
hóa (Cultural Studies)  
Cultural Studies là một lĩnh vực được khởi  
đầu trong giới học thuật Anh từ những năm  
sáu mươi của thế kỷ XX. Ngay từ đầu, nó đã là  
một lĩnh vực đa ngành/liên ngành, vượt qua  
những ranh giới chuyên biệt của các chuyên  
ngành có đối tượng nghiên cứu là văn hóa.  
Cũng có thể coi nó là một sự thử nghiệm  
học thuật đầu tiên trong một nỗ lực tạo ra  
một chuyên ngành không có chuyên ngành  
(‘non-disciplinary’ discipline), hay “hậu chuyên  
ngành(postdisciplinarity) (2).  
Sự hình thành của ngành gắn liền với trào  
lưu quan tâm đặc biệt đến văn hóa phổ thông  
(popular culture) ở các xã hội phương Tây vào  
thời điểm đó. Theo Rosaldo (14), có thể truy  
gốc của ngành Nghiên cứu văn hóa từ 2 hệ  
“gia phả. Gia phả đầu tiên liên quan đến một  
nhóm người trong các trường đại học (chủ  
yếu từ trường luật, nhân văn, văn học và nhân  
học) cùng tham gia vào đọc và thảo luận sách  
(Reading Group), cũng như cùng tranh luận  
về một số vấn đề liên quan đến văn học giả  
86 Số 6 - Tháng 12 - 2013  
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VĂN HÓA  
tưởng, văn hóa đại chúng, lý thuyết xã hội,  
kinh tế chính trị... Tuy nhiên, sự hoạt động của  
nhóm cũng chỉ dừng lại trong việc thảo luận  
học thuật và chưa tạo thành một thiết chế  
riêng.  
thành tầng lớp lao động Anh của Thompson  
gây được tiếng vang lớn, là công trình nghiên  
cứu về lịch sử của giai cấp công nhân vào cuối  
thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX với cái nhìn “lịch sử  
từ bên dưới” (history from below). Tác phẩm đã  
thách thức cách diễn giải Mác-xít truyền thống  
về lịch sử của chủ nghĩa tư bản khi đưa ra một  
cái nhìn khác về giai cấp công nhân, những  
người thực ra có năng lực chủ thể/tự quyết  
(agency) và có sức mạnh/quyền lực trong việc  
tạo lập nên chính giai cấp của họ. Nói cách  
khác, tác phẩm đã cung cấp những cách hiểu  
mới về giai cấp và quyền lực, không phải như  
những mối quan hệ kinh tế, mà là những mối  
quan hệ xã hội và văn hóa.  
Gia phả thứ 2 của ngành Nghiên cứu văn  
hóa được chuẩn hóa hơn và cũng là nền tảng  
cho sự phát triển của ngành. Nó khởi đầu với  
một số tên tuổi như Edward Thompson (1924-  
1992), Raymond Williams (1921-1988), Richard  
Hoggart (1919), và đặc biệt là với Stuart Hall  
(1932) và hoạt động của Trung tâm Nghiên  
cứu văn hóa đương đại (CCCS) ở Trường Đại  
học Birmingham (Anh). Họ được coi là những  
người đã định hướng cho sự xuất hiện của  
ngành Nghiên cứu văn hóa, xác định mục tiêu  
và chương trình nghị sự cho ngành. Richard  
Hoggart là một trong những học giả Anh đầu  
tiên phát triển cách tiếp cận tổng thể liên  
ngành trong nghiên cứu văn hóa, tìm hiểu văn  
hóa của giai cấp công nhân thông qua việc  
phân tích các tạp chí, truyện viễn tưởng, âm  
nhạc, quan sát nơi họ thường tụ họp, kết hợp  
giữa phân tích những trải nghiệm cá nhân với  
điều tra dân tộc chí và phân tích văn hóa. Là  
một nhà phê bình văn học và phân tích văn  
hóa, Raymond Williams lại quan tâm nhiều  
đến “văn hóa đời thường. Ông có vai trò lớn  
đối với sự phát triển ban đầu những ý tưởng  
của ngành Nghiên cứu văn hóa, và vì thế được  
coi như một trong những người sáng lập của  
ngành. Tác phẩm có ảnh hưởng của Williams,  
có thể kể đến hai cuốn sách: Văn hóa và Xã  
hội (Culture and Society) xuất bản năm 1963,  
nhấn mạnh đến bản chất hình thành của văn  
hóa như là một sự đáp trả sự phát triển của  
chủ nghĩa công nghiệp; và Cách mạng trường  
kỳ (The Long Revolution) xuất bản năm 1965,  
nhấn mạnh đến tiềm năng dân chủ của cuộc  
cách mạng lâu dài trong văn hóa. Edward  
Thompson là nhà lịch sử và hoạt động chính trị  
Mác-xít người Anh, có ảnh hưởng lớn đến một  
thế hệ các nhà lịch sử xã hội. Tác phẩm Sự hình  
Tuy vậy, ngành Nghiên cứu văn hóa chỉ đặc  
biệt được định hướng rõ nét với Stuart Hall và  
hoạt động của Trung tâm Nghiên cứu văn hóa  
đương đại (CCCS) Trường Đại học Birmingham  
(Anh). Trở thành giám đốc điều hành của trung  
tâm này vào năm 1968, Stuart Hall có ảnh  
hưởng lớn tới xu hướng nghiên cứu của trung  
tâm cũng như đặt những cơ sở lý thuyết cho  
ngành Nghiên cứu văn hóa. Dưới thời lãnh  
đạo của Stuart Hall, Trung tâm Nghiên cứu văn  
hóa đương đại hoạt động rất hiệu quả và năng  
động. Các nhà nghiên cứu của trung tâm sau  
này đều trở thành những chuyên gia trong  
lĩnh vực nghiên cứu văn hóa. Với quan điểm  
Mác-xít trong cách tiếp cận về hệ tư tưởng,  
bản sắc, văn hóa và chính trị, Stuart Hall và  
các cộng sự đã đóng góp vào việc tạo dựng  
nên một cách tiếp cận mới. Những quan điểm  
mang tính lý thuyết của Stuart Hall được ứng  
dụng rộng rãi trong ngành nghệ thuật, chính  
trị và truyền thông, và là nền tảng của ngành  
Nghiên cứu văn hóa theo trường phái Âu - Mỹ.  
Ngoài những nhà sáng lập, ngành Cultural  
Studies được xây dựng trên cơ sở lý thuyết của  
rất nhiều các nhà tư tưởng khác, những người  
không hoàn toàn thừa nhận họ thuộc về một  
ngành đã vượt ra khỏi biên giới chuyên biệt  
của một chuyên ngành truyền thống. Trong  
NGHIÊN CỨU  
Số 6 - Tháng 12 - 2013  
87  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
khi một số tác giả như Tony Bennett, Lawrence  
Grossberg, Stuart Hall, Meaghan Morris…  
tuyên bố những nghiên cứu của họ theo  
hướngNghiên cứu văn hóa’thì khá nhiều nhà  
lý thuyết có tên tuổi khác như Jacques Derrida,  
Michel Foucault, Roland Barthes, Pierre  
Bourdieu, Anthony Giddens... không thừa nhận  
điều đó, mặc dù quan điểm lý thuyết của họ có  
tác động lớn đối với sự hình thành nền tảng lý  
thuyết của ngành Nghiên cứu văn hóa (2).  
và “Vượt qua chuyên ngành: Cultural Studies  
trong những năm 1990” tại Đại học Oklahoma  
(tháng 10/1990)... Cultural Studies trở thành  
nền tảng lý luận cho ngành phê bình ở Anh, có  
ứng dụng rộng rãi từ điện ảnh cho đến truyền  
thông, từ Anh đã lan rộng sang Mỹ, châu Âu,  
Úc, New Zealand, Nhật, Hàn Quốc, Singapore,  
Hồng Kông, Đài Loan… Một loạt các nghiên  
cứu, xuất bản phẩm, trung tâm nghiên cứu,  
các khoa và viện được hình thành dưới cái  
tên “Nghiên cứu văn hóa” (Cultural Studies).  
Nhiều tạp chí ra đời có liên quan đến ngành,  
ví dụ như các tờ Australian Journal of Cultural  
Studies, Cultural studies, International Journal  
of Cultural Studies, Ecumene, Gender, Place and  
Culture; Media, Culture and Society; Theory,  
Culture and Society, New Formations, Sign…  
Từ Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa đương đại  
ở Anh, Nghiên cứu văn hóa dần mở rộng nền  
tảng học thuật và không gian địa lý. Điều cần  
chú ý là cũng như tính chất liên ngành/hậu  
ngành của nó, có khá nhiều “phiên bản” của  
Nghiên cứu văn hóa, ở nhiều nước khác nhau,  
như Anh, Mỹ, lục địa châu Âu (Pháp), Úc, châu  
Á, Phi và châu Mỹ. Tuy nhiên, “phiên bản” được  
biết đến nhiều nhất, và cũng gây ảnh hưởng  
nhất là Cultural Studies của phương Tây, với  
việc đặt ngôn ngữ là trọng tâm của nghiên cứu.  
Mặt khác, cũng bởi tính chất liên ngành hay  
hậu chuyên ngành nên sự ra đời và tồn tại của  
ngành Nghiên cứu văn hóa đã gây ra nhiều  
tranh cãi xoay quanh đặc thù của ngành với  
tư cách một ngành độc lập. Vào những năm  
1980, với sự nổi lên của chủ nghĩa Tự do Mới ở  
Anh và chủ nghĩa Bảo thủ ở Mỹ, do mối liên hệ  
chặt chẽ giữa các học giả của nó với lý thuyết  
Mác-xít và chính trị cánh tả nên Nghiên cứu  
văn hóa đã gặp phải sự phê phán từ cả trong  
và ngoài giới học thuật. Đỉnh cao là việc năm  
2002, Trung tâm Nghiên cứu văn hóa đương  
đại (CCCS) ở Đại học Birmingham bị giải thể.  
Cách tiếp cận của ngành Nghiên cứu văn hóa  
Như đã trình bày ở trên, xuất hiện tương  
đối muộn so với các chuyên ngành học thuật  
khác, Cultural Studies là một lĩnh vực hoạt động  
học thuật liên ngành, được nảy sinh và phát  
triển từ trong chính sự tương tác và hợp tác  
giữa các ngành khác nhau. Tuy nhiên, từ trong  
chính cái nền của sự tương tác liên ngành đó,  
Nghiên cứu văn hóa đã tạo ra một hướng đi  
hoàn toàn mới, tạo sân chơi cho những khám  
phá và phân tích mới mẻ về văn hóa, đồng  
thời có tác động đến diễn ngôn chính thống  
trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn  
ở phương Tây. Nói cách khác, Nghiên cứu văn  
akhông phải là một hòn đảo trong một đại  
dương của các chuyên ngành, mà nó là một  
dòng chảy cuốn phăng bờ của các chuyên  
ngành khác để tạo ra những dạng thức mới  
mẻ và thay đổi” (1, tr.42). Dù có gây tranh cãi,  
thế mạnh của Nghiên cứu văn hóa chính là  
nằm ở tính chất “mở, luôn ẩn chứa khả năng  
để phát triển và biến đổi. Nói cách khác, ngành  
Nghiên cứu văn hóa phản chiếu chính sự phức  
tạp và yếu tố “đa thanh” của đối tượng mà nó  
phản ánh - đó là văn hóa.  
Tuy nhiên, bất chấp những ý kiến trái chiều  
về sự tồn tại như một ngành học thuật độc  
lập, Cultural Studies đã và đang hiện diện ở  
nhiều nơi trên thế giới. Đầu những năm 1990,  
nhiều cuộc hội thảo xoay quanh sự bùng nổ  
của Cultural Studies và những vấn đề đặt ra. Ví  
dụ, riêng năm 1990, ở Mỹ đã tổ chức hai cuộc  
hội thảo “Cultural Studies hiện nay và trong  
tương lai” tại Đại học Illinois (tháng 4/1990),  
88 Số 6 - Tháng 12 - 2013  
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VĂN HÓA  
cận chính, vừa được thừa hưởng từ những  
chuyên ngành khác, vừa được làm mới từ  
trong chính những nội dung mà nó nghiên  
cứu, đó là phương pháp khảo tả dân tộc học  
(ethnography); tiếp cận phân tích văn bản  
(textual approach), và nghiên cứu tiếp nhận  
của độc giả/khán giả (reception studies).  
Do đặc biệt quan tâm đến những ý nghĩa  
và thực hành hàng ngày nên văn hóa phổ  
thông (popular culture), văn hóa đại chúng  
(mass culture) và văn hóa đời thường (everyday  
culture) là đối tượng nghiên cứu chính của  
ngành Nghiên cứu văn hóa. Qua các giai đoạn  
khác nhau của quá trình phát triển, ngành  
cũng thay đổi trọng tâm nghiên cứu. Vào giai  
đoạn mới hình thành, trong bối cảnh xã hội  
nước Anh và châu Âu những năm 50 và 60  
của thế kỷ XX nhiều biến động, ngành Nghiên  
cứu văn hóa tập trung phân tích văn hóa đại  
chúng, coi văn hóa đại chúng đóng vai trò  
quan trọng trong sự hòa nhập của giai cấp lao  
động vào các xã hội tư bản chủ nghĩa. Những  
nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu văn hóa  
đương đại chú trọng tới giai cấp lao động và  
những nhóm thanh niên bất đồng quan điểm,  
cũng như những đặc trưng của truyền hình và  
khán giả. Đồng thời các nhà Nghiên cứu Văn  
hóa cũng khám phá một nền văn hóa truyền  
thông và tiêu thụ mới đang dần thiết lập - tạo  
nên một dạng thức mới của sự bá chủ tư bản  
chủ nghĩa. Sang giai đoạn những năm 70 và 80  
của thế kỷ XX, ngành tập trung vào nghiên cứu  
chủ nghĩa vị nữ, thuyết chủng tộc phê phán,  
thuyết đa dạng tính dục, thuyết hậu hiện đại  
và các mô hình lý thuyết khác. Giai đoạn sau,  
Nghiên cứu văn hóa có xu hướng gắn với tính  
chính trị của việc biểu đạt.  
Có thể nói, so với quan niệm truyền thống,  
các nhà nghiên cứu của ngành Nghiên cứu  
văn hóa đưa ra một cách nhìn khác về văn hóa.  
Trong bài luận“Cultural Studies: Two Paradigms”  
(Nghiên cứu văn hóa: Hai hệ thuyết), Stuart  
Hall đưa ra gợi ý về việc việc khảo cứu lại cách  
hiểu khái niệm văn hóa. “Nói đến văn hóa, ở  
đây tôi nói đến những lĩnh vực nền tảng của  
thực hành, biểu trưng, ngôn ngữ và phong tục  
của bất kỳ xã hội nào. Tôi cũng nói đến những  
dạng thức mâu thuẫn của những hiểu biết  
chung đã được bắt rễ trong đời sống và góp  
phần tạo nên đời sống nói chung” (8, tr.439).  
Theo quan điểm này, văn hóa là một lĩnh vực  
quan trọng của các hành động và can thiệp xã  
hội, nơi mà các mối quan hệ quyền lực được  
thiết lập và luôn chứa đựng những vấn đề  
bất ổn. Theo ông, việc gán những chức năng  
chung và mang tính phổ quát cho những  
giá trị mang tính trừu tượng chỉ có thể hiểu  
được trong những bối cảnh lịch sử và xã hội  
cụ thể của nền văn hóa đó. Bởi thế, có nhiều  
nền văn hóa cùng tồn tại trong các xã hội hậu  
công nghiệp. Văn hóa, đặc biệt là văn hóa phổ  
thông, là một lĩnh vực của sự xung đột.  
Về nền tảng lý thuyết, ngành Nghiên cứu  
văn hóa tiếp nhận tư tưởng từ nhiều ngành  
(lý thuyết xã hội, lý thuyết chính trị, lý thuyết  
truyền thông, thuyết vị nữ, triết học, văn học,  
nghiên cứu video/phim, thông diễn, kinh tế  
chính trị, nghiên cứu bảo tàng, phê bình nghệ  
thuật…). Nó dựa trên một số chủ thuyết nền  
tảng như chủ nghĩa văn hóa (culturalism), chủ  
nghĩa Mác, cấu trúc luận, ký hiệu học, hậu cấu  
trúc luận, hậu hiện đại, nữ quyền luận, hậu  
thuộc địa luận… Về mặt phương pháp, tựu  
chung, ngành Nghiên cứu văn hóa dựa trên  
ba phương pháp và cũng là những cách tiếp  
Nói cách khác, Nghiên cứu văn hóa là một  
hệ thống những lý thuyết được đưa ra bởi  
những nhà tư tưởng coi sản phẩm của tri thức  
chính là mộtthực hành chính trị, và trong đó,  
quyền lực được coi là một khái niệm trung tâm.  
Đối với ngành Nghiên cứu văn hóa, tất cả các  
khía cạnh của đời sống xã hội và văn hóa đều  
có liên quan và ẩn chứa trong các mối quan hệ  
quyền lực. Ý nghĩa, bản sắc, nghệ thuật, hay các  
mối quan hệ xã hội đều là sự thương thỏa của  
quyền lực. Đó cũng có thể là những mối quan  
NGHIÊN CỨU  
Số 6 - Tháng 12 - 2013  
89  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
hệ quyền lực liên quan đến các giới, các giai  
cấp, các chủng tộc, các dân tộc hay tộc người.  
Quyền lực cũng là cái định khuôn cũng như  
chi phối các dạng thức văn hóa, các dạng biểu  
trưng, các mối quan hệ và thiết chế xã hội (như  
gia đình, tôn giáo, hệ thống giáo dục và luật  
pháp). Và như vậy, quyền lực lan tỏa từ mọi  
ngõ ngách trong cuộc sống và chi phối mọi  
chiều kích văn hóa, do đó, phân tích văn hóa  
không thể bỏ qua khía cạnh này.  
Ở đây khái niệmvăn bảnkhông chỉ ám chỉ  
những tác phẩm in ấn, mà bao hàm tất cả các  
dạng thức giao tiếp - hình ảnh, biểu cảm, lời  
nói, âm thanh. Vì vậy, các chương trình phim,  
truyền hình, thể thao, tiểu thuyết, các bài phát  
biểu của chính trị gia, video, bản dạng của con  
người… đều là những văn bản, được kiến tạo  
nên bằng ngôn ngữ, thông qua một quá trình  
“tương quan hóa” (mọi sự vật đều được đặt  
trong mối quan hệ với nhau - và sự “khác biệt”  
(giữa chúng ta với người khác tạo nên bản sắc  
riêng) (11). Cách tiếp cận này coi văn hóa, bản  
sắc, và thậm chí cdân tộccũng là những văn  
bản và những tự truyện (narratives). Chúng  
cũng là những thiết chế xã hội dựa trên nhà  
nước, hoặc dựa trên thị trường và các thiết  
chế xã hội dân sự (6). Có thể “đọc” văn hóa  
như một văn bản, sử dụng các khái niệm như  
ký hiệu hóa (signification), mã (code) và diễn  
ngôn (discourse). Việc khám phá văn hóa được  
xem là tương đồng với việc khám phá ý nghĩa  
ẩn chứa một cách trừu tượng thông qua một  
hệ thống ký hiệu trong ngôn ngữ. Không chỉ  
ngôn ngữ là hệ thống các ký hiệu, mà văn hóa  
cũng là một hệ thống các ký hiệu - với ý nghĩa  
được sản sinh thông qua sự khác biệt, qua các  
quan hệ cú pháp và quan hệ liên tưởng. Ngôn  
ngữ không phải là phương tiện trung gian  
mang tính trung lập để truyền tải ý nghĩa và  
tri thức đã tồn tại độc lập, mà bản thân ngôn  
ngữ cũng mang tính chủ quan, cung cấp ý  
nghĩa cho một đối tượng vật chất và những  
thực hành xã hội. Những quá trình sản sinh ý  
nghĩa này là những thực hành biểu đạt. Vì thế  
để hiểu được văn hóa, cần khám phá ý nghĩa  
được sản sinh ra như thế nào trong ngôn ngữ  
(2). Mặt khác, như quan điểm của các học giả  
của ngành Nghiên cứu văn hóa, trò chơi ngôn  
ngữ (language-game) thể hiện qua diễn ngôn  
không bao giờ mang tính trung lập khách quan.  
Không chỉ Nghiên cứu Văn hóa đặt mục  
tiêu khám phá bản chất chính trị của văn hóa  
đương đại thông qua việc tìm hiểu sự vận  
hành của diễn ngôn và quyền lực, mà bản  
thân ngành Nghiên cứu Văn hóa cũng có thể  
coi là một dạng thức mang tính diễn ngôn  
(discursive formation), “một tập hợp của các  
ý tưởng, hình ảnh và thực hành, cung cấp các  
phương thức để tranh luận, các dạng thức  
của tri thức và hành vi liên quan đến một chủ  
đề nhất định, một hoạt động xã hội hay một  
không gian được thiết chế hóa trong xã hội”  
(7). Vì vậy, một luận điểm quan trọng khác  
của ngành đó là coi văn hóa như là văn bản  
(text). Theo quan điểm nổi tiếng của nhà hậu  
cấu trúc luận Jacques Derrida, người có ảnh  
hưởng tới nhiều ngành xã hội nhân văn, trong  
đó có Nghiên cứu Văn hóa, “không có cái gì  
tồn tại ngoài văn bản. Các “văn bản” này chứa  
đựng những ý nghĩa, các sự kiện và những  
trải nghiệm, sản phẩm của những trường lực  
xã hội được kiến tạo bằng những dòng chảy  
quyền lực, sự phân cấp vị thế và cơ hội. Văn  
hoá và các cá nhân được kiến tạo thông qua  
những mạng lưới của những cách sử dụng  
ngôn ngữ, biểu tượng và diễn ngôn liên kết với  
nhau; toàn bộ cuộc sống này là một văn bản, là  
một chuỗi những quan hệ biểu nghĩa. Không  
thể cô lập bất cứ văn bản nào khỏi sự vận hành  
của nghĩa trong đời sống văn hoá, mọi văn bản  
đều kết nối và được tạo lập thông qua/ bởi các  
văn bản khác (9, tr.90-106).  
Tóm lại, là một lĩnh vực học thuật tương  
đối “mở, bất chấp trên thực tế vẫn có người  
phản đối việc tạo ra ranh giới riêng cho chuyên  
90 Số 6 - Tháng 12 - 2013  
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VĂN HÓA  
Hobson, Andrew Lowe và Paul Willis chủ biên.  
University of Birmingham: Academic Division of  
Unwin Hyman (Publishers) Ltd.  
ngành Nghiên cứu văn hóa, nhưng lĩnh vực  
nghiên cứu này vẫn đã, đang tồn tại và phát  
triển theo nhiều hướng khác nhau. Chẳng hạn  
như hướng nghiên cứu về cảm xúc (emotion),  
tinh thần/tâm linh (spirituality) và mối quan hệ  
giữa chúng với các vấn đề về quyền lực (16)  
v.v... Có thể nói ngành Nghiên cứu văn hóa  
đã đóng góp một cách nhìn mới mẻ về một  
chiều kích khác của văn hóa. Hướng tiếp cận  
của Nghiên cứu văn hóa phương Tây sẽ là một  
sự bổ sung cho Văn hóa học trong việc khám  
phá một lĩnh vực phong phú, biểu trưng và đa  
nghĩa như văn hóa.  
8. Hall, Stuart (1996), Cultural studies: two  
paradigms, in What is Cultural Studies? A.Reader,  
J. Story chủ biên. London: Arnold Press.  
9. Lye, John (1993), Lý thuyết văn chương  
đương đại, The Brock Review, Số 1.  
10. McGuigan, Jim (1992), Cultural Populism,  
London: Routledge.  
11. Nayar, Pramod (2008), An Introduction to  
Cultural Studies, New Delhi, Viva Books.  
P.Q.P  
12. Nguyễn Xuân Kính (2006), Văn hóa Việt  
Nam và các ngành khoa học nghiên cứu, Tạp chí  
Văn hóa dân gian, Số 6.  
(TS, Viện NCVH, Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam)  
Tài liệu tham khảo  
13. Radughin, A.A chủ biên (2004), Văn hoá  
học những bài giảng, Vũ Đình Phòng dịch, Từ Thị  
Loan hiệu đính, Viện Văn hoá - Thông tin xb, Hà  
Nội (bản tiếng Nga in năm 1997).  
1. Baldwin, Elaine, Brian Longhurst, Scott  
McCracken, Miles Ogborn, và Greg Smith (1999),  
Introducing Cultural Studies, London: Prentice  
Hall Europe.  
14. Rosaldo, Renato (1994), Whose Cultural  
Studies? American Anthropologist, New Series,  
Vol. 96, No. 3, pp. 524-529.  
2. Barker, Chris (2008), Cultural Studies:  
Theory and Practice, SAGE Publications.  
3. Belik, A.A (2000), Văn hoá học những lý  
thuyết Nhân học văn hoá, Đỗ Lai Thuý, Hoàng  
Vinh, Huyền Giang dịch, Tạp chí Văn hoá Nghệ  
thuật xuất bản, Hà Nội (bản tiếng Nga in năm  
1999).  
15. Trần Ngọc Thêm (2013), Những vấn đề  
văn hóa học lý luận và ứng dụng, Nxb Văn hóa-  
Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh.  
16. Zevnik, Luka (2010), Towards a new  
perspective in cultural studies: Emotional and  
spiritual problems and happiness in contemporary  
Western societies, International Journal of  
Cultural Studies, 13: 391-408.  
4. Bennett, Tony (1998), Culture: A Reformer’s  
Science, Allen and Unwin Pty Limited.  
5. Berry, Ellen và Epstein, Mikhail (1999),  
Transcultural Experiments: Russian and American  
Models of Creative Communication, New York: St.  
Martin’s Press.  
Ngày nhận bài: 4 - 5 - 2013  
Ngày phản biện, đánh giá: 6 - 9 - 2013  
Ngày chấp nhận đăng: 9 - 12 - 2013  
6. During, Simon (2005), Cultural Studies:  
A critical introduction, London and New York:  
Routledge.  
7. Hall, Stuart (1980), Cultural Studies and the  
Centre: some problematics and problems, Trong  
Culture, Media, LanguageWorking Papers in  
Cultural Studies, 1972–79, Stuart Hall, Dorothy  
NGHIÊN CỨU  
Số 6 - Tháng 12 - 2013  
91  
V
ĂN H Ó  
A
pdf 7 trang Thùy Anh 13/05/2022 1300
Bạn đang xem tài liệu "Ngành nghiên cứu văn hóa (cultural studies) lược sử hình thành và cách tiếp cận", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnganh_nghien_cuu_van_hoa_cultural_studies_luoc_su_hinh_thanh.pdf