Giáo trình Tổ chức và quản lý lễ hội

UBAN NHÂN DÂN TNH LÀO CAI  
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG  
BÀI GING  
MÔN HỌC/ MÔ ĐUN: Tchc và qun lý Lhi  
NGÀNH/NGH: Quản lý văn hóa  
( Áp dụng cho Trình đtrung cp.)  
LƯU HÀNH NỘI BỘ  
NĂM 2017  
1
LI GII THIU  
Thực tế cho thấy, trong việc tổ chức và quản lý lễ hội vừa qua có cả những  
mặt đã thực hiện tốt và chưa thực hiện tốt. Chúng tôi cho rằng quản lý lễ hội, ngoài  
việc đảm bảo cho công tác tổ chức lễ hội được vận hành suôn sẻ còn phải phát huy  
được những mặt đã làm được và hạn chế những mặt chưa làm được do việc tổ chức  
lễ hội mang lại.  
1.Ưu điểm trong việc tổ chức quản lễ hội truyền thống trong thời  
gian qua  
Sự thay đổi văn hóa nào cũng tác động hai mặt đối với xã hội. Trong thời  
gian qua, công tác tổ chức và quản lý lễ hội có một số ưu điểm.  
Xác định và củng cố bản sắc văn hóa Việt Nam trong quá trình đất nước ta  
đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Trong bối cảnh toàn cầu  
hóa với sự hội nhập nhanh chóng của nền kinh tế xã hội và văn hóa của các quốc  
gia, việc phục hồi và phát triển lễ hội truyền thống có một vai trò rất quan trọng  
trong việc xác định căn cước của nền văn hóa Việt Nam. Thông qua các sinh hoạt  
lễ hội, nhiều phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc được bảo lưu, tạo sức đề  
kháng vững chắc cho văn hóa bản địa.  
Khi các thói quen sinh hoạt văn hóa của người dân đang dần thay đổi theo  
hướng hiện đại hóa, nghiêng về việc hưởng thụ văn hóa thông qua các phương tiện  
truyền thông mới (truyền hình, phát thanh, internet…), giải trí cá nhân hoặc  
nhóm như xem ca nhạc, uống cafe, xem phim, đi dã ngoại… hoặc đam mê với các  
trò chơi điện tử trên máy tính, thì việc tổ chức, phục hồi và phát triển các lễ hội  
truyền thống, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc là một tín hiệu đáng mừng cho  
văn hóa nước nhà. Một nghiên cứu cho thấy người dân đánh giá về lễ hội làng như  
sau: là môi trường giữ gìn truyền thống văn hóa của làng (75,6%); là dịp để vui  
chơi, gặp gỡ (61,3%); để gắn bó các thành viên trong làng (58,3%); là dịp bày tỏ  
lòng biết ơn đối với người có công với làng (49,1%); là dịp cầu tài, cầu lộc  
(35,7%); là dịp các dòng họ thể hiện (26,6%); là dịp khẳng định danh tiếng của  
làng (25,8%); là dịp cầu ước sở nguyện riêng (21,1%) (1). Như vậy, khi người dân  
còn quan tâm đến việc giữ gìn truyền thống văn hóa của làng mình, cộng đồng  
mình, thì rõ ràng lễ hội truyền thống giúp xác định và củng cố bản sắc văn hóa  
Việt Nam.  
2. Những điểm chưa làm được  
Thương mại hóa thái quá: Thương mại hóa thái quá lễ hội trở thành vấn đề  
được xã hội quan tâm. Lý do chính là việc quá chạy theo đồng tiền mà bất chấp  
những hậu quả tiêu cực có thể tác động đến lễ hội- với tư cách một hiện tượng văn  
hóa tín ngưỡng. Chẳng hạn nhiều người lợi dụng việc tổ chức lễ hội truyền thống  
để kiếm lợi bằng cách kinh doanh các loại hình dịch vụ ăn theo lễ hội như ăn, nghỉ,  
bán hàng thu tiền với giá quá đắt, quảng cáo tràn lan, buôn thần bán thánh… Thực  
trạng này không chỉ tồn tại ở các lễ hội có qui mô lớn, mà còn len lỏi đến lễ hội ở  
các vùng quê.  
Thực ra, thương mại hóa lễ hội chưa chắc đã trở thành vấn đề đối với việc  
quản lý lễ hội nếu nó không vượt ngưỡng một cách thái quá. Không nên đấu thầu  
2
lễ hội mà chỉ có thể cho đấu thầu dịch vụ phục vụ lễ hội, theo những nguyên tắc  
nhất định để dịch vụ không làm mất đi ý nghĩa văn hóa của lễ hội.  
Chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa, khuyến khích các thành phần  
kinh tế tham gia vào công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị di tích, lễ hội, khuyến  
khích các địa phương lấy di tích nuôi di tích, lấy lễ hội nuôi lễ hội là đúng. Tuy  
nhiên, huy động nguồn lực kinh tế từ mọi thành phần trong xã hội không đồng  
nghĩa với việc các lễ hội truyền thống bị biến dạng, không giữ được bản sắc vốn có  
của nó.  
Mê tín dị đoan, đốt vàng vàng mã tràn lan: “Mê tín (…) là người bạn song  
hành của tín ngưỡng”(4). Dù không thể khẳng định rằng còn lễ hội truyền thống thì  
còn mê tín dị đoan, nhưng chắc chắn, trong việc quản lý lễ hội truyền thống, vấn  
đề hạn chế mê tín dị đoan luôn cần đặt ra. Qua thời gian, tệ nạn mê tín dị đoan  
không những không biến mất cùng với các biện pháp quản lý hành chính mà ngày  
càng trở nên trầm trọng hơn với việc bùng nổ trở lại của hiện tượng lên đồng hay  
đốt vàng mã tràn lan. Dù ngành văn hóa thông tin đã có những chế tài cho việc xử  
lý các vi phạm này qua nghị định xử phạt hành chính các hành vi vi phạm trong  
hoạt động văn hóa thông tin, nhưng xem ra, những hoạt động này khó có khả năng  
giảm đi trong những năm sắp tới.  
Một số hủ tục phục hồi: Phục hồi các lễ hội truyền thống thường gắn liền với  
việc phục hồi những lệ, tục đã gắn bó với người dân của các cộng đồng từ lâu đời.  
Lễ hội truyền thống được mở đồng nghĩa với việc người dân có những ngày nghỉ  
ngơi, tham gia các sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Đây cũng là dịp để nhiều hủ tục  
có không gian và thời gian trỗi dậy. “Do hình thức tổ chức khá đặc biệt vốn có từ  
xưa, nên mỗi dịp mở hội hiện nay, ý thức phường hội, phe giáp, đình đám nảy sinh.  
Nạn cờ bạc, hút xách, chè chén phung phí, tệ mê tín dị đoan được dịp hoạt động.  
Trong không khí cởi mở của hội lễ dễ có tâm lý hòa đồng, nhìn mọi sự việc bằng  
con mắt ưu ái, coi như không có hại, nhưng chính nó đang là loại “dịch vụ ăn  
khách” làm vẩn đục bầu không khí trong lành của ngày hội và ảnh hưởng đến tâm  
lý và cuộc sống của từng người trong xã hội. Xóc thẻ, viết sớ công khai, đánh bạc  
là những hiện tượng có nhiều ở một số lễ hội”(5).  
Việc tu bổ di tích được thực hiện một cách sơ sài, làm biến dạng di tích;  
cảnh quan xung quanh di tích bị xâm hại: Sau một thời gian dài không được quan  
tâm tu bổ, bị sử dụng sai mục đích, bị lấn chiếm, nhiều di tích đã xuống cấp  
nghiêm trọng, thậm chí bị phá hủy hoàn toàn. Công việc phục dựng các di tích với  
mục đích lấy lại hình dáng và không gian ban đầu không phải là một nhiệm vụ đơn  
giản. Một số di tích được xây dựng đã phá vỡ cảnh quan di tích, lấn át di tích gốc  
như trường hợp xây dựng tháp ở chùa Trấn Quốc (Hà Nội) và chùa Mía (Hà Tây);  
gây ra những tranh cãi trong việc phục hồi khi áp dụng những chất liệu xây dựng  
mới, hệ thống trang thiết bị mới, đặc biệt ở các di tích lớn như trường hợp cáp treo  
ở chùa Hương, Yên Tử hay hệ thống đèn chiếu sáng ở Đền Hùng. Lý do có nhiều,  
nhưng chủ yếu do trình độ nhận thức còn yếu và chưa đồng đều dẫn đến việc  
không thể hiện hết ý tưởng nghệ thuật - tôn giáo của người xưa trong việc xây  
dựng di tích; chưa có sự thống nhất của cán bộ ngành văn hóa thông tin trong việc  
3
trùng tu, tôn tạo di tích đã khiến cho mỗi nơi trùng tu, tu bổ di tích theo những kiểu  
khác nhau; và chưa có những qui hoạch tổng thể cho các vấn đề cơ sở hạ tầng, kinh  
tế xã hội, môi trường cảnh quan, dịch vụ du lịch,... cho di tích nói chung và lễ hội  
đi kèm với di tích nói riêng.  
Ngoài ra, không gian di tích cũng ngày càng bị thu hẹp do tốc độ đô thị hóa  
đang lan dần về nông thôn. Đã không ít bài báo kêu ca về việc các di tích bị các hộ  
dân lấn chiếm làm đất ở, các cơ quan nhà nước xâm phạm phạm vi bảo vệ di tích.  
Bên cạnh đó, mỗi lần tổ chức lễ hội là một lần các di tích bị xâm hại, cảnh quan  
môi trường bị phá hủy do sự tập trung số lượng lớn du khách trong một thời gian  
ngắn gây ra sự quá tải cho di tích.  
Việc phục hồi và tổ chức lễ hội diễn ra một cách lộn xộn, bắt chước nhau  
một cách máy móc: Sau nhiều năm gián đoạn cộng với những thay đổi trong một  
số qui định về tổ chức lễ hội, việc phục hồi và tổ chức lễ hội ở nhiều địa phương đã  
gây nên những vấn đề quản lý nhất định. Đó là việc phục hồi và tổ chức lễ hội một  
cách máy móc, bắt chước nhau, không chú ý đến đặc thù của địa phương trong việc  
khôi phục và tổ chức lễ hội. Tác giả Ngô Đức Thịnh nhận xét: “Trong việc phục  
hồi và phát huy lễ hội cổ truyền hiện nay, dưới danh nghĩa là đổi mới lễ hội, gắn lễ  
hội với giáo dục truyền thống, gắn lễ hội với du lịch..., đây đó và ở những mức độ  
khác nhau đang diễn ra xu hướng áp đặt một số mô hình định sẵn, làm cho tính chủ  
động, sáng tạo của người dân bị suy giảm, thậm chí họ còn bị gạt ra ngoài sinh  
hoạt văn hóa mà vốn xưa là của họ, do họ và vì họ. Chính xu hướng này khiến cho  
lễ hội mang nặng tính hình thức, phô trương, “giả tạo”, mà hệ quả là vừa tác động  
tiêu cực tới chủ thể văn hóa, vừa khiến cho du khách hiểu sai lệch về nền văn hóa  
dân tộc”(6). “...ở nhiều lễ hội cho thấy thời gian tế lễ quá dài, lê thê, không phù  
hợp với nhịp sống hiện tại. Có nơi lại tế sai nghi thức, tế nữ quan lại diễn ra ở văn  
miếu, ở đình… có tình trạng nhiều đội tế cùng xuất hiện trong một lễ hội gây ra sự  
lộn xộn, đội nọ đố kị, chê bai đội kia… làm mất đi vẻ đẹp trang nghiêm trong lễ  
thức truyền thống”(7).  
Một số các tệ nạn xã hội và các dịch vụ ăn theo lễ hội nảy sinh: Lễ hội  
truyền thống giờ đây không chỉ bó gọn trong phạm vi một làng, một địa bàn cư trú  
nhỏ hẹp. Hầu hết người đến dự lễ hội đều từ nơi khác đến. Tính vô danh của người  
đi lễ cộng với ý nghĩa tâm linh ít nhiều phai nhạt trong tâm niệm của người đi hội,  
thay vào đó các lễ hội truyền thống được xem như một trò vui hay một đám đông  
người đã khiến cho lễ hội nhiều khi bị trần tục hóa. Chính vì lẽ đó, việc “buôn  
thần, bán thánh”, thương mại hóa lễ hội trở nên phổ biến. Không những thế, những  
tệ nạn xã hội bắt đầu len lỏi vào các lễ hội truyền thống, đặc biệt là những lễ hội ở  
qui mô cấp vùng, cấp quốc gia.  
Ngoài việc ép giá quá cao, bán hàng với giá “cắt cổ” như đã từng xảy ra ở lễ  
hội chùa Hương hay Đền Hùng, việc du khách tập trung quá đông ở một địa điểm  
cũng gây ra tình trạng trộm cắp, móc túi, ăn xin và kể cả tệ nạn mại dâm, nghiện  
hút.  
4
Bên cạnh đó các dịch vụ đi kèm có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của  
lễ hội như tình trạng khấn thuê, đổi tiền lẻ với giá cao, tổ chức các trò chơi điện tử  
cờ bạc trá hình…  
Những vấn đề xã hội mới nảy sinh khác: Hiện nay, lễ hội truyền thống được  
tổ chức ở bất cứ đâu, bất cứ qui mô nào cũng có khách tham quan, và thường nhiều  
hơn lượng người dự hội của chính địa phương tổ chức, nên đặt ra hàng loạt vấn đề  
đối với các nhà quản lý văn hóa xã hội của địa phương. Từ các khâu như đảm bảo  
giao thông, y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm, hướng dẫn khách thăm quan đến duy  
trì an ninh trật tự… đều là mối lo chung của nhiều ban, ngành địa phương. Tùy  
mức độ của mỗi lễ hội mà các vấn đề này cần sự lưu tâm ở các mức độ khác nhau.  
Bệnh phô trương hình thức trong việc tổ chức lễ hội là một trong những vấn đề xã  
hội đáng lưu tâm trong thời gian vừa qua. Dù Trống làng nào làng ấy đánh, thánh  
làng nào làng ấy thờ, song việc so sánh lễ hội làng này với lễ hội làng khác vẫn tồn  
tại từ lâu trong quá khứ. Tuy nhiên, ngày nay, việc so sánh đó đã có những nội  
dung mới. Trong thực tế tồn tại chuyện các làng cố gắng “tìm kiếm” bằng di tích  
lịch sử văn hóa của tỉnh, của Bộ Văn hóa - Thông tin để tổ chức hội cho to, quyên  
góp quá nhiều tiền của người dân để tổ chức hội càng ngày càng to, và quan trọng  
là phải to hơn làng bên cạnh.  
Ngoài ra, có một vấn đề là các lễ hội được tổ chức liên tục chủ yếu trong  
thời gian mùa xuân đã kéo theo việc nhiều cán bộ công chức nhà nước bỏ bê công  
việc, dùng xe công để đi lễ hội. Câu ca Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai cờ  
bạc, tháng ba hội hè lại được “vận dụng” trở lại trong những năm gần đây đã ít  
nhiều tác động tiêu cực đối với các sinh hoạt bình thường của xã hội.  
Tóm lại, việc tổ chức, quản lý, phục hồi lễ hội truyền thống trong thời gian  
vừa qua đã đạt được những kết quả và gặp phải những vấn đề nhất định. Những  
vấn đề đang đặt ra cho việc tổ chức và quản lý lễ hội truyền thống ngày hôm nay  
có thể phát sinh do những bối cảnh xã hội hiện thời, do bản chất vốn có của lễ hội  
truyền thống, do những quyết định quản lý để lại qua thời gian. Tuy nhiên, điều  
phải nhấn mạnh là, lễ hội truyền thống thực sự đang tồn tại và có những vai trò  
nhất định trong sinh hoạt văn hóa của người dân cũng như có ý nghĩa đối với sự  
phát triển kinh tế xã hội, chính trị của cả nước nên chúng ta cần có những biện  
pháp quản lý lễ hội phù hợp với xu thế chung mà không làm ảnh hưởng, dẫn đến  
sự biến dạng của bản chất lễ hội với tư cách là một di sản do cha ông để lại.  
5
MỤC LỤC  
TRANG  
1. Lời giới thiệu  
2. Chương 1: Những vấn đề cơ bản về lễ hội  
3. Chương 2: Các loại hình lễ hội  
02  
07  
07  
10  
4 Chương 3: Tổ chức và quản lý hoạt động lễ hội.  
6
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về lễ hội.  
* Mục đích: Hiểu những vấn đề cơ bản về nguồn gốc và bản chất của lễ hội  
* Nội dung chính:  
1. Khái niệmlhội .  
Lhi là mt hiện tượng văn hoá dân gian tổng thể, “là một hình thc  
diễn xướng tâm linh tng thca lhi không phi là thc thể “chia đôi” như  
ngưi ta quan niệm mà nó hình thành trên cơ sở mt ct lõi nghi lễ, tín ngưỡng  
nào đó (thường là tôn thmt vthn linh - lch shay mt thn linh nghề  
nghiệp nào đó) rồi từ đó nảy sinh và tích hp các hiện tượng văn hoá phái sinh  
để to nên mt tng thlhi cho nên trong lhi phn llà phn gc rchủ  
đạo, phn hi là phn phát sinh tích hp  
2. Nguồn gốc và ý nghĩa xã hội của lễ hội.  
Khi con người xuất hiện, loài người đã phả đối mặt với thiên nhiên, sự khắc  
nghiệt lẫn thuận lợi mà thiên nhiên ban tặng. Chính vì vậy mà trước tiên loài người  
đã hình hình thành Tô tem giáo (sùng bái thiên nhiên), con người tổ chức các lễ  
cầu cho thiên nhiên mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, trong các lễ cầu đó  
luôn có phần biểu diễn các hình thức ca múa của cộng đồng (có thể hiều là phần  
hội) - đó chính là nguồn gốc của lễ hội.Khi xã hội phát triển, bên cạnh các lễ cầu  
cho mưa thuận gió hòa, mùa màng thì con người cũng tổ chức các lễ hội khác liên  
quan đến xã hội của mình như tưởng nhớ các anh hùng, lịch sử hình thành cộng  
đồng. Bên cạnh phần lễ trang nghiêm và ca múa thì xuất hiện thêm nhiều hình thức  
giải trí khác phong phú hơn trong phần hội.  
Lễ hội là một sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng. "Lễ" là hệ  
thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần  
linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản  
thân họ chưa có khả năng thực hiện. "Hội" là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ  
thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống.  
Lễ hội là hoạt động tập thể và thường có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.  
Con người xưa kia rất tin vào trời đất, thần linh. Các lễ hội cổ truyền phản ảnh hiện  
tượng đó. Tôn giáo rất có ảnh hưởng tới lễ hội. Tôn giáo thông qua lễ hội đê phô  
trương thanh thế, lễ hội nhờ có tôn giáo đề thần linh hóa những thứ trần tục.  
Nhưng trải qua thời gian, trong nhiều lễ hội, tính tôn giáo dần giảm bớt và chỉ còn  
mang nặng tính văn hóa.  
- Chương 2: Các loại hình lễ hội.  
* Mục đích: Hiểu và phân biệt được các loại hình lễ hội  
* Nội dung chinh:  
1. Cấu trúc  
Như đã phân tích ở trên, ta thấy khai nguyên của lễ hội truyền thống chỉ đơn  
giản là các Lễ thức (khởi nguyên của các nghi lễ và nghi thức sau này). Đó là một  
hệ thông ứng xử trân trọng của con người với thế giới tự nhiên (đặc biệt là giới  
7
siêu nhiên, siêu hình), là những sản phẩm của trí tưởng tượng của con người thời  
cổ đại.  
Cách ứng xử này với thiên nhiên của con người bao giờ cũng mang tính tâm  
lí cộng đồng dân tộc sâu sắc. Mỗi một dân tộc có một hệ thống nghi lễ, tế tự riêng,  
tuỳ thuộc vào cách quan niệm hay nhận thức của họ đối với các hiện tượng tự  
nhiên. Trải qua các quá trình chọn lọc tự nhiên và chọn lọc xã hội, một số nghi lễ  
bị mai một đi, trong khi đó một số khác được duy trì đều đặn và thường xuyên hơn,  
nên dần dần đã trồ thành truyền thống, thành nếp sông và phong tục tập quán của  
mỗi dân tộc. Mỗi một loại hình lễ hội được hình thành và phát triển trong những  
điều kiện và hoàn cảnh văn hoá xã hội khác nhau, cùng với sự nhận thức về môi  
trường sống ngày càng cao của con người.  
Tri qua hàng nghìn năm lịch sphát trin ca lhi dân gian ở người Vit,  
tlhội sơ khai thời nguyên thuchuyn sang lhi nông nghip và lhi thờ  
cúng ttiên thòi kỳ văn hoá Đông Sơn (hay nền văn hoá Văn Lang – Âu Lc), ri  
trthành hthng lhi có nhiu loi hình rất đa dạng, phong phú trong các thi  
klch skế tiếp sau. Đó là kết quca các mi quan hgia lhi dân gian bn  
địa với tín ngưỡng tôn giáo dân gian và các tôn giáo chính thống (như: Nho –  
Pht – Đạo giáo) du nhập vào nước ta. Nhưng suy cho cùng thì lhi truyn thông  
của người Vit gm có hai phn: Lvà Hi gn quyn cht chvi nhau trong mt  
chnh ththông nhất. Trong đó, phần lbao gm các nghi lcủa tín ngưỡng dân  
gian và các tôn giao du nhp, cùng với các đồ vật được sdng làm đồ tế lmang  
tính linh thiêng, được chun brất chu đáo và nghiêm túc. Thông qua các nghi lễ  
này, con người dường như được giao cm vi thế giới siêu nhiên. Đó là các vị thn  
linh (có thlà các vnhân thn hoc thiên thần), do chính trí tưởng tượng ca con  
ngưi to ra, và hcu mong các vthần linh đó bảo trvà có những tác động tt  
đến tương lai, đến vn mnh cuc sng ca mình. Do vy, phn Llà nguyên có và  
làm ht nhân trung tâm ca mi lhi dân gian. Hiu một cách đầy đủ thì có lễ  
mói có hi, và lgivai trò quyết định cho stn ti và phát trin ca lhi  
truyn thng nói chung.  
2. Các chức năng của lễ hội  
Bên cạnh đó, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, môi trường lễ hội chính là nơi  
giúp các cộng đồng bảo tồn và phát huy các truyền thống văn hóa của mình một  
cách tốt nhất. “Lễ hội không chỉ là tấm gương phản chiếu nền văn hóa dân tộc, mà  
còn là môi trường bảo tồn, làm giàu và phát huy nền văn hóa dân tộc ấy... Điều này  
càng trở nên quan trọng trong điều kiện xã hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa và  
toàn cầu hóa hiện nay, khi mà sự nghiệp bảo tồn, làm giàu và phát huy văn hóa  
truyền thống dân tộc trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, thì làng xã và lễ hội Việt  
Nam lại gánh một phần trách nhiệm là nơi bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc  
văn hóa dân tộc!”(2). Thực tế cho thấy, nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống, trò  
chơi dân gian như múa rối, chèo, quan họ,… hay các đội vật, võ… có dịp được  
mời, biểu diễn ở các địa phương; người dân vì thế mới có dịp được thưởng thức  
các loại hình nghệ thuật này trong môi trường diễn xướng phù hợp. Có thể nói  
không quá rằng, nếu không có các lễ hội truyền thống thì nguy cơ mai một các loại  
8
hình nghệ thuật truyền thống và trò chơi dân gian còn cao hơn so với những gì  
chúng ta đang chứng kiến.  
Kích thích phát triển kinh tế xã hội của nhiều địa phương: Bối cảnh kinh tế  
xã hội mới đã mang lại cho các lễ hội truyền thống những chức năng mới. Một  
trong những chức năng đó là nhân tố kích thích sự phát triển kinh tế xã hội của địa  
phương. Ngoài ra, phải thừa nhận rằng hàng loạt lễ hội được mở ra không chỉ  
thuần túy vì lý do văn hóa, tâm linh mà còn vì cả những lý do kinh tế. Những lễ  
hội lớn như lễ hội chùa Hương, Bà Chúa Kho, Đền Hùng cũng được xem như  
những tác nhân kích thích sự phát triển kinh tế của cộng đồng. Nhiều địa phương  
còn mong muốn mình trở thành thành phố lễ hội để thu hút khách du lịch, kích  
thích sự phát triển các ngành kinh tế. Đối với các lễ hội nhỏ, thậm chí chỉ ở qui mô  
cấp làng, người ta cũng nghĩ đến những yếu tố như vậy.  
Đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân các địa phương; người dân góp  
phần trong quá trình sáng tạo nên đời sống văn hóa của chính mình: Sau nhiều năm  
dồn sức cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, phát triển kinh tế, giờ đây, nhiều cộng  
đồng dân cư Việt Nam nói chung, đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, đã có đủ thời gian,  
vật lực và tài lực để chú ý hơn đến nhu cầu sinh hoạt tinh thần của mình. Mỗi khi  
làng tổ chức lễ hội truyền thống, người dân vui vẻ sống trong không khí ngày hội  
cả năm mới có một lần; những người con xa xứ cũng có dịp nhớ và về thăm quê  
hương, nơi gốc tích sinh thành của bản thân; và cũng là thời điểm để người địa  
phương đón bạn bè nơi khác đến thăm quê hương mình. Lễ hội truyền thống thực  
sự đã làm phong phú tinh thần của người dân, bù đắp cho các sinh hoạt văn hóa  
hàng ngày của họ, vốn quá lệ thuộc vào các phương tiện truyền thông, hay các yếu  
tố bên ngoài. Bên cạnh đó, điều đáng lưu ý hơn là, sinh hoạt lễ hội do chính cộng  
đồng địa phương sáng tạo và chính họ là người hưởng thụ. Từ bao đời nay vẫn thế,  
hàng năm, người dân các cộng đồng làng vẫn tự tổ chức các lễ hội truyền thống.  
Họ coi đó vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của cộng đồng mình. Quy tắc này  
dường như bất biến qua thời gian, và trong công tác quản lý lễ hội, đây là một yếu  
tố quan trọng, cần phải xem xét đến trong bất kỳ việc ban hành văn bản quản lý  
nào.  
Tăng tình đoàn kết cộng đồng, góp phần xây dựng nếp sống văn hóa: Tổ  
chức lễ hội truyền thống góp phần làm cho người dân ý thức về cộng đồng nhiều  
hơn. Lễ hội Đền Hùng giúp người dân ý thức về nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Hội  
Gióng hay lễ hội về các anh hùng lịch sử giúp người dân ý thức về một truyền  
thống đấu tranh anh dũng của cộng đồng, dân tộc. Tất cả các lễ hội, dù quy mô  
khác nhau, song đều giúp người dân duy trì ý thức về cộng đồng mình đang sống,  
và vì vậy, giúp họ ý thức về trách nhiệm của mình đối với cộng đồng. Không phải  
ngẫu nhiên, trong các lễ hội, các hoạt động từ thiện, góp công, góp của trùng tu xây  
dựng di tích,… nhận được sự quan tâm của nhiều tầng lớp nhân dân đến như vậy.  
Người dân ý thức về việc giữ gìn di sản: “Hội hè được mở lại, cùng với việc  
xếp hạng các di tích lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, tạo cho quần chúng nhân dân có ý  
thức giữ gìn, bảo vệ, trân trọng những cơ sở vật chất mà tiền nhân để lại; tạo cho  
các cấp, các ngành, các đoàn thể ở địa phương chăm lo, tu bổ tôn tạo các di tích  
9
lịch sử, các công trình văn hóa của dân tộc” (3). Người dân ở các địa phương đã  
phát triển phong trào xây dựng lại các thiết chế văn hóa cổ truyền như đình, đền,  
chùa, miếu…, phục hồi lễ hội truyền thống để khẳng định bản sắc của cộng đồng  
mình. Điều này xét trên góc độ tích cực, có thể thấy, chính tâm lý tự tôn cộng đồng  
đã góp phần phục hồi lễ hội, giúp người dân ý thức hơn về di sản của cộng đồng  
mình và cố gắng gìn giữ và phát huy những di sản ấy theo cách riêng của họ.  
Chương 3: Tổ chức và quản lý hoạt động lễ hội.  
* Mục đich: Xây dựng được kế hoạch tổ chức một lễ hội và biết cách quản  
lý một hoạt động lễ hội tại địa phương nơi mình cư trú  
* Nội dung chính  
1.Xây dựng kế hoạch tổ chức lễ hội.  
UBND QUẬN HỒNG BÀNG  
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM  
TRƯỜNG MẪU GIÁO THƯỢNG LÝ  
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc  
Số: 05/KH-MGTL  
Thượng Lý, ngày 30 tháng 8 năm 2018  
KẾ HOẠCH TỔ CHỨC VÀ THỰC HIỆN CÁC NGÀY LỄ HỘI  
Năm học 2018 - 2019  
Thực hiện nhiệm vụ năm học 2018 - 2019;  
Căn cứ vào điều kiện thực tế của nhà trường. Trường MG Thượng Lý xây dựng kế hoạch tổ chức và thực  
hiện các hoạt động lễ hội năm học 2018 -2019 cụ thể như sau:  
I. Mục đích:  
- Tổ chức các ngày lễ hội là một hoạt động giáo dục cần thiết trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm  
non, thông qua hoạt động lễ hội trong năm sẽ góp phần phát triển trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ đặc biệt hình thành và  
phát triển tình cảm kỹ năng XH cho trẻ.  
- Đáp ứng nhu cầu xúc cảm, giao lưu và là một trong những hoạt động giáo dục hấp dẫn. Việc tổ chức lễ hội  
được coi là một trong những phương tiện giáo dục nhiều mặt cho trẻ ở trường mầm non và cũng là một trong những  
nội dung đổi mới chương trình giáo dục mầm non hiện nay.  
- Trẻ hiểu được ý nghĩa về một số ngày hội ngày lễ gần gũi và thể hiện xúc cảm, tình cảm và thái độ của mình  
trong các ngày lễ hội đó.  
- Tổ chức các ngày hội ngày lễ mang tính giáo dục cao, trong đó giáo dục trẻ tình cảm đạo đức, tình yêu quê  
hương đất nước, lòng biết ơn và yêu mến những người đã quan tâm chăm sóc trẻ.  
II. Yêu cầu:  
- Nội dung lễ hội phù hợp, mang bản sắc, truyền thống của dân tộc.  
- Nội dung lễ hội gần gũi, có ý nghĩa phù hợp với mục đích của ngày hội. Phù hợp với điều kiện thực tế của  
đơn vị, địa phương. Đảm bảo tính thẩm mỹ, giáo dục hình thành tình cảm và kỹ năng xã hội cho trẻ.  
- 100% trẻ được tham gia chủ động, tích cực.  
III. Một số ngày lễ hội được tổ chức trong năm học 2018 – 2019:  
1. Ngày hội đến trường của bé  
2. Bé vui tết trung thu  
3. Ngày thành lập liên hiệp phụ nữ VN 20/10  
4. Ngày nhà giáo VN 20/11  
5. Ngày thành lập quân đội nhân dân việt nam 22/12  
6. Tết Nô en  
7. Tết Nguyên đán – tiệc bufer  
8. Ngày Quốc tế phụ nữ 8/3  
9. Liên hoan Bé khỏe ngoan  
10  
10. Ngày Quốc tế thiếu nhi 1/6” và “Ngày lễ ra trường cho trẻ 5 tuổi”.  
IV. Tổ chức thực hiện:  
Tháng  
Nội dung  
Biện pháp thực hiện  
Thời gian& người thực  
hiện  
Kết quả  
Tổ chức Ngày - Xây dựng ND kịch bản ngày Tuần II T8/2017  
hội. - HPCM + TT,TP các  
Tháng  
9+10 / 2018  
hội  
đến  
- Họp TT,TP phân công GV khối và GV chịu trách  
chịu trách nhiệm xây dựng và nhiệm VN  
rèn các tiết mục VN chào mừng  
trường của bé  
, Phân công GV mạnh dạn, tự  
tin trên SK tham gia dẫn chương  
trình – Phân công GV phụ trách  
chương trình văn nghệ  
- HPCM  
- Định hướng cho GV chọn  
nhạc có ý nghĩa liên quan đến  
ngày hội và xây dựng1 số ĐT,  
nhịp điệu đẹp mắt; đội hình phù  
hợp.  
- Tổng duyệt chương trình  
Dự kiến:  
-
Sáng 8h15 ngày  
4/9/2018  
- Địa điểm: Sân trường  
- Tổ chức chương trình “Ngày Sáng 8h  
hội đến trường của bé” thứ ba ngày 05/9/2018  
- Địa điểm: Sân trường  
- 100% trẻ tham gia.  
-
Tổ chức - Xây dựng KH, ND chương HPCM+TT,TP các khối.  
chương  
trình, kịch bản về tết trung thu.  
- TT,TPCM  
trình Bé vui - XD các tiết mục văn nghệ  
- HPCM+GV  
- Phân công nhiệm vụ  
tết trung thu  
- Dự kiến:  
- Tổng duyệt chương trình  
+ Thời gian tổng duyệt  
vào  
thứ  
ba  
ngày  
18/9/2018  
+ Địa điểm: sân trường  
+ 100% trẻ tham gia  
- Tổ chức chương trình Bé vui + Thời gian tổ chức vào  
tết trung thu thứ năm ngày 20/9/2018  
- Ngày thành - Triển khai nội dung chào - TTCM , GV các lớp.  
lập Hội liên mừng tích hợp trong chương  
hiệp phụ nữ trình GDMN theo chủ đề thông  
VN 20/10.  
qua sinh hoạt chuyên đề tại tổ  
nhóm Chuyên môn.  
- Tuyên truyền, trang trí nhằm  
Giáo dục ý nghĩa ngày lễ đến trẻ  
thông qua trò chuyện, múa hát,  
tạo sản phẩm tặng bà, mẹ, chị và  
em gái….  
11  
- Lên tiết tốt - Triển khai nội dung chào - TTCM , GV các lớp.  
chào mừng lễ mừng tích hợp trong chương  
Tháng 11/2018  
Kỷ niệm Ngày trình GDMN theo chủ đề thông  
nhà giáo Việt qua sinh hoạt chuyên đề tại tổ  
Nam 20/11  
nhóm CM  
- Tuyên truyền, trang trí nhằm  
Giáo dục ý nghĩa ngày nhà giáo  
VN đến trẻ thông qua trò  
chuyện, múa hát, tạo sản phẩm  
tặng thầy cô giáo.  
- Tổ chức 100% GV lên tiết tốt  
chào mừng 20/11/2018.  
-
Tổ chức - Xây dựng KH, ND chương HPCM+TT,TP các khối.  
Tháng 12/2018  
chương  
trình: “Ngày  
hội  
chiến sĩ Tí  
hon”  
trình, kịch bản về ngày hội  
những chiến sĩ Tí hon tạo sân  
chơi PT vận động cho trẻ.  
- Hình thức:  
+ Tổ chức theo các khối tuổi  
- XD các tiết mục văn nghệ  
chào mừng và bài tập tích hợp  
nội dung PTVĐ cho trẻ.  
những  
-
HPCM+GV  
và  
TT,TPCM  
- Tổng duyệt chương trình  
Dự kiến:  
+ Thời gian tổng duyệt  
vào thứ tư ngày  
19/12/2018  
- Tổ chức chương trình Ngày + Thời gian tổ chức vào  
thứ sáu ngày 21/12/2018  
hội những chiến sĩ Tí hon  
- Tạo không khí vui mừng phấn TTCM, GV các lớp  
khởi cho trẻ trong dịp lễ giáng  
sinh: tuyên truyền , trang trí ,  
tạo SP tặng bạn, tặng người thân  
trong dịp giáng sinh.  
Tết Nô en  
- ND lồng ghép tích hợp trong  
thực hiện chương trình GDMN  
theo chủ đề.  
Tổ chức cho - Tuyên truyền nội dung, ý Tổ chức tạị lớp - Tích  
trẻ ăn tiệc nghĩa tết cổ truyền trong các hợp chủ đề: tết và mùa  
Tháng 1+2/  
2019  
bufer  
mừng buổi SH chủ đề tại tổ nhóm  
xuân  
hội xuân  
- Trang trí, tạo MT về ngày tết  
- Tổ chức cho - Giới thiệu cho trẻ những  
trẻ tham quan phong tục tập quán tốt đẹp trong GV các lớp Tích hợp  
dã ngoai ngày Tết: chúc tết, mừng thọ trong chương trình  
người cao tuổi; mặc quần áo GDMN theo chủ đề  
đẹp; tổ chức các trò chơi dân  
gian; thời tiết mùa xuân cây cối  
đâm hoa nẩy lộc, không khí  
12  
trong lành, vui vẻ; mỗi dân tộc  
có  
- Tổ chức tiệc bufer  
100% trẻ tham gia  
- Tổ chức cho trẻ tham quan dã Trẻ và phụ huynh tham  
ngoại theo KH gia  
Ngày quốc tế - Họp Tổ chuyên môn, thống Giáo viên thực hiện tại  
Tháng 3/2019  
phụ nữ  
nhất nội dung được tích hợp lớp, tích hợp ND chương  
trong HĐGD theo chủ đề. Mục trình GDMN  
đích:  
- GV tổ chức cho 100%  
- Tuyên truyền, giáo dục ý trẻ được trải nghiệm tạo  
trẻ ngày 8/3 ngày vui của phụ sản phẩm tặng người  
nữ.  
thân: vẽ tranh, xé,dán,  
-Thông qua việc tổ chức ngày nặn hoa…  
lễ, giáo dục sự kính trọng, lòng  
biết ơn và tình cảm của trẻ với  
ba mẹ, cô giáo và tôn trọng các  
bạn gái.  
Tổ chức: Liên - Xây dựng KH, thời gian tổ HPCM+TT,TP các khối.  
Tháng 4/2019  
chức, Nội dung bài tập, kịch - TT,TP  
hoan BKN  
bản, tiết mục văn nghệ chào  
mừng.  
- TT,TPCM  
- Triển khai KH đến 100% giáo  
viên  
- Phân công nhiệm vụ  
- HPCM+ TT,TPCM  
- Dự kiến:  
+ Thời gian tổng duyệt  
- Tổng duyệt và Tổ chức và tổ chức vào tuần IV –  
chương trình tháng 4 /2019  
Liên hoan tết - Xây dựng KH, thời gian tổ HPCM+TT,TP các khối.  
thiếu nhi 1-6 chức, Nội dung, kịch bản - TT,TP + GV  
và chia tay các chương trình, tiết mục văn nghệ  
Tháng 5/2019  
bé 5 tuổi lên chào mừng  
lớp 1  
- Triển khai đến 100% giáo  
viên  
- Dự kiến thời gian tổ  
- Phân công GV dẫn chương chức vào tuần IV - tháng  
trình  
5 năm 2019  
- Phân công nhiệm vụ  
- Tổng duyệt  
- Tổ chức liên hoan và tiệc  
buffer tại trường  
I. KẾ HOẠCH BỔ SUNG:  
………………………………………………………………………………………..…………………………………  
……………………………………………..………..…………………………………………………………………  
………..……………………………………………………………………………………  
Nơi nhận:  
- BGH;  
- TT,TPCM;  
- Lưu HSCM;  
- Lưu VT.  
13  
2. Quản lí hoạt động lễ hội.  
Quản lý lễ hội là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách. Càng cấp bách  
hơn khi sự “bùng nổ” của lễ hội trong những năm gần đây đã tác động mạnh  
mẽ đến đời sống văn hóa, xã hội.  
Xu hướng biến đổi của lễ hội truyền thống các dân tộc ít người trong hơn 20  
năm mở cửa và cải cách kinh tế  
Lễ hội hiện nay có xu hướng biến đổi mạnh mẽ, bên cạnh lễ hội cổ truyền  
đang bị tác động bởi nhiều yếu tố kinh tế xã hội đương đại nên biến đổi, còn xuất  
hiện việc tổ chức các sự kiện, festival hiện đại. Vì vậy, khái niệm lễ hội cổ truyền  
chỉ là khái niệm tương đối vì hầu hết các thành tố, thậm chí cả chức năng của lễ  
hội cũng thay đổi.  
Về thời gian tổ chức lễ hội: có hai xu hướng biến đổi. Một số lễ hội làng, lễ  
hội cổ truyền ở miền núi không kéo dài về thời gian. Trước ki, một Lễ hội Gầu Tào  
vùng người Hmông, một Lễ hội Roóng Poọc vùng người Giáy, Lễ hội Lồng Tồng  
(xuống đồng) vùng người Tày thường tổ chức từ 3 đến 5 ngày thì nay chỉ tổ chức  
trong nửa ngày hoặc kéo dài đến hai, ba ngày. Nhưng mặt khác có một số lễ hội cổ  
truyền kéo dài hàng tháng hoặc vài tháng trời như Hội Chùa Hương, Hội Bà Chúa  
Xứ, Hội Đền Hùng,...  
Không gian lễ hội cũng mở rộng. Trước đây các hội làng chỉ được tổ chức ở  
một không gian nhất định trong làng và phạm vi, quy mô tổ chức cũng chỉ của  
làng. Nhưng hiện nay, do nhiều yếu tố (do quảng bá du lịch, do tâm lý muốn vượt  
trội của các nhà lãnh đạo địa phương,...) nên quy mô của các hội làng cũng được  
mở rộng cả về không gian và thời gian. Nhiều lễ hội không còn là lễ hội làng mà  
đang có xu hướng biến thành lễ hội vùng, thậm chí là lễ hội chung của huyện. Đối  
tượng người đến dự hội không chỉ là dân làng, không chỉ là một dân tộc mà là  
nhiều dân tộc, có cả du khách nước ngoài tham dự.  
Lễ hội Gầu Tào ở Pha Long, huyện Mường Khương, Lào Cai trước đây chỉ  
là lễ hội của vùng Pha Long nhưng ngày nay đã trở thành lễ hội chung của người  
Hmông ở các huyện miền Đông tỉnh Lào Cai. Lễ hội Gầu Tào không chỉ thu hút  
người Hmông ở huyện Mường Khương, Bắc Hà ở Lào Cai mà còn thu hút người  
Hmông ở huyện Sín Mần, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang và cả cư dân người  
Hmông ở châu Vân Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc cũng như người Hmông ở  
vùng Thượng Lào và người Hmông phía Bắc Thái Lan về dự. Đối tượng người  
tham dự lễ hội càng ngày càng có xu hướng tăng nhanh. Năm 2000, Lễ hội Gầu  
Tào của người Hmông ở Pha Long chỉ có khoảng 500 người tham dự thì đến năm  
2011 đã có hàng vạn người tham dự.  
Lễ hội Chùa Hương đầu thế kỷ XXI thu hút được vài chục vạn người nhưng  
đến năm 2008 đã đón 1,3 triệu lượt khách và đến năm 2012 đón khoảng 2 triệu  
lượt khách. Một Lễ hội Roóng Poọc của người Giáy thôn Tả Van, huyện Sa Pa từ  
cuối thế kỷ XX trở về trước chỉ là hội làng, có vài trăm người tham dự nhưng đến  
nay đã trở thành lễ hội của cả vùng hạ huyện Sa Pa. Chủ nhân của lễ hội trước đây  
là người Giáy thì đến giờ bên cạnh người Giáy còn có cộng đồng người Hmông,  
Dao, Tày cùng tham gia tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí trong lễ hội.  
14  
Đặc biệt, sau khi được quảng bá trên các trang web du lịch thì Lễ hội Roóng Poọc  
đã trở thành điểm đến của hàng trăm du khách với nhiều quốc tịch khác nhau. Như  
vậy, quy mô của lễ hội ngày càng mở rộng cả về số lượng người tham gia đã gây  
sự quá tải về không gian tổ chức lễ hội. Các cánh đồng tổ chức lễ hội xuống đồng  
cổ xưa hay các ngọn đồi tổ chức Lễ hội Gầu Tào của thế kỷ XX cũng như sân đình  
làng ở vùng đồng bằng đều trở nên quá tải khi đón hàng vạn du khách tham dự. Từ  
sự quá tải này đã nảy sinh hàng loạt những vấn đề bức xúc về vệ sinh môi trường,  
sự chen lấn xô đẩy, quá tải các dịch vụ ăn, nghỉ, hành lễ, về cách điều hành tổ chức  
(ban tổ chức bất lực trong tổ chức các chương trình lễ hội),...  
Chủ thể lễ hội: các lễ hội từ miền núi cho đến đồng bằng hiện nay đã có sự  
biến đổi về chủ thể tổ chức lễ hội. Trước đây trong các lễ hội làng cổ truyền, người  
dân thực sự là chủ thể của lễ hội. Cộng đồng người dân địa phương đều háo hức  
tập luyện hàng tháng trời để mong được tham gia gánh vác một việc nào đó, hoặc  
sắm một vai nào đó trong nhiệm vụ tổ chức lễ hội. Người được khiêng kiệu, rước  
lễ là một vinh dự cho cả phe, giáp, dòng họ. Các hội làng hầu hết do chủ làng và  
hội đồng quản lý của làng thực hiện. Nhưng hiện nay, hầu hết các lễ hội ở làng  
quê, miền núi đều do chính quyền các cấp chỉ đạo sát sao. Lễ hội ở miền núi dù là  
lễ hội của một làng hay lễ hội của một số gia đình nhưng đều có chủ tịch hoặc phó  
chủ tịch xã đứng ra khai mạc, đọc diễn văn. Nhiều lễ hội đồng bằng, ban tổ chức  
thuê các công ty sự kiện, các đoàn nghệ thuật đứng ra dàn dựng chương trình, đứng  
ra làm dịch vụ tổ chức. Người dân, chủ thể của lễ hội, bị “gạt ra rìa” và chỉ đóng  
vai trò thụ động như các du khách. Thậm chí có tỉnh tổ chức festival nhưng từ việc  
trang trí khánh tiết, biểu diễn nghệ thuật, tổ chức các hoạt động đều không cần sự  
tham gia của ngành văn hóa, thể thao. Hoặc nếu ngành văn hóa được tham gia thì  
cũng với tư cách đi làm thuê cho các công ty sự kiện. Như vậy, vai trò của cộng  
đồng địa phương, vai trò của người dân – chủ thể sáng tạo của lễ hội cổ truyền, đã  
bị đánh mất.  
Lễ hội cổ truyền đang có xu hướng biến đổi cả về mục đích, chức năng và  
cấu trúc. Mục đích của các hội làng là cầu người yên vật thịnh, lễ hội được tổ chức  
nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh, nhu cầu vui chơi, giải trí của người dân trong thời  
điểm nông nhàn. Nhưng hiện nay, do tác động của cơ chế thị trường, lễ hội lại có  
mục đích quảng cáo cho các thành thị và địa phương, hoặc là nơi cầu may rủi, cầu  
lợi lộc cho cá nhân, cầu thăng quan tiến chức,... Biến đổi của lễ hội còn thể hiện ở  
sự nghèo nàn, đơn điệu trong các hình thức giải trí nhưng lại cực đoan, “nở rộ”  
trong các hình thức tín ngưỡng, mê tín. Quan hệ giữa ban tổ chức lễ hội và du  
khách thập phương là quan hệ dịch vụ, tận thu được nhiều nguồn tiền, dẫn đến tình  
trạng “chặt chém” ở các dịch vụ ăn nghỉ.  
Lễ hội hiện nay có phổ biến được xem xét dưới góc độ cấu trúc. Lễ hội có  
hai phần: phần lễ và phần hội (dẫu sao cách xem xét dưới góc độ cấu trúc như vậy  
chưa hẳn thỏa đáng vì bản chất phần hội cũng đan xen, hướng theo phần lễ). Theo  
GS.TS Ngô Đức Thịnh: “Tính tổng thể của lễ hội không phải là thực thể “chia  
đôi” như người ta đã quan niệm, mà nó nảy sinh và tích hợp các hiện tượng văn  
hóa phát sinh để tạo nên một tổng thể lễ hội... Không có một loại lễ hội nào mà  
15  
không có nghi lễ giữ vai trò gốc rễ”. Nhưng hiện nay, xuất hiện rất nhiều hình thức  
mít – tinh kỷ niệm không có “phần hội”, không có sự tham gia của cộng đồng mà  
chỉ là sự kiện của chính quyền cũng gọi là lễ hội. Hoặc có sự kiện chỉ mang tính  
hội hè nhằm quảng bá tới du khách, người mua hàng mà vẫn gọi là lễ hội... Như  
vậy, cấu trúc của lễ hội cũng biến dạng.  
Các giải pháp quản lý lễ hội  
Trước thực trạng các xu hướng biến đổi của lễ hội đang diễn ra nhanh chóng  
như hiện nay, xuất hiện hai luồng dư luận trái chiều. Một số cơ quan thông tin đại  
chúng cho rằng việc tổ chức và quản lý lễ hội vô cùng lộn xộn, mất bản sắc văn  
hóa dân tộc, gây ra nhiều hậu quả tai hại và đề xuất các biện pháp mang tính hành  
chính như “cấm”, “bỏ”. Thậm chí có người chưa hiểu rõ xu hướng biến đổi của lễ  
hội là một yêu cầu khách quan khi chuyển sang cơ chế thị trường nên sốt ruột đề ra  
các giải pháp mang tính chất chữa cháy là chính. Hoặc cũng có khuynh hướng coi  
nhẹ vai trò quản lý nhà nước, cần để cho người dân tự do làm chủ, tự do tổ chức lễ  
hội. Cả hai luồng dư luận như vậy đều không đánh giá đúng thực tế. Từ kinh  
nghiệm tổ chức và quản lý lễ hội ở các tỉnh, chúng tôi đề xuất một số giải pháp như  
sau:  
Về quan điểm: Cần nhận thức sự biến đổi của lễ hội cổ truyền cũng như  
xuất hiện nhiều loại hình tổ chức sự kiện mới là một yếu tố khách quan trong đời  
sống văn hóa hiện nay. Vì thế không nên có quan điểm cứng nhắc, lấy các nguyên  
lý tổ chức lễ hội truyền thống làm khuôn mẫu cho việc tổ chức các lễ hội, tổ chức  
các sự kiện như hiện tại. Ở lĩnh vực này cần bám sát thực tiễn, tổng kết thực tiễn  
trên cơ sở lý luận về quản lý văn hóa. Trong đó cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò chủ  
thể của cộng đồng người dân tổ chức lễ hội. Người dân phải được tham gia các quá  
trình tổ chức lễ hội, phải được trao quyền tổ chức lễ hội hiệu quả. Đồng thời cũng  
không coi nhẹ việc quản lý của nhà nước đối với lễ hội.  
Xây dựng mô hình tổ chức quản lý các lễ hội truyền thống hiệu quả  
Hiện nay, có nhiều nhà khoa học cho rằng nên trả lại lễ hội cho dân? Vậy có cần tổ  
chức lễ hội không? Các mô hình quản lý như thế nào? PGS Từ Thị Loan (2012)  
đưa ra một số mô hình, chúng tôi đề xuất một số vấn đề cụ thể như sau:  
- Mô hình quản lý, và tổ chức lễ hội do cộng đồng tự quản, có sự giám sát  
của nhà nước ở cơ sở.  
Đây là mô hình quản lý và tổ chức lễ hội bước đầu có sự tham gia của nhà  
nước. Chủ thể tổ chức của các lễ hội này nhất thiết phải là người dân trong cộng  
đồng. Vai trò quản lý của nhà nước thể hiện ở chỗ: giám sát và chỉ đạo, giải quyết  
kịp thời những vướng mắc xảy ra. Mặt khác, vai trò quản lý nhà nước cũng cần  
được phân cấp dần tới cộng đồng và thể chế hóa bằng hệ thống hương ước, quy  
ước chung của làng. Thậm chí, có thể sử dụng và phát huy vai trò của già làng,  
trưởng bản hoặc người có uy tín trong dòng họ, cộng đồng. Đồng thời, vai trò của  
quản lý của nhà nước cũng thể hiện ở chỗ thường xuyên giám sát, theo dõi diễn  
biến của các lễ hội để nắm bắt những thay đổi trong đời sống tín ngưỡng của đồng  
bào để đảm bảo không có hiện tượng lợi dụng tín ngưỡng để thực hiện hình thức  
mê tín dị đoan hoặc xuyên tạc, truyền bá phản cách mạng. Đồng thời vai trò của  
16  
nhà nước cũng thể hiện ở việc đảm bản trật tự, an ninh xã hội trong thời gian tổ  
chức lễ hội. Kinh phí tổ chức những lễ hội này hoàn toàn do nhân dân đóng góp.  
- Mô hình kết hợp vai trò tự quản của cộng đồng với sự giúp đỡ của nhà  
nước  
Đối với một số lễ hội của làng, liên làng có quy mô ngày càng mở rộng và  
đang được nâng lên thành các lễ hội để phục vụ du lịch. Ở một số địa phương, cần  
có xây dựng mô hình phối hợp chặt chẽ giữa vai trò của cộng đồng với vai trò quản  
lý của nhà nước.  
Trong mô hình này, các hoạt động lễ và hội vẫn do cộng đồng quyết định và thực  
hiện là chính, tuy nhiên, đã có sự chỉ đạo, định hướng và tham gia của các ban,  
ngành chính quyền và đoàn thể. Kinh phí tổ chức lễ hội cũng được Nhà nước tài  
trợ một phần. Vai trò của nhà nước thể hiện rõ trong vấn đề đảm bảo an ninh, trật  
tự, an toàn thực phẩm…  
- Mô hình quản lý, tổ chức lễ hội có sự chỉ đạo chặt chẽ của nhà nước  
Hiện nay, nhiều sự kiện văn hóa tổ chức theo quy mô lễ hội như lễ hội quảng bá  
sản phẩm, lễ kỷ niệm, năm du lịch quốc gia… Các lễ hội này đều có Ban tổ chức  
do lãnh đạo chính quyền (tỉnh, huyện, thành phố…) làm trưởng ban. Cả bộ máy  
chính quyền tổ chức lễ hội từ khâu kịch bản, luyện tập, dàn dựng, khai hội, màn bế  
mạc… Loại hình này tổ chức có vẻ hoành tráng, nhưng người dân ít được tham gia  
hoặc tham gia với vai trò thụ động, có “lễ” mà không thành “hội”.  
Về đào tạo nguồn nhân lực tổ chức, quản lý lễ hội  
Vấn đề tổ chức các sự kiện, các lễ hội hiện nay là vấn đề rất quan trọng.  
Nhưng thực trạng ở các tỉnh hiện nay, từ cấp cơ sở lên đến tỉnh (cả Bộ VHTTDL)  
đều rất thiếu đội ngũ cán bộ có khả năng về quản lý, chỉ đạo và trực tiếp tổ chức  
các sự kiện, các lễ hội. Chương trình tổ chức lễ hội chưa được giảng dạy thành một  
ngành học trong hệ thống trường cao đẳng cộng đồng, trường cao đẳng sư phạm và  
trường trung cấp văn hóa nghệ thuật. Ngay số cán bộ am hiểu về việc tổ chức lễ  
hội ở ngành VHTTDL rất ít. Hầu như hiện nay chưa có ai là chuyên gia về vấn đề  
này. Chỉ có một vài người có kinh nghiệm và khả năng tổ chức của ngành. Lớp trẻ  
chưa được đào tạo qua trường lớp và thực tiễn.  
Vì vậy, một nhiệm vụ cấp bách đối với ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch  
là phải tăng cường đào tạo nguồn nhân lực ở nhiều cấp độ khác nhau:  
Ở cấp tỉnh: Lựa chọn một vài cán bộ có khả năng cử đi học ở các viện  
nghiên cứu, các trường đại học, các công ty tổ chức sự kiện lớn. Nội dung học theo  
hai chuyên ngành cụ thể. Chuyên ngành thứ nhất là về Quản lý lễ hội (chuyên  
ngành này yêu cầu các chuyên viên phải có khả năng độc lập nghiên cứu, chỉ đạo  
thực tiễn, có khả năng tham khảo kinh nghiệm ở một số nước và ở các địa phương  
vận dụng vào thực tiễn, có khả năng tham mưu xây dựng các văn bản mang tính  
chất quản lý mang đặc thù). Chuyên ngành thứ hai là đào tạo các tác giả có khả  
năng viết kịch bản lễ hội, xây dựng chương trình, đề án lễ hội hoặc đào tạo ra các  
tổng đạo diễn tổ chức các sự kiện, đào tạo một số nhạc sĩ, biên đạo, họa sĩ có khả  
năng sáng tác nhạc, sáng tác múa, sáng tác các logo trang trí lễ hội... Đây là nhiệm  
vụ khó khăn, hiện nay trừ một vài thành phố đào tạo được vài cán bộ như vậy, còn  
17  
hầu hết các tỉnh chưa đào tạo được đội ngũ này. Những người này là những người  
có năng khiếu về quản lý, về thực hành nghệ thuật, sáng tạo nghệ thuật. Cho nên  
bước đầu cần lựa chọn ở các đoàn nghệ thuật, các trung tâm văn hóa, các tác giả có  
năng khiếu cử đi học nâng cao trình độ. Thậm chí có thể bố trí họ học việc, làm trợ  
lý cho các chuyên gia quản lý, tổ chức lễ hội ở các thành phố, các công ty sự kiện  
lớn.  
Ở cấp huyện cần tăng cường đào tạo, tập huấn cho đội ngũ quản lý lễ hội ở  
phòng văn hóa - thông tin. Kiến thức quản lý lễ hội là kiến thức tổng hợp. Xu  
hướng biến đổi lễ hội là xu hướng thường xuyên, tất yếu, vì vậy các cán bộ quản lý  
cũng cần được tập huấn, cập nhật thường xuyên. Mặt khác, ở các trung tâm văn  
hóa các huyện cần đào tạo các biên dạo múa, các diễn viên có khả năng làm MC  
(dẫn chương trình). Đội ngũ này cũng cần phải lựa chọn những người có năng  
khiếu từ cơ sở gửi đi đào tạo ở các trường đại học, các trung tâm tổ chức sự kiện để  
học tập.  
Ở cấp xã, phường: Cần tập huấn các nguyên tắc, quy chế, các kiến thức  
chuyên môn về quản lý lễ hội cho cán bộ chuyên trách ban văn hóa xã phường và  
các cán bộ đoàn thể. Ở đây cũng cần bồi dưỡng, tập huấn những người có khả năng  
làm MC, tổ chức các sự kiện, trang trí, sử dụng âm thanh, ánh sáng phù hợp... Tuy  
nhiên, ở cấp xã phường cần đặc biệt chú ý đến đội ngũ già làng, nghệ nhân dân  
gian, những thầy cúng am hiểu về lễ hội cổ truyền. Vận động những người này  
truyền dạy cho lớp trẻ trong cộng đồng. Việc truyền dạy cũng cần phải có chế độ  
đối với người truyền dạy và học trò. Nhưng quan trọng nhất là phải chọn những  
người có phẩm chất, tâm huyết với văn hóa của dân tộc mình. Bài học thực tiễn ở  
các xã vùng cao chỉ rõ nhiều nơi lễ hội cổ truyền bị biến mất hoặc biến dạng là do  
thiếu đội ngũ nghệ nhân dân gian, thầy cúng am hiểu các nghi lễ về lễ hội này. Do  
đó, việc đào tạo nghệ nhân, thầy cúng là việc làm cấp bách. Nhưng quá trình đào  
tạo những người này lại là quá trình tự học, tự đào tạo, nhà nước chỉ đóng vai trò  
hỗ trợ bằng chế độ, bằng chính sách cụ thể.  
4. Tài liệu tham khảo:  
[1]- Trần Văn Ánh, Nguyễn Xuân Hồng, Nguyễn Văn Hy (2002), Công  
tác xây dựng đời sống Văn hoá cơ sở, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.  
[2]- Viện Văn hoá dân gian (1992), Lễ hội cổ truyền, Nxb khoa học xã hội  
và nhân văn, Hà Nội  
[3] - Phan Khanh (1992), Bảo tàng- Di tích - Lễ hội, Nxb thông tin, Hà  
Nội.  
18  
pdf 18 trang Thùy Anh 13/05/2022 3840
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Tổ chức và quản lý lễ hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_to_chuc_va_quan_ly_le_hoi.pdf