Kinh nghiệm quốc tế về quản lý phát triển du lịch có trách nhiệm tại Việt Nam
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
CÓ TRÁCH NHIỆM TẠI VIỆT NAM
INTERNATIONAL EXPERIENCES IN RESPONSIBILITY DEVELOPMENT IN VIETNAM
Nguyễn Thị Kim Liên
trách nhiệm (DLCTN) là một cách thức phát triển du lịch
nhằm giải quyết những vấn đề phát sinh trong du lịch,
hướng tới một ngành du lịch phát triển bền vững.
TÓM TẮT
Mặc dù du lịch là ngành kinh tế mang lại những lợi ích quan trọng cho sự
phát triển của quốc gia, nhưng du lịch Việt Nam cũng đang đối mặt với không ít
những vấn đề về tăng trưởng, ô nhiễm môi trường, những ảnh hưởng tiêu cực
của phát triển du lịch tới văn hóa, xã hội. Trong bối cảnh đó, phát triển du lịch có
trách nhiệm tuy còn mới mẻ nhưng được xem là nguyên tắc mang tính chiến lược
và là phương thức cơ bản để đảm bảo các lợi ích dài hạn, bền vững cho ngành du
lịch quốc gia. Bài báo trên cơ sở phân tích kinh nghiệm quản lý phát triển du lịch
có trách nhiệm của các quốc gia như Nam Phi, Thái Lan, Bhutan đề đề xuất một
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam tới năm 2020,
tầm nhìn 2030 đã đặt ra một trong năm quan điểm phát
triển du lịch Việt Nam đó là phát triển du lịch bền vững, gắn
với việc bảo vệ môi trường, bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa và an sinh xã hội. Trong đó, phát triển du lịch có trách
nhiệm được xác định là một giải pháp hữu hiệu để thực
hiện nhiệm vụ chiến lược trên. Thông qua một số dự án
nghiên cứu và nâng cao năng lực: dự án nghiên cứu và hỗ
số giải pháp nhằm phát triển du lịch Việt Nam theo hướng bền vững.
Từ khóa: Phát triển du lịch có trách nhiệm; phát triển bền vững.
trợ của Tây Ban Nha năm 2011 - 2012 về du lịch có trách
nhiệm; dự án hỗ trợ của EU 2010 - 2015 về nâng cao du lịch
ABSTRACT
có trách nhiệm thì DLCTN được giới thiệu tới Việt Nam
Although tourism is an economic sector that brings important benefits for the
trong thời gian gần đây. Bước đầu, những hiểu biết về
nation's development, Vietnam's tourism is also facing many problems of growth,
DLCTN, quá trình hình thành, vai trò, nguyên tắc và những
environmental pollution, impacts. Negative impacts of tourism development on
hướng dẫn về DLCTN đã được xây dựng. Tuy nhiên, việc
culture and society. In this context, responsible tourism development is still new, it
phát triển du lịch có trách nhiệm tại Việt Nam mới chỉ trong
is considered a strategic principle and a basic way to ensure long-term and
giai đoạn giới thiệu ban đầu và còn gặp nhiều khó khăn.
sustainable benefits for the national tourism industry. The article is based on an
Điều này đặt ra vấn đề cần học hỏi kinh nghiệm từ những
analysis of the responsible tourism development experience of countries: South
quốc gia điển hình có sự thành công trong quản lý phát
Africa, Thailand, and Bhutan proposing some solutions to develop Vietnam's
triển DLCTN như Nam Phi, Thái Lan, Bhutan để đề xuất một
tourism in a sustainable manner.
số giải pháp nhằm phát triển du lịch Việt Nam.
Keywords: Responsible tourism development; Sustainable Development.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận
Khoa Quản lý kinh doanh, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Khái niệm DLCTN
Email: nguyenthikimlien@haui.edu.vn
Ngày nhận bài: 18/01/2020
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 23/6/2020
Ngày chấp nhận đăng: 25/4/2021
Khái niệm DLCTN được giới thiệu năm 1989 khi Ban du
lịch văn hóa của cộng đồng Châu Âu nhấn mạnh về sự cần
thiết của một chính sách du lịch mang tính trách nhiệm và
dần đi tới thống nhất vào đầu những năm 2000 với nhiều
cách thể hiện khái niệm này trong các nghiên cứu sau đó.
Năm 2002, trong cẩm nang về du lịch có trách nhiệm Nam
1. GIỚI THIỆU
Du lịch là một trong những ngành phát triển nhanh Phi Spenceley và cộng sự đưa ra khái niệm như sau: “Du lịch
nhất trên thế giới có ảnh hưởng rộng lớn đến cơ cấu xã hội, có trách nhiệm hiểu một cách đơn giản là đem lại những trải
kinh tế cũng như về môi trường. Ngành du lịch đem lại 9% nghiệm du lịch tốt hơn cho khách du lịch và cơ hội kinh doanh
GDP, 8% việc làm, 6% xuất khẩu nói chung và 30% xuất tốt hơn cho các doanh nghiệp du lịch có trách nhiệm cũng liên
khẩu dịch vụ toàn thế giới [26]. Ngoài những đóng góp của quan tới việc đảm bảo cho cộng đồng địa phương có chất
du lịch tới sự phát triển kinh tế, vào sự hiểu biết và tôn lượng cuộc sống tốt hơn thông qua việc nâng cao lợi ích kinh
trọng giữa các cá nhân và xã hội, làm giàu thêm giá trị văn tế xã hội và quản lý tài nguyên tự nhiên” [5, 6].
hóa thì phát triển du lịch tiềm ẩn những tác động tiêu cực:
Cũng tại Nam Phi kể từ Tuyên bố Cape Town năm 2002
làm méo mó cơ cấu kinh tế, làm suy thoái các giá trị văn
DLCTN đã được biết đến khá rộng rãi trên thế giới với cách
hóa, hay gây ra ô nhiễm môi trường. Phát triển du lịch có
hiểu: “Du lịch có trách nhiệm tìm cách tối ưu hóa các tác động
153
Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn Vol. 57 - No. 2 (Apr 2021) ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY
KINH TẾ
XÃ HỘI
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619
tích cực và giảm thiểu các tác động tiêu cực. Việc tuân thủ tất cả các hoạt động mang tính trách nhiệm cao; xây dựng quỹ bảo
các tiêu chuẩn, luật và quy định quốc tế có liên quan đã được vệ môi trường, quỹ phát triển cộng đồng…
xem là nằm trong các đặc điểm trên. Tính trách nhiệm và lợi thế
thị trường có thể đi cùng, là làm nhiều hơn mức tối thiểu có thể”.
- Đối với cộng đồng địa phương: cần có thái độ ứng xử
thân thiện, tôn trọng và hỗ trợ khách du lịch trong quá
trình tham quan, tìm hiểu tại địa phương; hiểu biết về
nguồn tài nguyên cộng đồng đang sở hữu để bảo vệ và
giới thiệu đến du khách; tham gia các hoạt động du lịch
một cách có tổ chức, tránh tình trạng tự phát, gây lộn xộn,
thiếu văn minh đô thị…
Tuy nhiên phải tới năm 2011, khi Dự án Phát triển Năng
lực Du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội, do Liên
minh châu Âu tài trợ (Dự án EU-ESRT), triển khai tại Việt
Nam, lần đầu tiên các khái niệm đó mới được nhắc đến và
trở nên quen thuộc ở Việt Nam. Du lịch có trách nhiệm khi
tập trung vào hành vi của các bên liên quan trong quá trình
hoạt động du lịch thì Goodwin, cho rằng: “Khái niệm du lịch
có trách nhiệm, về bản chất, đòi hỏi sự nhận trách nhiệm và
hành động; người tiêu dùng, nhà cung cấp và chính quyền
đều có trách nhiệm trong đó. Du lịch có trách nhiệm nhằm xác
định những tác động của du lịch đại chúng, nhằm tăng cường
tác động tích cực và giảm thiểu những tác động tiêu cực... du
lịch có trách nhiệm liên quan đến việc tất cả mọi người đều
phải chịu trách nhiệm trong việc phát triển du lịch một cách
bền vững” [9].
- Đối với khách du lịch: tìm hiểu và tuân thủ các tập tục
địa phương; lựa chọn các doanh nghiệp có quan điểm, tôn
chỉ và hoạt động hướng đến sự bền vững và có trách
nhiệm; có ý thức tiết kiệm năng lượng; sẵn sàng tham gia
các hoạt động môi trường, ủng hộ phát triển kinh tế - xã
hội địa phương; có ý thức bảo vệ môi trường, văn hóa bản
địa…
Như vậy, quản lý phát triển DLCTN là việc cơ quan quản
lý nhà nước thực hiện việc phát triển du lịch xuất phát từ
trách nhiệm của mình, nhằm tối đa hóa các tác động tích
cực và giảm thiểu các tác động tiêu cực về kinh tế, xã hội và
môi trường.
Như vậy, DLCTN tại các điểm đến được hiểu là việc hạn chế
tối đa các tác động tiêu cực về kinh tế, môi trường và xã hội; tạo
ra lợi ích kinh tế lớn hơn và nâng cao phúc lợi cho người dân địa
phương, cải thiện điều kiện làm việc và tham gia vào hoạt động
du lịch; khuyến khích người dân địa phương tham gia vào các
quyết định có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ; đóng góp tích
cực vào việc bảo tồn các di sản thiên nhiên và văn hóa nhằm
duy trì một thế giới đa dạng; cung cấp những trải nghiệm thú vị
cho du khách thông qua mối liên kết giữa khách du lịch và
người dân địa phương, tạo hiểu biết về các vấn đề văn hóa, xã
hội và môi trường tại địa phương; tạo cơ hội cho những người
khuyết tật và có hoàn cảnh khó khăn; tôn trọng văn hóa địa
phương, khuyến khích sự tôn trọng lẫn nhau giữa khách du lịch
và người dân địa phương; tạo dựng niềm tin, lòng tự hào dân
tộc cho cộng đồng.
Những nội dung cụ thể trong quản lý phát triển DLCTN
chính là việc cơ quan quản lý nhà nước: xây dựng chính
sách, chiến lược, quan điểm phát triển rõ ràng; phổ biến,
tập huấn, phát tài liệu hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp
và cộng đồng địa phương thực hiện theo các nguyên tắc có
trách nhiệm; tổ chức các hội thảo, lớp đào tạo để nâng cao
nhận thức và trao đổi kinh nghiệm thực tiễn trong quá
trình thực hành; tuyên truyền, khuyến khích, tôn vinh các
điển hình thực hiện du lịch có trách nhiệm.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính, các dữ liệu
thứ cấp liên quan đến vấn đề nghiên cứu được thu thập từ
các bài báo, công trình khoa học, báo cáo. Thông tin sơ cấp
được thu thập thông qua phỏng vấn sâu các chuyên gia du
lịch, doanh nghiệp du lịch về nhận thức, năng lực và hành
động DLCTN của cơ quan quản lý nhà nước.
Khái niệm quản lý phát triển du lịch có trách nhiệm
Theo tuyên bố Cape Town, DLCTN đòi hỏi sự tham gia
của tất cả các bên có liên quan trong hoạt động du lịch, bao
gồm 4 đối tượng chính là cơ quan quản lý nhà nước, cộng
đồng địa phương, doanh nghiệp lữ hành, khách du lịch.
3. KẾT QUẢ
- Đối với cơ quan quản lý nhà nước: xây dựng chính
sách, chiến lược, quan điểm phát triển rõ ràng; phổ biến,
tập huấn, phát tài liệu hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp
và cộng đồng địa phương thực hiện theo các nguyên tắc có
trách nhiệm; tổ chức các hội thảo, lớp đào tạo để nâng cao
nhận thức và trao đổi kinh nghiệm thực tiễn trong quá
trình thực hành; tuyên truyền, khuyến khích, tôn vinh các
điển hình thực hiện du lịch có trách nhiệm…
3.1. Quản lý phát triển DLCTN tại Nam Phi
Nam Phi được xem là một trong những quốc gia có nền
du lịch phát triển vào bậc nhất của Châu Phi và là điểm đến
thu hút khách du lịch quốc tế lớn của khu vực. Báo cáo
hàng năm về tác động kinh tế và tầm quan trọng xã hội của
ngành Du lịch, do Hội đồng du lịch và lữ hành thế giới
(WTTC) công bố, ngành du lịch Nam Phi tạo ra 1,5 triệu việc
làm năm 2018, tương đương 9,2% tổng số việc làm của
quốc gia này. Du lịch cũng mang lại nguồn thu khoảng 29,6
tỷ USD, xấp xỉ 8,6% tổng thu nhập quốc dân. Qua việc tổng
hợp và so sánh số liệu trong lĩnh vực du lịch và lữ hành từ
185 nước trên thế giới, Chủ tịch WTTC G.Guevara khẳng
định, những đóng góp của ngành du lịch Nam Phi cho nền
kinh tế quốc gia thuộc hàng cao nhất tại "lục địa đen". Nam
Phi được biết đến như một trong những quốc gia điển hình
về phát triển DLCTN. Thành công của Nam Phi phần lớn
- Đối với doanh nghiệp lữ hành: tập trung xây dựng chính
sách, chiến lược doanh nghiệp phù hợp với nguyên tắc có
trách nhiệm; thu hút và đào tạo nguồn nhân lực; có chế độ
khen thưởng đối với cán bộ nhân viên thực hiện các sáng
kiến có trách nhiệm; thực hiện các nguyên tắc phát triển du
lịch có trách nhiệm; xây dựng các sản phẩm du lịch có trách
nhiệm; hướng dẫn du khách thực hiện du lịch có trách
nhiệm; khuyến khích các hoạt động du lịch tình nguyện và
154
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY
đến từ vai trò của chính phủ trong việc định hướng chính
Tiếp theo sau hàng loạt các hướng dẫn mang tính quốc
sách, xây dựng, triển khai và truyền thông có hiệu quả các gia, chính phủ cho phép các địa phương được chi tiết Hóa
hướng dẫn thực hành quản lý DLCTN cho tất cả các bên các hướng dẫn phù hợp với các đặc điểm của địa phương
liên quan đến hoạt động du lịch.
mình và tích hợp các tiêu chuẩn của địa phương vào tiêu
chuẩn quốc gia sau khi cần cân đối sự phù hợp. Điển hình
như thành phố Cape Town đã xây dựng các tiêu chuẩn du
lịch có trách nhiệm cho viên thành phố với mô hình thẻ
điểm ở cả ba yếu tố trách nhiệm với môi trường, trách
nhiệm với văn hóa và trách nhiệm với xã hội. Các định
hướng du lịch có trách nhiệm được thành phố đồng bộ hóa
cho toàn bộ các lĩnh vực hoạt động. Cape Town đã thành
lập một Ủy ban chính sách đa ngành đa lĩnh vực (RTAT) với
sự tham gia của tất cả các nhà quản lý ở các lĩnh vực có liên
quan. Nhiệm vụ của ủy ban này là tư vấn, triển khai và thực
thi các chính sách nhằm hỗ trợ tối ưu cho sự phát triển của
du lịch trách nhiệm.
Từ năm 1996, nhận định du lịch có khả năng trở thành
động lực để nền kinh tế Nam Phi thay đổi theo hướng tích
cực và bền vững, chính quyền Nam Phi đã đề xuất các
chiến lược, kế hoạch cho sự phát triển lâu dài của ngành
kinh tế này. Mục tiêu ngay từ ban đầu được đặt ra đó là
phát triển có trách nhiệm và bền vững. Bộ môi trường và
Du lịch Nam Phi (Department Of Environmental Affairs And
Tourism - DEAT) đã xuất bản Sách trắng về phát triển và xúc
tiến du lịch trong đó nhằm mang tới các mục tiêu: (1) Đảm
bảo sự tham gia và hưởng lợi từ du lịch của cộng đồng bản
điạ; (2) Xây dựng thị trường du lịch có trách nhiệm của các
bên tham gia; (3) Tôn trọng môi trường tự nhiên, môi
trường văn hóa xã hội của địa phương và tôn trọng sự đa
Song song với việc định hướng chính sách và xây dựng
dạng văn hóa trong du lịch; (4) Tạo điều kiện, thu hút cộng các hướng dẫn thực hành du lịch có trách nhiệm,chính
đồng địa phương lập kế hoạch và ra các quyết định về du quyền Nam Phi cũng rất quan tâm tới việc truyền thông để
lịch của địa phương mình; (5) Sử dụng bền vững các nguồn nâng cao nhận thức và xây dựng năng lực về du lịch cho các
lực địa phương; (6) Duy trì và thúc đẩy sự đa dạng về tự bên liên quan. Thông tin và kế hoạch phát triển du lịch có
nhiên, kinh tế, xã hội và văn hóa; (7) Đánh giá tác động môi trách nhiệm được truyền thông bằng nhiều công cụ khác
trường, xã hội và kinh tế trước khi thực hiện quyết định về nhau ở khắp các địa phương để thay đổi dần những hành vi
du lịch.
trong thực tiễn của mỗi cá nhân, tổ chức. Ngành du lịch cũng
thường xuyên phối hợp với các lĩnh vực kinh tế khác và
thông qua các diễn đàn, tổ chức giáo dục,tổ chức xã hội dân
sự… Để phát triển và phổ biến thông tin giúp các bên hiểu
và thực hiện các hoạt động góp phần phát triển có trách
nhiệm vào các nghiệp vụ công việc hàng ngày.
Đến năm 2002, DEAT ban hành hướng dẫn du lịch có
trách nhiệm trong đó để cập đến các hướng dẫn cụ thể để
có thể đạt được các mục tiêu đã đề ra. Các hướng dẫn chi
tiết về thực hành du lịch có trách nhiệm được thực hiện cho
tất cả các đối tượng có liên quan và khuyến khích các đối
tượng này triển khai các hoạt động theo nội dung hướng
Nam Phi quản lý phát triển DLCTN trên cơ sở khai thác
dẫn. Chính quyền cũng cung cấp chi tiết cho các doanh tốt tiềm năng ngành du lịch và lữ hành để phát triển kinh
nghiệp du lịch thông tin về ngành, về thị trường và hỗ trợ tế, tạo công ăn việc làm và thúc đẩy phát triển xã hội. Bên
các doanh nghiệp bằng những hành động thiết thực như cạnh các loại hình du lịch truyền thống, như tham quan các
cải thiện quy trình quản lý, tăng hiệu quả hoạt động cho di tích lịch sử, khu bảo tồn động vật hoang dã, trải nghiệm
doanh nghiệp và những lợi ích mà họ thu được khi tham các vườn nho bạt ngàn và các công viên quốc gia, Nam Phi
gia hoạt động kinh doanh du lịch có trách nhiệm. Nam Phi đang chú trọng phát triển du lịch đô thị và văn hóa, với việc
cũng đã thực hiện xuất bản Cẩm nang du lịch có trách tổ chức loạt sự kiện âm nhạc, thời trang cùng các loại hình
nhiệm và chia sẻ tới tất cả các doanh nghiệp, cá nhân tham nghệ thuật khác. Trong Thông điệp quốc gia năm 2019,
gia vào mạng lưới du lịch.
Tổng thống Nam Phi C.Ramaphosa đặt mục tiêu đến năm
2030 tăng hơn gấp đôi lượng du khách quốc tế và số việc
làm trực tiếp trong ngành du lịch.
Cũng trong năm 2002, Nam Phi đã tổ chức Hội nghị
đầu tiên về DLCTN ở Cape Town, trở thành quốc gia tiên
phong kêu gọi phát triển DLCTN ở khu vực châu Phi.
Kinh nghiệm của Nam Phi cũng đã gợi ý cho Việt Nam
Tuyên bố Cape Town (2002) đã được tất cả các đại biểu một số bài học trong phát triển du lịch có trách nhiệm.
tham gia cũng đồng tình và trở thành một trong những
Thứ nhất, Chính phủ và các cơ quan quản lý du lịch phải
dấu ấn quan trọng của sự phát triển du lịch có trách
đóng vai trò chính trong việc định hướng phát triển du lịch
nhiệm trên toàn thế giới.
có trách nhiệm. Thông qua việc xây dựng các chính sách,
Năm 2009, DEAT đã xây dựng và ban hành thống nhất mục tiêu cụ thể về kinh tế, môi trường và xã hội cho phát
toàn quốc gia Bộ tiêu chuẩn tối thiểu quốc gia về du lịch có triển du lịch, chính phủ sẽ giúp các cá nhân tổ chức có liên
trách nhiệm (National Minimum Standards for Responsible quan hiểu rõ về trách nhiệm, nghĩa vụ và sứ mệnh của
Tourism - NMSRT) và thực hiện xếp hạng các tổ chức, mình đối với môi trường kinh tế và xã hội. Bên cạnh việc
doanh nghiệp du lịch có trách nhiệm trên toàn quốc. Bộ định hướng và xây dựng các chính sách cụ thể trong phát
tiêu chuẩn này đã giúp chính quyền thiết lập sự hiểu biết triển du lịch có trách nhiệm, chính phủ và các cơ quan nhà
chung về du lịch có trách nhiệm cho tất cả các tổ chức, cá nước về du lịch thông qua các cơ quan tổ chức ở địa
nhân tham gia và là cơ sở để chính quyền kiểm soát sự phương để thực hiện các chương trình truyền thông
phát triển của ngành du lịch
thường xuyên và sâu rộng về du lịch có trách nhiệm với tất
155
Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn Vol. 57 - No. 2 (Apr 2021) ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY
KINH TẾ
XÃ HỘI
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619
cả các bên liên quan để hiểu để họ hiểu rõ sứ mệnh của
Hai là, đặt mục tiêu bền vững và thịnh vượng cho cộng
mình. Từ đó dần hình thành nhận thức thái độ và hành vi đồng bản địa lên hàng đầu trong phát triển du lịch. Các hoạt
du lịch có trách nhiệm của tất cả các bên có liên quan.
động phát triển đều phải xoay quanh mục tiêu vì cộng đồng
hướng tới việc gìn giữ, cải thiện và bảo vệ môi trường.
Thứ hai, cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cần xây
dựng và cung cấp các công cụ hướng dẫn thực hành du
Ba là, thúc đẩy khai thác thị trường du lịch chất lượng
lịch có trách nhiệm cho tất cả các cá nhân, tổ chức nhằm cao hướng tới các thị trường có mức tiêu dùng cao và sử
đảm bảo tất các bên tham gia đều có đủ hướng dẫn cơ bản, dụng các sản phẩm có trách nhiệm với môi trường, kinh tế
cùng thống nhất những phương thức chung trong phát và xã hội.
triển du lịch có trách nhiệm ở Việt Nam.
Từ những mục tiêu định hướng chính quyền Thái Lan
Thứ ba, có cơ chế chuyển khuyến khích các doanh thông qua cơ quan quản lý nhà nước về du lịch (Tourist
nghiệp, tổ chức, cá nhân thực hành du lịch có trách nhiệm Authority of Thai Lan - TAT) đã xây dựng các kế hoạch trong
thông qua các chính sách cụ thể như cấp chứng chỉ,vinh mỗi giai đoạn ngắn hạn. kế hoạch này được chi tiết hóa rất
danh, khuyến khích bằng giảm trừ thuế, quảng bá trong cụ thể và được triển khai thực hiện ở tất cả các bên liên
tổng thể chung của ngành… Bên cạnh việc khuyến khích, quan tới hoạt động du lịch.
chính quyền cũng tạo điều kiện để các bộ phận chức năng
Trong kế hoạch năm 2014 - 2015 để có thể duy trì các
có cơ chế giám sát, quản lý các hoạt động nhằm giảm thiểu
nghề thủ công địa phương, chính phủ ban hành luật miễn
các hành vi thiếu trách nhiệm với môi trường văn hóa, xã
thuế VAT cho tất cả các địa điểm bán hàng thủ công địa
hội của các tổ chức, cá nhân tham gia vào du lịch.
phương ở Thái Lan. Các công ty lữ hành được thực hiện
trách nhiệm với địa phương, sử dụng lao động địa phương
sẽ được miễn một phần thuế thu nhập. Thái Lan cũng được
đánh giá là một trong những quốc gia có mô hình phát
triển du lịch dựa vào cộng đồng rất tốt. Chính quyền
khuyến khích các địa phương phát triển các sản phẩm
mang tính bản địa thông qua các chương trình như: “mỗi
lần một sản phẩm”, “mỗi người dân là một hướng dẫn viên
du lịch”. Các sản phẩm có lợi cho cộng đồng và môi trường
như du lịch nông nghiệp, du lịch “Homestay” và du lịch
làng nghề được khuyến khích phát triển. Chính quyền cũng
rất quan tâm tới việc nâng cao năng lực làm du lịch cho
người dân địa phương. Đến Thái Lan, du khách sẽ có cảm
giác toàn dân làm du lịch và mọi giá trị cộng đồng đều có
thể trở thành thành sản phẩm du lịch. Ở mỗi địa phương,
chính quyền thiết lập các trung tâm hỗ trợ nhân lực cho du
lịch. Trung tâm này hoạt động như một trung tâm tư vấn
cho các đơn vị, tổ chức địa phương hoạt động trong ngành
với mục tiêu tăng cường đồng bộ chất lượng nhân lực
ngành du lịch Thái Lan.
3.2. Quản lý phát triển DLCTN tại Thái Lan
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, chính phủ Thái
Lan luôn xem du lịch là một công cụ quan trọng để phục
hồi và ổn định nền kinh tế. Từ sau năm 1997, du lịch đã trở
thành một nguồn thu lớn của Thái Lan đóng góp trung
bình 8% GDP hàng năm. Trong các năn từ 2012 năm 2017,
Thái Lan luôn nằm trong số các điểm đến thu hút được
nhiều khách du lịch quốc tế và là một trong số những quốc
gia có doanh thu từdu lịch cao nhất trên thế giới. Tuy
nhiên, sự phát triển quá nhanh chóng của du lịch cũng đã
khiến cho Thái Lan gặp phải rất nhiều vấn đề về môi trường
tự nhiên, xã hội và sự biến đổi tiêu cực của văn hóa. Sự thay
đổi về các hình thức tiêu dùng du lịch cũng khiến cho sản
phẩm du lịch Thái Lan có nhiều biểu hiện tiêu cực.
Đứng trước vấn đề này, chính phủ Thái Lan đã phải
nhanh chóng đưa các mục tiêu về bảo tồn và phát triển có
trách nhiệm song song với mục tiêu về kinh tế trong các kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội. Mô hình phát triển bền
vững được lồng ghép vào các kế hoạch phát triển kinh tế
và xã hội quốc gia của Thái Lan. Các kế hoạch đều tuân
theo triết lý của Nhà vua về “một nền kinh tế vừa đủ” nhằm
tăng cường “sức chống chịu” của nền kinh tế bên cạnh mô
hình tăng trưởng thông thường. Trong đó, con người được
lấy làm trung tâm của sự phát triển. Cũng theo kế hoạch
chung của nền kinh tế, giai đoạn từ năm 2012 - 2016, tôn
chỉ của du lịch Thái Lan là “cộng đồng ổn định, thịnh vượng
và bền vững”. Phát triển du lịch theo hướng sang quản lý
bền vững tài nguyên với sự tham gia của cộng đồng bản
địa được xem là một trong những chiến lược cơ bản của du
lịch Thái Lan. Trên cơ sở tôn chỉ và chiến lược đã đặt ra,
chính quyền Thái Lan đã đề ra những mục tiêu rất cụ thể
đối với sự phát triển du lịch của giai đoạn hiện tại:
Trong giai đoạn 2016 - 2017 kế hoạch phát triển du lịch
quốc gia của hoàng gia Thái Lan đã xác định rõ mục tiêu
phát triển du lịch phải hướng tới bảo tồn văn hóa, gìn giữ
tài nguyên và phát triển bền vững cho cộng đồng bản địa.
Các sáng kiến, kinh nghiệm phát triển du lịch cộng đồng,
du lịch có trách nhiệm liên tục được chia sẻ trên các
phương tiện thông tin đại chúng để làm bài học cho các
bên liên quan. Bên cạnh đó, chính phủ Thái Lan cũng đề ra
kế hoạch phát triển và phục hồi các di sản văn hóa nhằm
phát triển các điểm du lịch mới thông qua hỗ trợ khối
doanh nghiệp và cộng đồng địa phương.
Bên cạnh những chính sách khuyến khích mềm dẻo,
chính quyền thời gian cũng đã thực hiện những biện pháp
rất cứng rắn và khẩn trương để có thể ngăn chặn kịp thời
những hoạt động làm ảnh hưởng đến tính bền vững của du
lịch chẳng hạn như: ban hành lệnh hạn chế tối đa cung cấp
các dịch vụ lặn biển, ngắm biển… làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hệ sinh thái biển ở một khu du lịch đảo nổi tiếng
Một là, quản lý phát triển du lịch bền vững, có trách
nhiệm với cộng đồng nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ
du lịch, đồng thời góp phần phục hồi và nâng cấp các giá
trị đặc sắc, đa dạng của sản phẩm, của tài nguyên du lịch
của Thái Lan.
156
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY
như: Koh Khai Nok, Koh Khai Nui, Koh Khai Nai, Koh Tachai; động đóng góp vào sự phục hồi, bảo tồn thiên nhiên và giữ
siết chặt quản lý nhằm hạn chế du lịch tình dục ở Pataya gìn văn hóa bản địa. Về mặt xã hội, chính quyền Bhutan đã
từng bước đưa Thái Lan thoát khỏ thương hiệu điểm đến thực hiện thành công trong việc biến quốc gia này trở
tình dục, xóa bỏ hoàn toàn việc kinh doanh “tuor 0 đồng” thành đất nước có chỉ số hạnh phúc cao nhất trên thế giới
dành cho khách Trung Quốc; mở rộng quảng bá, giới thiệu bằng những chính sách vô cùng đặc biệt.
về các sản phẩm du lịch văn hóa.
Khác với các quốc gia trên thế giới, Bhutan không sử
dụng chỉ số GDP là một thước đo quan trọng của sự phát
triển mà sử dụng các chỉ số về sức khỏe, giáo dục và sự đa
dạng sinh thái, khả năng phục hồi của tài nguyên tự nhiên,
văn hóa để đo lường tổng thể sự phát triển của quốc gia.
Để làm được điều này, chính quyền Butan đã không ngừng
tuyên truyền, giáo dục người dân ý thức rằng sự an lành,
hạnh phúc của con người phụ thuộc vào mức độ an sinh
tinh thần hơn là an sinh vật chất. Con người tồn tại như
một thực thể gắn với tự nhiên. Do đó các hoạt động kinh tế
tổn hại quá lớn đến tự nhiên sẽ không được khuyến khích
thực hiện mà thay vào đó bằng các hoạt động thân thiện
với môi trường. Chẳng hạn như một khu rừng thay vì được
khai thác gỗ để thu lợi ngắn hạn thì chính quyền Bhutan sẽ
sử dụng nó vào mục đích phát triển du lịch. Tuy nguồn lợi
kinh tế do hoạt động du lịch mang lại ít hơn nhưng sẽ bền
vững hơn so với ngành công nghiệp khai thác. Ngay trong
ngành du lịch, lợi ích kinh tế sẽ không phải là mục tiêu đầu
tiên được quan tâm mà nó phải gắn với an sinh xã hội, an
toàn môi trường và văn hóa. Đây có thể được xem là một
bài học rất tốt cho sự phát triển du lịch ở các quốc gia. Nếu
như có những hướng đi đúng, chúng ta có thể sử dụng du
lịch như một công cụ để thay thế cho những ngành công
nghiệp khác đang làm tổn hại tới môi trường tự nhiên và
văn hóa xã hội.
Bhutan thực hiện kiểm soát rất nghiêm ngặt đối với
khách du lịch đến quốc gia này. Chính sách du lịch “Giá trí
cao, ảnh hưởng thấp” vô cùng đặc biệt của Bhutan hướng
tới một môi trường du lịch trong sạch, bền vững, gắn với
bảo vệ và duy trì các giá trị truyền thống, văn hóa tốt đẹp
cùng với bảo vệ thiên nhiên. Vào mùa cao điểm, chính phủ
cho phép các điểm đến có thể tăng đáng kể các mức phí
dành cho khách du lịch. Biện pháp này giúp cho lượng
khách đến với điểm đến luôn ổn định. Đồng thời, các chi
phi gia tăng sẽ đóng góp cho công việc bảo tồn và phục
hồi các giá trị tài nguyên tự nhiên và văn hóa bị tổn hại. Bên
cạnh đó, Bhutan cũng thực hiện tuyên truyền tới du khách
về những quyền lợi mà họ được hương khi tới với một điểm
đến có môi trường nguyên sơ, có người dân địa phương
chào đón một cách tích cực. Khách du lịch ngoài việc được
hương các giá trị tinh thần từ các trải nghiệm du lịch, còn
được tôn vinh về việc đã hỗ trợ một phần vào việc phục hồi
khí hậu, tạo ra phúc lợi xã hội cho cộng đồng địa phương
và từ đó giúp bảo tồn văn hóa bản địa. Thực hiện theo cách
này, du lịch ở Bhutan đã không còn là một ngành. công
nghiệp khai thác mà là ngành phục hồi. Rõ ràng, mục tiêu
này của chính phủ đã thể hiện một tầm nhìn dài hạn và có
tính chiến lược, rất đáng để học hỏi.
Giai đoạn 2018 - 2019, chính sách phát triển du lịch của
Thái Lan tập trung vào 05 nhóm đối tượng chính bao gồm:
bảo tồn tài nguyên du lịch, thu hút khách du lịch có chất
lượng và có trách nhiệm, phát triển doanh nghiệp du lịch
có chất lượng, hỗ trợ cộng đồng địa phương và các nhà
khoa học. Đối với phát triển du lịch bền vững, mục tiêu
chiến lược không chỉ tập trung vào số lượng khách du lịch
và các giá trị kinh tế và còn cân đối giữa các yếu tố kinh tế
xã hội và môi trường.
Với triết lý “nền kinh tế vừa đủ” và sự chuyển hướng
nhanh, mạnh bằng những công cụ quyết liệt của chính
quyền đã giúp Thái Lan đang dần thoát khỏi những ảnh
hưởng nghiêm trọng của “tăng cường du lịch nóng”. Du
lịch Thái Lan đang hướng tới sự phát triển có trách nhiệm,
bền vững và thân thiện với môi trường và cộng đồng.
Những kinh nghiệm của Thái Lan sẽ là bài học rất quan
trọng và gần gũi đối với Việt Nam bởi du lịch Thái Lan và du
lịch Việt Nam có khá nhiều điểm tương đồng.
Thứ nhất, ngay khi có định hướng chuyển từ mục tiêu
chính là kinh tế sang cân bằng các mục tiêu kinh tế - môi
trường - văn hóa, chính quyền Thái Lan đã xác định rất rõ
cộng đồng bản địa sẽ là trung tâm của sự phát triển du lịch
có trách nhiệm. Cộng đồng được hưởng lợi, được tham gia
và được phát triển sẽ là cơ sở để du lịch Thái Lan phát triển
bền vững và trách nhiệm. Trong mỗi giai đoạn, ngành du
lịch Thái Lan đều xây dựng các chính sách chương trình
hướng tới mục tiêu phát triển du lịch có trách nhiệm với
cộng đồng.
Thứ hai, không chỉ xây dựng các chiến lược phát triển
dài hạn, chính quyền thái lan còn lập kế hoạch phát triển
của mỗi năm du lịch. Việc định hướng mục tiêu trọng tâm
và kế hoạch thực hiện trong mỗi giai đoạn ngắn hạn như
của ngành lu lịch Thái Lan cũng là phong cách phù hợp
giúp cho các bên tham gia vào các hoạt động du lịch có thể
xác định rõ vai trò, nhiệm vụ và kế hoạch hành động trọng
tâm của ngành và của đơn vị mình trong phát triển du lịch
có trách nhiệm ở mỗi thời điểm cụ thể.
Thứ ba, bên cạnh việc tuyên truyền, xây dựng ý thức
trách nhiệm trong phát triển du lịch, chính quyền cũng cần
thực hiện ngăn chặn những hành vi thiếu trách nhiệm
bằng các công cụ quyết liệt và nhanh chóng nhằm quản lý
tốt các hoạt động có liên quan tới hướng hướng tới mục
tiêu phát triển trách nhiệm và bền vững.
3.3. Quản lý phát triển DLCTN tại Bhutan
Không giống như nhiều quốc gia khác, ngay từ khi bắt
đầu mở cửa phát triển du lịch vào năm 1974, định hướng
thị trường đã không phải là mục tiêu chiến lược mà Buhtan
hướng tới. Chính phủ Bhutan xác định du lịch không thể là
một ngành công nghiệp khai thác mà phải là một hoạt
Chính quyền Bhutan đã đưa vào hiến pháp các chính
sách cụ thể về bảo vệ môi trường và tài nguyên. Chẳng hạn
như, chính phủ, doanh nghiệp và các cá nhân luôn phải
157
Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn Vol. 57 - No. 2 (Apr 2021) ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY
KINH TẾ
XÃ HỘI
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619
đảm bảo 60% diện tích của Bhutan được bao phủ bởi rừng.
Thứ ba, Việt Nam cần lập danh sách các khu vực nhạy
Việc khai thác các tài nguyên tự nhiên và văn hóa được cảm với môi trường tự nhiên, môi trường văn hóa và
kiểm soát rất nghiêm ngặt. Các báo cáo tài chính luôn phải nghiên cứu về các chính sách nhằm kiểm soát số lượng và
gồm các báo cáo đánh giá tác động môi trường và các biện hành vi của khách và hành vi của khách du lịch ở những
pháp kiểm soát tác động có hại. Hàng năm, các ngành kinh khu vực này. Có thể xem xét áp dụng những phương cách
tế đều phải có báo cáo thường niên để chính phủ xem xét mà Bhutan đã thực hiện thành công như thu phí cao đối
về mức độ đóng góp và mức độ trách nhiệm của doanh với khách du lịch để kiểm soát số lượng, đồng thời chia sẻ
nghiệp với môi trường và xã hội.
chi phí cho việc bảo tồn, phục hồi tài nguyên môi trường;
tôn vinh và chia sẻ với khách về vai trò, hành vi của khách
trong việc tham gia vào việc phục hồi khí hậu, tạo ra phúc
lợi xã hội cho cộng đồng địa phương và từ đó giúp bảo
tồn văn hóa bản địa. Tuy nhiên trường hợp của Bhutan
cũng đã cho chúng ta thấy rõ rằng, du lịch có trách nhiệm
không thể chỉ được thực hiện đơn lẻ ở một quốc gia hay
một vùng lãnh thổ bởi cho dù có giải quyết thật tốt vấn
đề địa phương nhưng nếu con số tổng thể tiếp tục gia
tăng thì sớm muộn chúng ta vẫn phải chịu hậu quả nhất
là trong bối cảnh mà lượng khách du lịch đang ngày một
gia tăng nhanh chóng.
Ở Bhutan, du lịch được biết đến như một trong những
hoạt động cơ bản tạo ra nguồn lợi kinh tế, xã hội và môi
trường cho quốc gia. Bằng việc phát triển du lịch có trách
nhiệm, ngành kinh tế này đã thay thế cho những ngành
công nghiệp chế biến mà các dịch vụ khác có khả năng làm
tổn hại tới môi trường. Chính vì vậy, đây là quốc gia duy
nhất trên thế giới chỉ hấp thụ CO2 mà không xả thải ra môi
trường và đảo ngược sự nóng lên toàn cầu. Tuy nhiên, vì là
một quốc gia duy nhất hấp thụ CO2 nên Bhutan vẫn không
thể tránh khỏi những ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường
toàn cầu.
3.4. Quản lý phát triển DLCTN tại Việt Nam
Trường hợp Bhutan là một bài học rất quan trọng đối với
sự phát triển của du lịch Việt Nam.
Các cơ quan quản lý đóng vai trò quan trọng trong phát
triển du lịch có trách nhiệm. Tại Việt Nam, nhận thức và
định hướng của cơ quan quản lý cho phát triển du lịch có
trách nhiệm khá rõ ràng ở cấp Trung ương và từng bước
hình thành ở cấp địa phương. Tuy vậy, năng lực phát triển
du lịch có trách nhiệm thể hiện trong việc xây dựng các
chính sách và những hành động cụ thể để để phát triển du
lịch có trách nhiệm còn khá hạn chế.
Thứ nhất, Bhutan đã lựa chọn phát triển du lịch để thay
thế cho những ngành công nghiệp chế biến và xác định rõ
du lịch phải là ngành công nghiệp giúp bảo vệ môi trường,
phục hồi, giữ gìn tài nguyên chứ không phải là ngành công
nghiệp khai thác. Ở tất cả các địa phương, nếu có thể thay
thế du lịch cho các ngành kinh tế khác. Bhutan đều lựa
chọn phát triển du lịch cho dù những lợi ích kinh tế mà
ngành du lịch mang lại có thể sẽ ít hơn. Đây là một bài học
rất cơ bản cho Việt Nam khi mà việc lựa chọn các ngành
kinh tế chế biến và khai thác, mang lại hiệu quả kinh tế lớn
hơn nhưng thiếu bền vững vẫn được xem là mục tiêu của
các địa phương. Ngành du lịch ở Việt Nam vẫn phải cạnh
tranh với các ngành kinh tế khác. Vì vậy, rất khó khăn để
các tổ chức, doanh nghiệp làm du lịch hướng tới sự phát
triển bền vững, có trách nhiệm.
Có thể thấy nhận thức chung về tầm quan trọng của phát
triển du lịch có trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước nói
chung nhất là ở cấp Trung ương khá rõ ràng. Các định hướng
phát triển du lịch có trách nhiệm được xác định tại các nghị
quyết của Trung ương Đảng, Luật du lịch cũng như chiến lược
phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030. Các chính sách về phát triển du lịch có trách nhiệm được
ghi dấu thành nhiều văn bản chủ trương liên quan tới phát
triển du lịch tại Việt Nam nói chung. Nó thể hiện trong các
chương trình kế hoạch chiến lược ngành và đặc biệt là chính
phủ rất quan tâm và đã đưa ra nghị quyết 08 của Bộ Chính trị
ban hành năm 2017. (Phỏng vấn chuyên gia du lịch).
Thứ hai, an sinh cộng đồng, bảo vệ môi trường và tài
nguyên được Bhutan xem là những mục tiêu quan trọng
nhất của mọi hành động phát triển. Bằng các chính sách
quản lý thông qua các báo cáo đánh giá tác động môi
trường của môi dự án, chính quyền Bhutan đã thực hiện
thành công mục tiêu kiểm soát hành động của các tổ chức
doanh nghiệp trong phát triển có trách nhiệm. Chính phủ
thống nhất quản lý để đảm bảo mọi hoạt động, dự án làm
tổn hại đến môi trường, tài nguyên đều không được chính
quyền cho phép thực hiện. Bên cạnh đó, chính phủ cũng
thực hiện nghiêm ngặt các chính sách tài chính liên quan
đến việc đóng góp bảo vệ môi trường, bảo tồn tài nguyên.
Đây chính là mặt hạn chế của Việt Nam cần nghiên cứu
xem xét bởi hiện tại, ở Việt Nam không có cơ quan quản lý
thống nhất về đánh giá tác động môi trường cho các dự án
phát triển nói chung cũng như các dự án phát triển du lịch.
Điều này sẽ gây ra những hạn chế nhất định trong kiểm
soát các dự án, chương trình phát triển du lịch không đảm
bảo mục tiêu bền vững.
Hiện nay, Việt Nam không còn là một điểm đến mới nổi
nữa. Ngành Du lịch của Việt Nam đã trưởng thành, mở rộng,
đa dạng hóa và phát triển mạnh mẽ, trở thành một đối thủ
cạnh tranh xứng tầm trong khu vực ASEAN. Để du lịch Việt
Nam tiếp tục có những đóng góp đáng kể cho công cuộc phát
triển kinh tế xã hội của đất nước và các lợi ích khác, ngành Du
lịch phải duy trì được tính cạnh tranh, tính bền vững và tăng
cường thúc đẩy tiềm năng phát triển kinh tế xã hội trên diện
rộng. Những mục tiêu này có thể thực hiện được thông qua
việc phát triển một khung chính sách du lịch có trách nhiệm.
(Phỏng vấn chuyên gia du lịch).
Tuy nhiên, từ nhận thức định hướng chính sách tới việc
xây dựng năng lực và tổ chức thực hiện còn là một khoảng
cách. Năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước trong
phát triển du lịch có trách nhiệm, trước hết thể hiện ở năng
158
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY
lực phát triển các chính sách và chương trình một cách hệ các khách sạn để đáp ứng các yêu cầu về môi trường và xã hội
thống và cụ thể cho phát triển du lịch có trách nhiệm tại còn chưa nhiều và chưa được phổ biến rộng rãi. Các doanh
Việt Nam còn chưa tốt.
nghiệp cần hơn nữa những sáng kiến và chính sách cụ thể của
nhà nước để thúc đẩy hành động phát triển du lịch có trách
nhiệm. Theo tôi, đầu tiên là pháp luật và thực thi pháp luật
thật nghiêm. Thứ hai, là phạt rồi khuyến khích bằng vật chất
hoặc tinh thần hoặc biểu dương để tạo điều kiện kinh doanh
thuận lợi hơn. (Phỏng vấn doanh nghiệp du lịch).
Để biến các chủ trương thành những hành động cụ thể
của các bên và tạo ra hiệu quả cụ thể cho phát triển du lịch có
trách nhiệm cần các kế hoạch hành động và chính sách cụ thể
điều này còn đang thiếu tại Việt Nam. Ví dụ như chính sách
phát triển du lịch có trách nhiệm không chỉ dừng lại ở việc
cung cấp nhận thức mà cần có những biện pháp chính sách
Để phát triển du lịch có trách nhiệm tại Việt Nam, vai trò
cụ thể hơn, nhưng Việt Nam chưa làm được điều này. Kỷ luật của cơ quan quản lý được mong đợi là mạnh mẽ hơn nữa
xã hội đầu tiên là bắt buộc của luật pháp dần nhận thức các để tạo ra tính định hướng trong phát triển du lịch chung
nước phát triển đều đi qua quá trình đó đầu tiên là bắt buộc. của đất nước; cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
Nhưng nếu như có kỷ luật xã hội thì dần dần sẽ tự chuyển biến của các doanh nghiệp và các bên tham gia phát triển du
trong nhận thức. Các nước châu Âu đều trải qua giai đoạn đó, lịch. Nhưng vai trò này của nhà nước chưa rõ ràng.
tôi hi vọng cái đấy được đưa vào các doanh nghiệp là bắt
buộc. (Phỏng vấn chuyên gia du lịch).
Tôi nghĩ rằng du lịch có trách nhiệm nghe nó hơi to tát
nhưng mình nghĩ cái này nó là trách nhiệm chung của toàn
cộng đồng với các di sản văn hóa từ các sản phẩm du lịch.
Còn đối với cơ quan quản lý nhà nước phải làm thế nào để
tăng nguồn thu tạo công ăn việc làm giữ được bản sắc văn
hóa rồi định hướng phát triển. Các hành động chính sách phát
triển du lịch có trách nhiệm đòi hỏi cần cụ thể và mạnh mẽ
hơn nữa thay vì kêu gọi, tuyên truyền. Có lẽ hiện nay đối với
các doanh nghiệp để kêu gọi ý thức tự giác thuần túy thì chỉ có
thể tác động chút nào đó thôi, nếu tiếp tục theo hướng này thì
khó mà cần đưa ra một quy chế. Khu vực tư nhân, người ta chỉ
quan tâm nhiều đến lợi nhuận thôi. Và thậm chí người ta còn
lơ cả du lịch có trách nhiệm đi, mặc dù người ta hiểu người ta
biết, nhưng người ta vẫn lo đi kiếm lợi nhuận. Còn cơ quan
quản lý nhà nước hay không bị phụ thuộc vào lợi nhuận, nghĩ
cho xã hội nhiều hơn và phải hi sinh lợi ích của toàn ngành
của thế hệ mai sau nên có rất nhiều quyền trong khi doanh
nghiệp không có quyền. (Phỏng vấn chuyên gia du lịch).
Từ góc độ quản lý nhà nước có thể phát triển nhiều công
cụ khác nhau nhằm hỗ trợ và thúc đẩy các doanh nghiệp thực
hiện du lịch có trách nhiệm. Vì nếu doanh nghiệp đóng vai trò
bản lề trong việc phát triển du lịch có trách nhiệm thì nhà
nước có vai trò là chất xúc tác. Tuy nhiên, tại Việt Nam chưa
phát triển nhiều công cụ nhằm hỗ trợ và thúc đẩy các doanh
nghiệp thực hiện du lịch có trách nhiệm. (Phỏng vấn chuyên
gia du lịch).
Ở cấp địa phương cũng ghi nhận những thay đổi tích
cực về nhận thức cho phát triển du lịch có trách nhiệm với
nhiều hoạt động cụ thể.
Có một số địa phương tôi được biết là sau khi có sự giúp đỡ
của dự án EU thì một số địa phương triển khai được khá tốt.
Bây giờ tất cả các địa phương rất quan tâm cái đấy mà có rất
nhiều phong trào gọi là đưa vào những hành động cụ thể như
là dọn rác. Đặc biệt tại những khu du lịch có rất nhiều những
chương trình sản phẩm về văn hóa của chúng ta như là du
Tôi cho rằng các cơ quan quản lý nhà nước cần mạnh tay
lịch nông nghiệp, cuộc sống ở nông thôn, rồi Homestay, du hơn, có trách nhiệm hơn ở lập kế hoạch và quản lý du lịch trong
lịch cộng đồng. Tất cả những cái đấy là mang tính chất bảo phạm vi thẩm quyền của mình, có thể là ở cấp tỉnh, huyện, xã
tồn phát huy giá trị văn hóa di sản. Đó là khái niệm trách và thôn bản. Vì vai trò chung của Nhà nước trong phát triển du
nhiệm của xã hội phát triển du lịch, nó phải giữ được nét lịch là đảm bảo cho ngành du lịch hoạt động hiệu quả, phù hợp
truyền thống và duy trì xã hội tốt đẹp. (Phỏng vấn doanh với mục tiêu phát triển chung. Trong vai trò này, Nhà nước cần
nghiệp du lịch).
có trách nhiệm lập kế hoạch và quản lý ngành, hỗ trợ thu hút sự
tham gia của các bên liên quan một cách hiệu quả, thu thập và
quản lý thông tin du lịch, và tham gia tiếp thị marketing điểm
đến. (Phỏng vấn chuyên gia du lịch).
Tuy vậy, kể cả ở cấp địa phương, nhận thức và năng lực
du lịch có trách nhiệm chưa được hình thành chính xác
trong đội ngũ cán bộ quản lý. Việc tiếp cận du lịch có trách
nhiệm thiếu tính hệ thống liên tục trong chính sách nói
chung cũng như với các cán bộ quản lý nói riêng.
Trong giai đoạn vừa qua, kể từ khi du lịch có trách nhiệm
được xác định như là một định hướng cho phát triển du lịch
Việt Nam. Và đặc biệt trong giai đoạn gần đây, khi du lịch mở
rộng phát triển trên phạm vi cả nước, nhận thức được sự quan
tâm của xã hội đã bắt đầu có những hành động chương trình
cho phát triển du lịch có trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà
nước. Tuy vậy, các hoạt động này còn ít, chưa được xây dựng
một cách hệ thống; chưa có tác động rộng lớn và lan tỏa
trong xã hội, trong phát triển du lịch có trách nhiệm. Trong khi
đó, các chương trình cụ thể cho phát triển du lịch có trách
nhiệm còn ít. Những chương trình như “bông sen xanh” cho
4. KHUYẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
Từ bài học của Bhutan với những chính sách phát triển
du lịch gắn liền với bảo vệ môi trường, giữ gìn tài nguyên,
an sinh xã hội. Bài học của Thái Lan với sự chuyển mình từ
phát triển du lịch với mục tiêu chính là tăng trưởng kinh tế
sang phát triển DLCTN với ba mục tiêu cân bằng về kinh tế
- môi trường - xã hội bằng những công cụ quản lý quyết liệt
và nhanh chóng. Hay bài học của Nam Phi, về việc định
hướng xây dựng các hướng dẫn chi tiết cụ thể và truyền
thông tích cực, thường xuyên tới tất cả các đối tượng có
liên quan về thực hành DLCTN, có thể thấy rằng, du lịch có
trách nhiệm có thể thành công được ở các quốc gia đòi hỏi
phải có sự nỗ lực không ngừng nghỉ của các bên liên quan
159
Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn Vol. 57 - No. 2 (Apr 2021) ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY
KINH TẾ
XÃ HỘI
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619
[5]. Deparrtment for Environmental Affairs and Tourism of South Africa,
2002. Responsible Tourism Manual for South Africa.
[6]. Deparrtment for Environmental Affairs and Tourism of South Africa,
2002. National Responsible Tourism Development Guidelines for South Africa.
đặc biệt là vai trò của chính phủ. Đối với Việt Nam, được
phát triển DLCTN đòi hỏi phải có sự tham gia của tất cả các
thành phần tham gia vào du lịch. Trong đó, một số đề xuất
với ngành du lịch Việt Nam đó là:
Thứ nhất, Chính phủ và cơ quan quản lý nhà nước về du
lịch cần xác định rõ tầm quan trọng của phát triển du lịch
có trách nhiệm từ đó định hướng chiến lược cho sự phát
triển của toàn ngành và toàn xã hội. Trên cơ sở định hướng
chung, cần xây dựng các kế hoạch, mục tiêu cụ thể trong
mỗi giai đoạn ngắn hạn để các tổ chức, doanh nghiệp, cá
nhân có thể cùng hướng tới thực hiện một mục tiêu chung
được đề ra. Bên cạnh việc định hướng và xây dựng các
chính sách cụ thể trong phát triển du lịch có trách nhiệm,
chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch,
thông qua các cơ quan, tổ chức ở địa phương để thực hiện
các chương trình truyền thông thường xuyên và sâu rộng
về du lịch có trách nhiệm tới tất cả các bên liên quan để họ
hiểu rõ sứ mệnh của mình. Từ đó sẽ hình thành nhận thức,
thái độ và hành vi DLCTN của tất cả các bên có liên quan.
Thứ hai, Chính phủ và cơ quan quản lý nhà nước về du
lịch cần sớm xây dựng và triển khai các chính sách và quy
định cụ thể về phát triển du lịch có trách nhiệm để đảm
bảo cân bằng các mục tiêu kinh tế - môi trường - xã hội,
trong đó các bên tham gia được đều được hưởng lợi từ việc
thực hành du lịch có trách nhiệm. Cho phép lập và sử dụng
các công cụ quản lý mạnh mẽ của nhà nước nhằm hạn chế
các hành động ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường, tài
nguyên và cộng đồng. Xây dựng cơ chế khuyến khích các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thực hành du lịch có trách
nhiệm thông qua các chính sách cụ thể như cấp chứng chỉ,
kinh doanh, khuyến khích bằng giảm trừ thuế quảng bá
trong tổng thể chung của ngành… bên cạnh việc khuyến
khích, chính quyền cũng tạo điều kiện để các bộ phận chức
năng có cơ chế giám sát, quản lý các hoạt động nhằm giảm
thiểu các hành vi thiếu trách nhiệm với môi trường, văn
hóa, xã hội của các tổ chức, cá nhân tham gia vào du lịch.
[7]. Donald G., 2009. Policy for sustainable and responsible festivals and
events: institutionalization of a new paradigm. Journal of Policy Research in
Tourism, Leisure and Events, 1(1), 61-78.
[8]. George R., Frey N., 2010. Creating change in responsible tourism
management through social marketing. South Africa Juornal of Business and
Management, 41(1), 11-23.
[9]. Goodwin H., Francis J., 2003. Ethical and responsible tourism: Consumer
trends in the UK. Journal of Vacation Marketing, 9(3), 271-284.
[10]. Ministry of Enviromental Affairs and Tourism of South Africa (MEAT),
2003. Responsible Tourism Hanbook: A guide to good practice for tourism operators.
[11]. National Assembly, the Socialist Republic of Vietnam, 2005. Law on
Tourism.
[12]. Prime Minister of the Socialist Republic of Viet Nam, 2011. Decision No.
2473/QD-TTg dated December 30, 2011 of the Prime Minister approving the
strategy for development of vietnam's tourism through 2020, with a vision toward
2030.
[13]. Tosun C., 2001. Challenges of sustainable tourism development in the
developing world: the case of Turkey. Tourism management, 22(3), 289-303.
[14]. UNDP, 2011. Tourism and Poverty Reduction Strategies in the Integrated.
[15]. Framework for Least Developed Countries.
[16]. UNEP & UNWTO. Québec Declaration on Ecotourism.
[17]. UNWTO, UNEP, WMO, WEF, 2007. Davos Declaration on Climate Change.
[18]. UNWTO, UNESCAP, UNESCO, 1997. The Berlin Declaration on biological
diversity and sustainable tourism. International Conference om Biodiversity and
Tourism.
[19]. UNWTO, 1995. Charter for Sustainable Tourism. World Conference on
Sustainable Tourism.
[20]. UNWTO, 2000. Code of Conduct for the Protection of Children from Sexual
Exploitation in Travel and Torism
[21]. UNWTO, 2001. Global Code of Ethics for Tourism.
[22]. UNWTO, 2001. The Nanda Devi Biadiversity Conservation and Eco
Tourism Declaration.
[23]. UNWTO, 2002. Cape Town Declaration on Responsible Tourism.
[24]. UNWTO, 2002. Cape Town Declaration. Paper presented at the Cape
Town Conference on Responsible Tourism in Destinations Cape Town.
Thứ ba, cơ quan quản lý nhà nước về du lịch chủ trì
phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nước để xây dựng
và cung cấp các công cụ hướng dẫn thực hành du lịch có
trách nhiệm cho tất cả các cá nhân, tổ chức nhằm đảm
bảo tất cả các bên tham gia đều có sự hướng dẫn
cơ bản cùng thống nhất những phương thức chung trong
phát triển du lịch có trách nhiệm của Việt Nam.
[25]. UNWTO, 2005. Harnessing Tourism for the Millennium Development
Goals.
[26]. UNWTO, 2019. Sustainable Tourism for Development Guidebook
Enchancing capacities for Sustainable Tourism for development in developing
countries.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Anita P., 2012. The Politics of tourism and Poverty Reduction. In D. Leslie
(Ed), Responsible Tourism: concepts, theory and practice, UK: CABI.
[2]. APEC&PATA., 2001. Code of Sustainable Tourism. Kaula Lumpur,
AUTHOR INFORMATION
Malaysia: 50th PATA Annual Conference.
Nguyen Thi Kim Lien
[3]. Asker S., Boronyak L., Carrad N., Paddon M., 2010. Effective community
based tourism: A good practice manual. Parkwood, Qld: CRC for Sustainable
Tourism Pty Ltd
Faculty of Business Administration, Hanoi University of Industry
[4]. Carroll A, B., 1991. The pyramid of corporate social responsibility: Toward
the moral management of organizational stakeholders. Business Horizons, 34(4),
39-48
160
Bạn đang xem tài liệu "Kinh nghiệm quốc tế về quản lý phát triển du lịch có trách nhiệm tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- kinh_nghiem_quoc_te_ve_quan_ly_phat_trien_du_lich_co_trach_n.pdf