Nguồn gốc áo dài Việt Nam

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
3
VĂN HÓA - LỊCH SỬ  
NGUỒN GỐC ÁO DÀI VIỆT NAM  
Trịnh Bách*  
1. Khái quát về kiểu dáng áo dài việt Nam trong lịch sử  
Việt Nam tọa lạc giữa hai nền văn hóa đồ sộ của thế giới là Trung Hoa và Ấn  
Độ. Từ văn hóa, tín ngưỡng, nghệ thuật,… chúng ta ít nhiều cũng bị ảnh hưởng  
của hai nền văn hóa này.  
Khi nói đến trang phục Việt Nam, đương nhiên chúng ta phải đề cập đến  
chiếc áo dài Việt. Và áo dài Việt Nam được biết đến dưới 2 dạng, Bốn thân (vẫn  
được quen gọi theo tiếng Hán Việt là áo Tứ thân) và Năm thân, hay còn gọi là Năm  
tà. Áo Tứ thân không có khuy cài, và mở dọc ở giữa 2 vạt trước. Áo Năm thân với  
vạt cài nút sang một bên, từ vài thập niên nay được cải tiến thành 2 thân, nhưng  
vẫn mang dạng 5 thân.  
1.1. Áo dài Tứ thân  
Áo Tứ thân của phụ nữ thôn quê Bắc Bộ xưa.  
Bên trái: thắt vạt (ảnh tư liệu). Bên phải: buông vạt (ảnh Manhhai).  
*
Hà Nội.  
4
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
Áo dài Tứ thân truyền thống có màu nâu sồng mộc mạc với yếm, váy của phụ  
nữ nông thôn Bắc Bộ đã không còn được thông dụng từ mấy chục năm nay. Bây  
giờ nó chỉ còn được nhìn thấy ở dạng cải biên, màu mè, qua nghệ thuật trình diễn.  
Áo dài Tứ thân là áo dạng ‘Trực lĩnh(mở dọc ở giữa thân trước) có tay ngắn,  
hẹp. Theo sách Tam tài đồ hội của triều Minh thì loại áo này được triều vua Tần  
Nhị Thế (230-207 TCN) bên Trung Hoa đặt thêm vào hệ thống triều phục, gọi là  
áo ‘Bối tử’.  
Theo quy tắc xưa, tay áo ngắn (chữ Hán là đoản tụ) là tay áo dài đến cổ tay.  
Tay áo dài (trường tụ) là tay áo khi rũ xuống dài bằng gấu áo, và thường là tay rộng.  
Trái: Áo Trách tụ Bối tử, trích tranh thời Tống (Bảo tàng Thượng Hải).  
Giữa: Áo Khuyết khóa Trách tụ thời Nguyên (Trung Quốc cổ đại nhân vật phục thức).  
Phải: Vạt áo ngắn của áo Bối tử tay hẹp thời Minh (Bảo tàng Cố cung Bắc Kinh).  
Áo Tứ thân hẹp tay gọi chung là áo ‘trách tụ’ (nghĩa là tay chẽn), như ‘Trách  
tụ Bối tử’, ‘Đối khâm Trách tụ’ (đối vạt, hẹp tay)… Sang đời Nguyên (1271-1368)  
dạng áo Tứ thân tay hẹp này trở thành trang phục rất phổ thông của nữ giới, được  
gọi là ‘Khuyết khóa Trách tụ’ (hẹp tay, không cài). Theo như các tranh vẽ còn sót  
lại thì cho đến lúc đó vạt áo vẫn còn dài đến gót chân. Trong tranh vẽ thời Minh  
(1368-1644) thì vạt áo đã ngắn như vạt áo dài Tứ thân của Việt Nam.  
Áo dài Tứ thân thời cổ của Trung Hoa rất giống áo dài Tứ thân ở Việt Nam,  
cả về hình dạng lẫn cách mặc, ví dụ như cùng mặc với váy. Nhưng phụ nữ thôn quê  
Việt Nam có vạt áo ngắn hơn để tiện việc lao động. Và khác với áo Tứ thân không  
có cổ bên phương Bắc, áo dài Tứ thân ở Việt Nam về sau có thêm cái cổ đứng (cổ  
xây) theo phong tục dấu tóc che cổ của người Việt.  
Vì được tạo ra ở nước Tần, áo dài Tứ thân không thể là sản vật của Việt Nam.  
Nhưng loại áo này có thể đã hiện hữu ở Việt Nam từ rất lâu, chắc phải đâu đó trong  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
5
thiên niên kỷ Bắc thuộc, và không thể sau thời Đường (618-907). Vì trong các cuộc  
chiến tranh dành tự chủ ở nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất; và trong các cuộc kháng  
chiến chống quân xâm lược Tống, Nguyên, Minh sau đó, người Việt không thể dễ  
dàng tiếp nhận ảnh hưởng văn hóa của quân xâm lược.  
Dựa theo sách An Nam chí lược viết năm 1335 của tác giả Lê Tắc, khi vua  
Nam Tống có ý muốn xua quân sang đánh Việt Nam để trả hận cho cuộc Bắc phạt  
của Lý Thường Kiệt, thi hào Tô Đông Pha đã buông lời can ngăn. Trong đó ông  
nhắc đến việc nếu không có lần ra quân của Mã Viện, thì dân chín quận (tức người  
Việt) vẫn khoác vạt áo về bên trái (tả nhậm). Nghĩa là cho đến thời Hai Bà Trưng  
dân mình vẫn khoác vạt áo sang bên trái. Đến sau lần xâm lược của Mã Viện thời  
Đông Hán năm 43 thì người Việt mới bị ép khoác vạt áo sang phải (hữu nhậm) theo  
phong tục của Trung Hoa. Và vì Tô Đông Pha nói việc khoác vạt áo sang trái đó  
là của dân chín quận, cho nên loại áo khoác vạt được nhắc đến phải là loại áo phổ  
thông của cả đại chúng.  
Áo dài Tứ thân khoác vạt sang bên phải đầu thế kỷ XX (ảnh tư liệu).  
Ngày xưa trước thời Đường khuy cài áo chưa được phát minh, người ta khép  
một vạt áo sang phủ lên vạt bên kia cho kín, rồi cố định bằng dây thắt lưng vải. Cho  
đến giữa thế kỷ XX phụ nữ nông thôn Bắc Bộ Việt Nam vẫn còn giữ được cái dạng  
áo Tứ thân nguyên sơ không có khuy cài đó. Và họ vẫn thường khoác vạt áo bên phải  
phủ lên vạt bên trái, rồi quấn dây lưng vải quanh bụng để giữ hai vạt lại với nhau.  
6
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
Chuyện khoác vạt áo sang phải hay trái rất quan trọng trong quan niệm cổ  
của văn hóa Trung Hoa. Sách Tư trị Thông giám của Tư Mã Quang có kể chuyện  
thời Chiến Quốc (476-221 TCN), vua Vũ Linh Vương nước Triệu bắt chước loại  
binh phục áo mặc với quần của người Hồ ở Tây Vực để kỵ binh nước Triệu mặc  
cho tiện trong việc cưỡi ngựa bắn cung. Áo của người Hồ khoác vạt về bên trái.  
Vua Triệu phải “văn minh hóa” loại áo này bằng cách đổi cho khoác vạt áo sang  
bên phải. Người Trung Nguyên vẫn gọi người Hồ là “loài tả nhậm”, nghĩa là “loài  
vạt áo trái”.  
Đây cũng là lần đầu tiên người Trung Nguyên biết đến việc mặc quần, mà  
chữ Hán xưa viết là ‘Khố’ (trong khi đó quần chữ Hán có nghĩa là váy). Việc mặc  
quần tuy thế vẫn bị người Trung Hoa thời cổ xem là thiếu văn minh, chỉ dành cho  
quân lính và giới nô tỳ. Câu ngạn ngữ “Hồ phục kỵ xạ”, nghĩa là “y phục người  
Hồ cưỡi ngựa bắn cung” (hàm ý việc mặc quần) ám chỉ điều đáng khinh bỉ. Dân  
Hán tộc luôn mặc váy với các loại lễ phục. Và điều này chỉ thay đổi khi người Mãn  
Châu chiếm được Trung Hoa.  
Trái: Áo Phi phong Bối tử, tranh vẽ thời Thanh (Bảo tàng Boston Fine Arts).  
Phải: Hình vẽ áo Phi phong Bối tử trong sách Tam tài đồ hội.(*)  
*
Phần dịch chú thích của sách: ‘Tức là (áo) Phi phong ngày nay. Theo Thực lục, vua Tần Nhị Thế ban  
chiếu quy định rằng ngoài triều phục nay thêm áo Bối tử. Quy chế như sau: Tay áo ngắn hơn tay của  
sam (tức áo đơn/áo lót). Thân áo dài bằng sam nhưng rộng hơn. Đến đời Tống thì tay áo dài bằng váy  
và rộng hơn của sam’.  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
7
Áo Bối tử Tứ thân được nới tay rộng và dài ra dưới thời Tống (1127-1279),  
thành áo ‘Trường tụ Bối tử’. Rồi được cải biên thêm thời Minh (1368-1644) với  
cổ áo hình chữ nhật có cạnh dưới cắt thẳng ngang, và được gọi là áo ‘Phi phong’.  
Dưới thời Thanh người Hán vẫn mặc áo Phi phong nhưng người Mãn Châu không  
mặc áo này. Trong khi đó áo Phi phong được triều đình Việt Nam các thời Lê,  
Nguyễn sử dụng. Và người Việt gọi nôm na áo này là áo ‘Nhật bìnhhay áo ‘Mệnh  
phụ’. Hiện nay ở Việt Nam áo Mệnh phụ chỉ còn được dùng làm áo cưới của cô  
dâu. Và các tăng, ni Phật giáo ở nước ta cũng mặc áo Nhật bình. Nhưng áo Mệnh  
phụ tứ thân bây giờ mặc với quần theo phong cách của triều Nguyễn, chứ không  
mặc với váy như áo dài Tứ thân tay hẹp dân dã ngày xưa.  
1.2. Áo dài Năm thân  
Áo dài Năm thân thuộc loại thụ lĩnh (cổ tròn dựng đứng). Về áo dài Năm thân  
thì có những chi tiết lịch sử cần được chú ý. Trước hết, theo sử gia Phan Khoang  
cho biết trong sách Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, thì tương truyền Đào Duy  
Từ (1572-1634) trong lúc lập kế chống lại họ Trịnh ngoài Bắc đã khuyên chúa Hy  
Tông Nguyễn Phúc Nguyên đổi cách ăn mặc của dân chúng xứ Đàng Trong cho  
khác biệt hẳn với xứ Đàng Ngoài. Như bỏ nón thượng đội nón chóp, bỏ áo Tứ thân  
phơi yếm mà mặc áo Năm thân cài khuy, cũng như bỏ váy để mặc quần.  
Trái: Nón thượng (các loại nón quai thao, nón thúng, nón chân tượng…).  
Phải: Nón chóp (các loại nón lá, nón bài thơ, nón lính…). Ảnh tư liệu.  
Chi tiết lịch sử thứ hai có thể liên quan đến chiếc áo dài Năm thân là từ quyển  
sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn viết khi ông làm Hiệp trấn Thuận Hóa,  
sau khi Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc của triều đình Đàng Ngoài chiếm được  
Thuận Hóa từ chúa Nguyễn năm 1776. Những gì Lê Quý Đôn viết trong Phủ biên  
tạp lục đã khiến nhiều người kết luận rằng chính chúa Thế Tông Nguyễn Phúc  
Khoát của xứ Đàng Trong khi xưng vương năm Giáp Tý (1744) đã thay đổi cách  
ăn mặc của người dân Nam Hà, và tạo ra chiếc áo dài Năm thân.  
8
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
Nguyên ủy là trong sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn có đoạn: “Năm  
Cảnh Hưng thứ 5, Giáp Tý, Nguyễn Phúc Khoát nghe người Nghệ An truyền câu  
sấm: “Tám đời trở về Trung Nguyên”, thấy từ Đoan Quốc công đến nay vừa đúng  
8 đời, bèn xưng vương hiệu, lấy thể chế áo mũ trong ‘Tam tài đồ hội’ làm kiểu  
mới, áo đều dùng vóc đoạn, người sang thì dùng mãng bào thủy ba, mũ thì trang  
sức bằng vàng bạc. Lại hạ lệnh cho trai gái hai xứ (Thuận, Quảng) đổi sang dùng  
áo quần Bắc quốc để tỏ sự biến đổi; đến như khiến phụ nữ đều mặc áo ngắn hẹp  
tay như áo đàn ông thì Bắc quốc không có như thế. Trải hơn 30 năm, người ta đều  
tập quen, quên cả tục cũ”.  
Đây là tất cả những gì Lê Quý Đôn viết về việc thay đổi trang phục xứ Đàng  
Trong của chúa Nguyễn Phúc Khoát năm 1744. Và người ta suy từ đoạn viết này  
ra rằng chúa Nguyễn Phúc Khoát đã tạo ra cái áo dài Năm thân ngày nay.  
Sách Tam tài đồ hội của đời Minh, Trung Quốc, có 3 tập viết về các lễ phục  
của triều Minh. Các lễ phục của các triều Lê - Nguyễn Việt Nam về sau vẫn theo  
thể chế lấy ra từ sách này chứ không theo thể chế của nhà Mãn Thanh. Về áo tay  
hẹp (trách tụ) thì trong sách liệt kê một cái áo dài tay hẹp của phái nam có cổ tròn  
(bàn lĩnh, không có cổ đứng) được gọi là ‘trách tụ sam’. Tay áo trách tụ sam hẹp  
hơn tay áo thụng, nhưng rộng hơn tay áo dài Việt Nam, và nách áo rộng gần như  
nách áo thụng. Phần trang phục của sách Tam tài đồ hội không có chỗ nào nhắc  
đến áo ngắn.  
Trái: ‘Trách tụ sam’ trong sách Tam tài đồ hội.  
Phải: Một cô Xẩm mặc áo Trách tụ Đoản sam ở Nha Trang (ảnh Gabrielle Vassal, 1905).  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
9
Còn như cái áo ngắn có tay hẹp được Lê Quý Đôn nhắc đến trong đoạn văn này  
thì nguyên văn chữ Hán trong sách Phủ biên tạp lục viết rõ là ‘Trách tụ đoản y’ (áo  
ngắn hẹp tay), cho nên không thể là áo dài (tức là trường y hay trường sam) được.  
Hiện nay ở nước ta vẫn có các loại áo ngắn hẹp tay như áo cánh, áo bà ba…  
Bên cạnh đó cho đến giữa thập niên 1970, các gia đình người Việt giàu sang ở Sài  
Gòn ưa nuôi các phụ nữ người Hoa, gọi là Xẩm, để giúp việc nhà hay trông trẻ em.  
Những phụ nữ Xẩm này vẫn mặc quần với áo ngắn hẹp tay của phụ nữ Hán tộc  
đời Thanh, mà họ gọi theo tiếng Quảng Đông là ‘tủn xám’, tức là Đoản sam. Loại  
y phục này rất phổ biến ở Chợ Lớn thời đó. Chắc đây mới là những dạng áo ngắn  
hẹp tay được nhắc đến trong dụ của chúa Nguyễn Phúc Khoát.  
Rồi sách Phủ biên tạp lục viết tiếp: “Năm Bính Thân (1776), mùa xuân, đặt  
nha môn Trấn phủ; tháng 7 mới hiểu dụ rằng: “Y phục bản quốc có chế độ, địa  
phương này từ trước cũng chỉ tuân theo quốc tục. Nay kính vâng Thượng đức dẹp  
yên cõi biên, trong ngoài như nhau, chính trị và phong tục phải nên thống nhất.  
Nếu còn có người mặc quần áo kiểu người Trung Quốc thì nên đổi theo thể chế  
của nước nhà”… “thường phục thì đàn ông đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa  
tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền  
không cho xẻ mở. Duy đàn ông muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc  
thì cũng được. Lễ phục thì dùng áo cổ đứng tay dài, vải xanh chàm hay vải đen,  
hay vải trắng, tùy nghi”.  
Các lễ phục thời Lê: Bên trái là áo ‘Trường tụ Bối tử’, bên phải là áo ‘Phi phong Bối tử’.  
(Nguồn: Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội). Cả 2 mặc áo lót Trực lĩnh đoản sam tay hẹp.  
10  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
Dụ tháng 7 năm Bính Thân này do Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc ban ra.  
Bản quốc ở đây có nghĩa là xứ Đàng Ngoài của triều đình Lê - Trịnh. Áo cổ đứng  
ngắn tay trong hịch của Hoàng Ngũ Phúc (nguyên văn chữ Hán trong sách là ‘Trực  
lĩnh đoản tụ y’) thì dịch giả trước giờ vì không hiểu về trang phục cổ nên dịch sai.  
Cổ đứng phải là ‘Thụ lĩnh’ hay ‘Lập lĩnh’, chứ không phải là Trực lĩnh. ‘Trực lĩnh  
đoản tụ y’ không phải là ‘áo cổ đứng ngắn tay’, mà phải dịch là ‘áo ngắn tay với  
thân trước mở dọc’. Nghĩa là cái áo Tứ thân.  
Còn cái lễ phục trong dụ của Việp Quận công, mà Lê Quý Đôn viết là ‘trường  
tụ trực lĩnh y’ (bị dịch sai là cổ đứng tay dài), là loại áo ‘Trường tụ bối tử’ có từ  
thời Tống; với tay thụng dài, mở dọc ở giữa hai thân trước. Dạng áo này vẫn phổ  
biến ở thời Lê.  
Đời Thanh bên Trung Quốc có một loại áo dài cổ tròn tay hẹp gọi là ‘Mãn  
thức trường sam’, nghĩa là áo dài kiểu Mãn Châu. Áo Mãn thức trường sam thường  
để mặc lót trong các triều phục như ‘Trường bào’ hay ‘Mã quái’ (áo kỵ mã). Sau  
Cách mạng Tân Hợi 1911, dân Hán tộc bên Trung Hoa đặt thêm cái cổ đứng lên áo  
trường sam, để thành một loại Hán phục. Và họ gọi nó là ‘Trường bào’, thay cho  
áo Trường bào của triều Thanh. Áo Trường bào phái nữ lúc đó có thêm cái cổ đứng  
và được gọi là ‘Kỳ bào’. Áo Mã quái cũng được thêm cái cổ đứng, rồi gọi là ‘Đại  
quái’. Giữa giai đoạn 1911-1949 áo Trường bào Hán phục và áo khoác Đại quái là  
quốc phục của Trung Hoa Dân quốc.  
Trái: Mãn thức trường sam mặc trong áo khoác Mã quái, vẽ năm 1821 (Metropolitan  
Museum, New York). Phải: Áo Trường bào Hán phục (ảnh Wolfgang Wiggers).  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
11  
Rồi đến đầu thập niên 1920 lại có một loại trường sam mới của phái nữ xuất  
hiện ở Thượng Hải. Áo này là do áo Kỳ bào được cách tân thêm mà thành. Đây là  
áo ‘Sường xám’, tức là trường sam được phát âm theo tiếng Quảng Đông, mà từ  
lâu đã trở thành quen thuộc với người Việt. Sường xám nữ có thân giống áo dài  
Việt Nam, nhưng tay ngắn hơn, hoặc về sau này không có tay.  
Loại áo Sường xám nữ cải biên này do bà Hoàng Huệ Lan, tức Madame  
Wellington Koo (1889-1992), phu nhân của Tổng thống Lâm thời Trung Hoa Dân  
quốc Cố Duy Quân (1926-1928) tạo ra. Hình dáng áo được cải đổi liên tục cho đến nay.  
Người Trung Quốc vẫn gọi áo Sường xám cách tân của phái nữ này là Kỳ bào (qipao).  
Trái: Một cung phi triều Thanh mặc Kỳ bào cuối thế kỷ XIX.  
Phải: Bà Hoàng Huệ Lan mặc Sường xám cuối thập niên 1920 (ảnh tư liệu).  
2. Áo dài Việt Nam trong sự ảnh hưởng của nền văn hóa Ấn Độ  
Ảnh hưởng từ Trung Hoa thì dễ nhận thấy vì ở sát bên biên giới với Việt  
Nam. Nhưng ảnh hưởng của Ấn Độ từ lâu cũng đã lan tỏa sâu rộng khắp nơi.  
2.1. Áo dài tay chẽn mặc với quần xuất hiện khá trễ trong lịch sử trang phục  
của Trung Hoa. Nhưng lối ăn mặc này lại phổ biến ở khu vực Ấn Độ-Pakistan-  
Afghanistan từ cả hai ngàn năm, và được gọi là ‘Salwar Kameez’. Salwar có nghĩa  
là quần, và Kameez là áo. Cách gọi này là do ảnh hưởng của vùng Trung Đông lên  
Ấn Độ hồi thế kỷ XI - XIII. Trang phục Salwar Kameez rất phong phú, với nhiều  
tên gọi và kiểu dáng khác nhau tùy khu vực. Trong đó có dạng áo dài Kurta với  
quần Paijama, được Pakistan nhận làm quốc phục ngay sau khi lập quốc năm 1947,  
rất gần gũi với áo dài Việt Nam.  
12  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
Quốc phục Salwar Kameez của Pakistan.  
Trái: Áo Kurta nam với quần Paijama (ảnh Sanaulla).  
Phải: Áo Kurta nữ với quần Palazzo và khăn Dupatta (ảnh Kalki Fashion).  
2.2. Từ hàng ngàn năm trước áo dài có tay bó đã xuất hiện ở Ấn Độ dưới dạng  
KameezVarbana xẻ vai hay cổ để chui đầu, KameezAngarkha có thân áo trước mở dọc  
một bên, và áo khoác Kameez Sherwani mở dọc giữa thân trước. Hai dạng Angarkha  
và Sherwani của Ấn Độ vì hở phía trước nên người Hồi không chuộng. Dạng Kameez  
Kurta phái nam có mở một chút ở cổ áo thân trước để chui đầu và thân cắt thẳng không  
ôm eo được người Hồi giáo đem vào Ấn Độ từ thế kỷ thứ XI đến XIII.  
Trái: Áo Varbana với quần Salwar svathana, thế kỷ IV (Bảo tàng New Delhi).  
Phải: Áo Sherwani khoác bên ngoài áo Angarkha, thế kỷ I (Bảo tàng Mathura, Ấn Độ).  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
13  
Cùng lúc đó tên gọi Kameez cũng được người Hồi giáo đưa vào bán đảo  
Iberia (Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha) mà họ mới chiếm làm thuộc địa. Ở đây nó  
được phiên âm theo tiếng Latin thành Camisia, và rồi thành Camisa ở Tây Ban  
Nha. Sau đó tên loại trang phục này được phát âm là Chemise (Sơ mi) ở Pháp.  
Cũng khoảng từ thế kỷ X - XI, các nhà buôn Ả rập và Ấn Độ cũng truyền bá văn  
hóa của họ, trong đó có trang phục, đến vùng Đông Nam Á.  
Trái: Phụ nữ Chăm mặc áo dài ‘aw kamei Cam’ và áo dài ‘aw bak kwang’, đều là dạng áo  
dài chui đầu (ảnh Smithsonian, chụp năm 1944). Phải: Phụ nữ Malaysia mặc trang phục  
salwar Kameez (Bảo tàng Volkenkunde, Hòa Lan, chụp 1856-78).  
Trái: Áo dài kamei mở cổ chui đầu (Truy lĩnh trường sam) của con gái vua Chăm Po  
Klaong M’Hnai (1622-1627), (Nguồn: Nhà trưng bày Chăm Bình Thuận).  
Phải: Thiếu nữ Indonesia mặc áo dài kameez (ảnh Isidore Van Kinsbergen 1862).  
14  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
2.3. Từ ngàn xưa các nền văn minh Phù Nam, Óc Eo, Chân Lạp, Champa, ở  
miền Nam và miền Trung nước ta đều mang nặng ảnh hưởng của nền văn minh Ấn  
Độ. Tức là văn hóa Ấn Độ trong một thời gian rất dài đã trải khắp từ Cà Mau lên đến  
Quảng Bình. Cho nên không có lý do nào ảnh hưởng của Ấn Độ đã không có, nếu  
không nói là rất nặng, lên nước ta. Ngay như áo dài của người Chăm ở miền Trung  
hiện nay, mà người Chăm nói là đã hiện hữu từ cả thiên niên kỷ, rất có thể là cái áo  
dài ‘Kameez’ mở cổ chui đầu của vùng Ấn-Hồi. Cái áo dài ‘aw kamei Cam’ (tức ‘áo  
Kamei Chăm’), mà người Chăm cho là không rõ xuất xứ, thật ra phải có nghĩa là ‘áo  
Kameez Chăm’, theo lối phát âm không vỹ ngữ của người Chăm. Cái áo dài Kameez  
Ấn-Hồi này cũng đã từ lâu phổ biến rộng sang cả đến vùng Indonesia, Malaysia.  
Vì lý do kiêng gợi dục của đạo Hồi, áo dài Kurta nguyên thủy may thẳng  
không ôm thân thể, và không mở dọc cài khuy ở thân trước. Áo được xẻ mở một  
đoạn trên cổ trước ngực hay xẻ bên vai để chui đầu, rồi thắt dây hay cài khuy. Cho  
đến tận bây giờ, vì lý do tôn giáo mà áo Kameez Kurta phái nữ của người Pakistan  
dù có may bó theo thân thể vẫn không xếp li bó eo. Đàn bà còn che tóc và cổ bằng  
khăn choàng Dupatta, là phần không thể thiếu thứ ba trong bộ trang phục Salwar  
Kameez của người Ấn-Hồi.  
Áo Kurta nữ dạng may ôm người, với quần Palazzo và khăn Dupatta (ảnh tổng hợp).  
Trong khi đó người Ấn Độ cởi mở hơn cho nên áo kameez phái nam của họ vẫn  
còn có dạng Sherwani và Achkan mở dọc và cài khuy ở giữa thân trước hay ở một  
bên. Và từ thập niên 2000 còn lác đác thấy có dạng áo Kurti phái nữ có chít li ở eo.  
Quần (Salwar) đã được phổ biến ở Ấn Độ dưới dạng Svathana bó chân từ cả  
hơn ngàn năm trước. Hiện nay Salwar có rất nhiều dạng và tên khác nhau tùy vùng.  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
15  
Nhưng liên quan đến áo dài Việt Nam thì chỉ kể đến 3 dạng, là Salwar Churidar có  
ống chật, là hậu thân trực tiếp của quần Svathana; Salwar Palazzo với ống loe rộng;  
và Salwar Paijama ống thẳng giống như quần áo dài Việt Nam. Quần Paijama,  
được người Tây phương ưa chuộng, bao lâu nay cùng áo ngắn Jama đã trở thành  
bộ quần áo ngủ pi-da-ma thông dụng khắp nơi trên thế giới, và cả ở nước ta.  
Vài dạng Kameez phái nam cách tân của thế kỷ XX: Trái: Áo Achkan cổ đứng với cổ tay  
áo Chemise và quần bó Churidar. Giữa: Áo Kurta có cổ đứng với cổ tay Chemise và quần  
Paijama. Phải: Áo Kurta cổ Chemise với cổ tay Chemise và quần Paijama (ảnh tổng hợp).  
2.4. Áo dài Năm thân của Việt Nam cũng đã hiện hữu từ lâu lắm rồi. Trong  
quyển sách Relatione della nuova missione delli P.P. della Compagnia di Gesù al  
Regno della Cocincina xuất bản năm 1631, linh mục-tác giả Cristoforo Borri (sống ở  
Thuận Quảng từ năm 1618 đến 1623 thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên) cho biết rằng  
cái áo dài mầu thâm phổ biến của nam giới, và nhất là sỹ tử, ở Thuận Quảng đầu thế  
kỷ XVII trông tương tự như áo Chùng thâm của các giáo sỹ Công giáo thời đó. Ông  
cũng cho biết rằng đàn ông Nam Hà cũng để tóc dài và quấn khăn như đàn bà.  
Trái: Áo Chùng thâm của linh mục Công giáo La Mã thế kỷ XXI (ảnh uncatolico).  
Phải: Áo dài 5 thân của một giáo sỹ Công giáo ở Nam Đinh cuối thế kỷ XIX (ảnh tư liệu).  
16  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
3. Áo dài Năm thân Việt Nam truyền thống trong sự cách tân ở thập niên 1930  
3.1. Trong cuộc cải cách áo dài Năm thân của phụ nữ ở thập niên 1930, các  
họa sỹ tham dự vào việc cải tiến như Lê Phổ, Lê Thị Lựu, Cát Tường…, vẫn giữ  
hình dạng của áo dài 5 thân. Chỉ đổi mới bằng cách làm cho áo tương đối ôm thân  
thể hơn, và bằng cách bỏ việc nối sống giữa. Vì lúc đó có những loại vải nhập từ  
Âu châu được dệt với khổ rộng hơn, không cần nối vải nữa. Ngoài ra cái vạt thứ  
năm (tức vạt hò) bên trong cũng được bỏ đi một nửa bên dưới. Áo dài như vậy trở  
thành 3 thân, nhưng vẫn gọi là 5 thân hay 5 tà. Cho đến thời điểm đó áo dài Việt  
Nam vẫn chưa có chít li ở eo.  
Trong số các nhà cách tân áo dài phụ nữ thời thập niên 1930, họa sỹ Cát Tường,  
tức Lemur do tên Tường của ông dịch ra tiếng Pháp rồi biến thể đi một chút, đã cố  
gắng cách tân cái áo dài Năm thân truyền thống một cách táo bạo hơn cả. Ông đả  
phá nguyên tắc che cổ bịt tóc ngày xưa của người Việt trong việc cải biên của ông.  
Trái: Họa sỹ Lê Thị Lựu trong áo dài Ba thân đầu thập niên 1940 (ảnh tư liệu).  
Phải: Áo dài gấm thất thể 3 thân năm 1948 ở Hà Nội (ảnh tư liệu).  
Hãy đọc một đoạn văn do chính họa sỹ Cát Tường viết trên báo Phong Hóa  
số ra ngày 23 tháng 2 năm 1934, về ý tưởng của ông trong việc cách tân cái áo dài  
5 thân truyền thống: “Các bạn thử để ý xem, cái áo hiện thời của các bạn có cái  
gì bất tiện và thừa không? Muốn để các bạn khỏi tốn thì giờ vô ích, tôi xin thưa:  
Chính cái cổ là cái thừa, và hai ống tay bất tiện. Cúc cổ chẳng bao giờ cài thì cái  
cổ để làm gì? Tôi xin hỏi? Để che cổ ư? Thì nó nhỏ xíu thế kia, che thế nào là đủ,  
vả lại áo các phụ nữ nước lạnh bên Âu, Mỹ còn chẳng cần cổ, nữa là xứ ta khí hậu  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
17  
rất nóng. Còn hai ống tay thì… thì các bạn cứ thử co tay lại vuốt mái tóc mà xem.  
Có phải nó chật quá không?… nó khó chịu và bất tiện lắm không?  
Trái: Một áo dài Lemur tiêu biểu. Phải: Ca sỹ Minh Trang trong áo dài Lê Phổ,  
chụp với bà ngoại là bà Chúa Nhất tức Mỹ Lương Công chúa (ảnh tư liệu).  
Áo dài của ông Cát Tường rất Âu hóa. Áo có cổ cắt đa dạng, có khi khoét trái  
tim có khi có cổ lọ, hoặc có khi cổ hở được may vải nhún. Vai áo thường may bồng.  
Tay áo có khi cắt ngắn hay loe rộng. Quần thường có ống loe. Các loại áo dài phụ  
nữ cách tân ở thế kỷ XXI này rất nhiều khi chỉ là sự lập lại của những gì họa sỹ Cát  
Tường đã làm cách đây gần 90 năm. Với cái nhân sinh quan nệ cổ “răng đen, tóc  
xẻ ngôi giữa, vấn khăn” của đại đa số phụ nữ Việt lúc đó, áo dài Lemur chỉ được  
một bộ phận nhỏ phụ nữ rất cấp tiến đón nhận. Và áo dài Lemur gần như hoàn toàn  
biến mất sau khi họa sỹ Cát Tường biệt tích năm 1949. Hầu như không có một cái  
áo dài Lemur nào còn sót lại đến ngày nay.  
Áo dài Lê Phổ thì nhẹ nhàng hơn, cả ở hình dáng lẫn chất liệu. Áo Lê Phổ  
thường giữ nguyên cái cổ xây, được cắt rất thấp theo lối Bắc cổ truyền.  
18  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
Một vài mẫu áo dài Lemur (báo Phong Hóa).  
Một vài chi tiết trong thiết kế mẫu áo dài Lemur (báo Phong Hóa).  
Năm 1947, Bác Hồ phát động phong trào tiết kiệm, đã viết một cách vắn tắt  
rõ ràng và dễ hiểu trong bài “Đời sống mới” trong đó vận động người dân bỏ thói  
quen mặc áo dài để thay bằng áo vắn vì mặc áo dài đi đứng, làm việc bất tiện, lượt  
thượt, luộm thuộm. Áo dài tốn vải, khoảng hai cái áo dài may được ba cái áo vắn...  
Cuộc vận động này dần dần đã được người dân hưởng ứng và áo dài không còn là  
trang phục thông dụng của phụ nữ Việt Nam trong một thời gian dài ở miền Bắc.  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
19  
3.2. Đến năm 1961 áo dài phụ nữ Việt lại có thêm một sự cải cách khá quan  
trọng. Đấy là việc một nhà thiết kế thời trang nữ người Mỹ gốc Nhật đang công  
tác trong chương trình Peace Corps của Mỹ ở Sài Gòn lúc bấy giờ, bà Michiko  
Uyemura, đã tạo ra một thiết kế mới cho áo dài nữ Việt Nam. Bà đã lấy kiểu cổ cắt  
ngang, và tay cắt hơi ngắn mà người phương Tây gọi là three-quarters tức là 3/4  
(mà người mình gọi là “troa ca”, tức Trois-quatres theo tiếng Pháp), được biết đến  
nhiều ở phương Tây lúc ấy qua trang phục Ấn Độ-Pakistan, đối với áo dài mới của  
bà. Bà Ngô Đình Nhu rất thích mẫu áo này và bà thường mặc nó để phổ biến. Vì  
thế cái áo dài này được người Sài Gòn thời bấy giờ gọi là áo dài bà Nhu.  
Trái: Đồng phục Salwar Kameez của tiếp viên Hàng không Quốc gia Pakistan giai đoạn  
1956-1960 với tay cắt 3/4 và khăn choàng dupatta (ảnh: Pakistan International Airlines).  
Phải: Áo dài bà Nhu năm 1961 của nhà thiết kế Uyemura với cổ thuyền, tay cắt ¾.  
Vạt áo cắt dài hơn, theo phong cách áo dài Việt Nam lúc bấy giờ (ảnh: UPI).  
Từ khoảng năm 1960-1962 áo dài nữ dạng phổ thông ở Sài Gòn đã bắt đầu  
có xếp li để tạo eo. Và eo áo dần được bóp nhỏ đến hết mức có thể. Người ta hoặc  
mặc coóc xê (corset) bó bụng trong áo, hoặc dùng giây dải rút bằng sợi gai thít chặt  
bụng (mà dây chun và khuy cài không làm được), để đạt được cái eo lưng ong lý  
tưởng đó. Cổ áo dài lưng ong cắt cao, độn nylon, do ảnh hưởng của áo Sường xám  
bên Trung Quốc. Và tà áo cắt rất dài.  
20  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
Áo dài thắt lưng ong ở Sài Gòn đầu thập niên 1960.  
Trái: thắt eo bằng dải rút. Phải: thắt eo bằng corset (ảnh Life Magazine).  
Từ năm 1962 đến nay chiếc áo dài có kiểu dáng thay đổi và cách tân rất phong  
phú về chất liệu và họa tiết dành cho phụ nữ như áo dài với tay raglan (1960), áo  
dài miniraglan (1971), áo dài raglan phi bóng quần đũi (1988) và về sau một số áo  
dài cách tân khác.  
3.3. Áo Kameez Kurti phái nữ đúng mode nhất của Pakistan hiện nay lại  
trông nhang nhác giống áo dài mini, đúng hơn là midi, của Việt Nam ở những năm  
1967-1971. Giữa phong trào Hippy toàn cầu, áo dài nữ Việt Nam lúc đó được cắt  
ngắn bớt đi. Thân áo may nới ra ở eo, và nếp chít li bó eo có khi cũng được bỏ đi  
cho thoải mái, hợp thời. Vai áo dài mini được nối theo cách raglan để ôm vai mềm  
mại hơn, mà lại tiết kiệm vải. Vạt hò bên trong bị bỏ đi và áo dài từ đấy thành 2  
thân, tuy vẫn giữ hình dạng của áo dài 5 thân.  
Quần của áo dài mini Việt Nam cắt rất rộng, giống cái quần Palazzo Salwar  
được phụ nữ Pakistan và Ấn Độ ưa thích lâu nay. Đến nỗi bà Thanh Khánh, một  
nhà thiết kế vải áo dài nổi tiếng ở Sài Gòn lúc bấy giờ, đã than rằng “giống quần  
của người Hồi Quốc quá (Hồi Quốc là cách người mình gọi Pakistan lúc đó).  
Nhưng nếu may quần hẹp lại thì thành cứng, mà có khi lại giống họ hơn”. Có khác  
chăng là cách cắt vai áo raglan và hàng khuy cài áo về một bên sườn của áo dài  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
21  
mini của Việt Nam lúc ấy. Và trong khi cái quần rộng của áo dài mini Việt thường  
được cắt rất dài, luôn che dấu đôi giày hay dép platform đế cao bên dưới, thì quần  
Salwar không bao giờ dài hơn mắt cá chân. Vì phụ nữ vùng Ấn Độ - Pakistan hay  
đi giày dép thấp gót hơn.  
Trái: Áo dài Mini có vạt cắt rất ngắn thời cao điểm, với dép Platform (ảnh Vinhmnghiem).  
Trái: Áo dài mini thời cuối (ảnh Vianaccessories).  
Áo dài Kurti dạng thời trang và quần Palazzo của phụ nữ Ấn Độ - Pakistan  
trông nhang nhác giống áo dài mini Việt Nam (ảnh tổng hợp).  
22  
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (161) . 2020  
Một vài mẫu áo Kurti hiện đại trẻ trung của thiếu nữ Ấn Độ và Pakistan,  
mặc với các quần Palazzo và Paijama (ảnh tổng hợp).  
Các mẫu áo dài Ấn-Hồi được nêu ra trong bài viết này vì các nhà chuyên  
môn về áo dài sẽ thấy sự tương quan của chúng với nhiều dạng áo dài Việt, cả 5  
tà truyền thống lẫn cách tân. Nếu nhìn thoáng qua các phụ nữ Ấn Độ hay Pakistan  
mặc Salwar Kameez, người ta có thể tưởng nhầm là họ mặc áo dài Việt Nam.  
Trái: Một phụ nữ Pakistan mặc Salwar Kameez ở Sài Gòn tháng 01 năm 2020.  
Phải: Một phụ nữ Ấn Độ ở Văn Miếu Hà Nội tháng 01 năm 2020 (ảnh tư liệu).  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 25 trang Thùy Anh 13/05/2022 4160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Nguồn gốc áo dài Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnguon_goc_ao_dai_viet_nam.pdf