Hội nhập văn hóa và vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam
Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII
Trường Đại học Giao thông vận tải
HỘI NHẬP VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ
GIỮ GÌN BẢN SẮC DÂN TỘC VIỆT NAM
Hoàng Hải Yến 1*
1 Trường Đại học Giao thông Vận tải, Số 3 Cầu Giấy, Hà Nội
Tóm tắt: Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, văn hoá Việt Nam có cơ hội hội nhập và
giao lưu vꢀi các nền văn hoá khác của thế giꢀi để làm giàu và khẳng định bản sắc của
mình. Song, hơn lꢁc nào hết, đây cũng là giai đoạn mà các giá trị văn hoá truyền thống
của dân tộc phải đối diện vꢀi những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá. Hội nhập quốc
tế đang là một nhu cầu khách quan; nó đòi hỏi chúng ta phải mở cửa, giao lưu vꢀi
cộng đồng thế giꢀi để đón nhận và tiếp thu những giá trị mꢀi, tiến bộ của nhân loại.
Tuy nhiên, một dân tộc nào đó sẽ không còn là chính mình nếu đánh mất bản sắc văn
hoá dân tộc. Hội nhập quốc tế và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là hai mặt thống
nhất, có quan hệ chặt chẽ vꢀi nhau. Vì vậy, đối vꢀi Việt Nam, việc nhận thức rõ vấn đề
này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo tồn, phát huy
giá trị truyền thống dân tộc nói riêng và phát triển đất nưꢀc nói chung.
Từ khóa: Văn hóa, Hội nhập, Bản sắc dân tộc, Toàn cầu hóa; Giữ gìn bản sắc
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lịch sử cho thấy, không có một nền văn hóa nào có thể phát triển được nếu
không có sự hội nhập vꢀi các nền văn hóa khác. Để Việt Nam trở thành đất nưꢀc giàu
mạnh, văn minh, Đảng, Nhà nưꢀc và nhân dân ta đề ra mục tiêu: Cùng vꢀi công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Mở cửa, giao lưu nhằm hội nhập văn hóa là phương thức tối ưu của việc phát triển văn
hóa. Tuy nhiên, cùng vꢀi việc hội nhập, làm thế nào để giữ gìn được bản sắc văn hóa
dân tộc Việt Nam đang là một thách thức không nhỏ trong quá trình toàn cầu hóa hiện
nay.
2. NỘI DUNG
2.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa
Nếu như con người là sản phẩm cao nhất của tự nhiên thì văn hóa là sản phẩm
đặc sắc của con người. Bằng tài năng sáng tạo, con người tác động lên giꢀi tự nhiên,
cải biến và chế tác những phương tiện nhằm phục vụ cuộc sống, thỏa mãn nhu cầu của
mình. Vậy nên, bản chất của văn hóa thể hiện ít nhất trên ba phương diện:
-523-
Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII
Trường Đại học Giao thông vận tải
- Thế giꢀi những sản phẩm (vật chất, tinh thần) kết tinh tinh hoa văn hóa nhân
loại.
- Những khả năng của con người theo mục đích nhằm thực hiện những lý tưởng
cao đꢂp. Đó là khía cạnh thể hiện sức mạnh bản chất của con người.
- Trình độ nhân hóa bản thân con người, nâng trình độ văn minh con người theo
hưꢀng tiến bộ. Đó là khía cạnh nhân cách, nhân văn của văn hóa.
Ba khía cạnh này tạo thành một hệ thống thể hiện thái độ và cách ứng xử của con
người vꢀi tự nhiên, vꢀi xã hội, trong hoạt động sinh tồn và phát triển của mình. Nói
cách khác, văn hóa là sự thăng hoa, sự hóa thân con người văn minh vào mọi hoàn
cảnh, mọi tương tác tự nhiên, xã hội, trong không gian và thời gian nhất định. Những
ưꢀc mơ nhằm hoàn thiện cuộc sống thể hiện trong tâm lý, tình cảm, hành vi, thống
nhất trong suy nghĩ, ứng xử, trở thành nếp sống, cô đꢁc thành nguyên tắc và lý tưởng
sống, biến vào trong phương thức hoạt động và tổ chức cuộc sống. Đời này qua đời
khác, tất cả những cái đó hình thành nên các lĩnh vực văn hóa: tôn giáo, đạo đức, trí
tuệ, nghệ thuật, giao tiếp, ứng xử, lao động, sinh hoạt, kinh doanh.
Như vậy, có thể nói, văn hóa là sự hóa thân của đời sống, “nó thấm vào mọi lĩnh
vực hoạt động của con người”, “nó xuyên suốt cơ thể xã hội” [4], nó biểu hiện trình độ
con người, trình độ xã hội, văn minh loài người, văn hiến quốc gia. Theo Tổng giám
đốc UNSECO định nghĩa: Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của
cá nhân và cộng đồng) trong quá khứ và hiện tại. Qua hàng thế kỷ, các hoạt động sáng
tạo ấy đã cấu thành hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu, thẩm mỹ và lối
sống mà dựa trên đó, từng dân tộc khẳng định bản sắc của mình.
Toàn bộ những đặc điểm địa lý, môi trường tự nhiên, nhân chủng, điều kiện kinh
tế, xã hội của mỗi dân tộc quy định đặc trưng tâm lý, ý thức, biến vào các biểu tượng,
các mô thức (vật chất, tinh thần) thành các phong tục, lối sống, phong cách tư duy, thị
hiếu, sở thích, tiêu chí đánh giá, phương thức hoạt động độc đáo. Tất cả những cái đó
tạo thành nét riêng của mỗi nền văn hóa mà người ta gọi là bản sắc văn hóa dân tộc.
Vậy nên, có thể hiểu bản sắc văn hóa dân tộc là hệ thống các giá trị đặc trưng
nhất của một nền văn hóa đã được xác lập trong dân tộc đó, nó tồn tại và phát triển
trong suốt quá trình lịch sử và được thể hiện qua rất nhiều sắc thái văn hóa khác nhau.
Bản sắc dân tộc thể hiện được linh hồn, cốt cách, tinh thần cũng như bản lĩnh sinh tồn
của mỗi quốc gia, dân tộc. Đây có thể xem là dấu hiệu để phân biệt quốc gia này vꢀi
quốc gia khác.
Việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là hành động, việc làm của mỗi người
hưꢀng tꢀi mục tiêu bảo vệ, gìn giữ những nét đặc trưng, tài sản vô giá, linh hồn của
dân tộc. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là việc làm cần thiết và quan trọng để vận
dụng và phát triển lâu dài, là cách tốt nhất để toàn thể dân tộc hưꢀng tꢀi hành động bảo
vệ hệ thống giá trị văn hóa được hình thành trong suốt quá trình lịch sử.
2.2. Văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập
Nhân loại có bao nhiêu dân tộc thì có bấy nhiêu nền văn hóa vꢀi các bản sắc độc
đáo của mình. Việc giao lưu văn hóa làm lưu thông huyết mạch văn hóa giữa các dân
-524-
Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII
Trường Đại học Giao thông vận tải
tộc. Trong quá trình đó, mỗi nền văn hóa thực hiện sự chọn lọc, đồng hóa và dị hóa,
tiếp thu và gạt bỏ theo cơ chế tiến hóa.
Vꢀi văn hóa Việt Nam, Đảng ta khẳng định: Bằng lao động sáng tạo và ý chí đấu
tranh bền bỉ, kiên cường, nhân dân ta đã xây dựng nên một nền văn hóa kết tinh sức
mạnh và in đậm dấu ấn bản sắc của dân tộc, chứng minh sức sống mãnh liệt và sự
trường tồn của dân tộc Việt Nam. Và bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm
những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm
đấu tranh dựng nưꢀc và giữ nưꢀc, tạo thành những nét đặc sắc của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Đó là lòng yêu nưꢀc nồng nàn, ý thức tự cường
dân tộc; tinh thần đoàn kết; tính cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng - nưꢀc;
lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao
động; tế nhị trong cư xử, giản dị trong lối sống…. Bản sắc dân tộc còn đậm nét trong
các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.
Mỗi dân tộc đều có điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội riêng tạo nên nền văn hóa
mang bản sắc riêng của từng dân tộc. Có thể thấy, các giá trị bản sắc dân tộc của văn
hóa Việt Nam được tạo nên từ những điều cơ bản sau:
Thứ nhất, quốc gia dân tộc Việt Nam được hình thành từ rất sꢀm, gắn liền vꢀi
nền văn minh nông nghiệp lúa nưꢀc, vꢀi hình thức tổ chức cộng đồng làng, xã đã tạo
nên một dân tộc định cư, gắn bó vꢀi quê hương, Tổ quốc. Cư dân Việt sꢀm hình thành
về ý thức quốc gia dân tộc và tình cảm của mình đối vꢀi đất nưꢀc.
Thứ hai, nhìn một cách đại thể, xã hội Việt Nam chưa bao giờ có một phương
thức sản xuất hoàn thiện, mà tồn tại một phương thức sản xuất mang tính phức tạp và
khó phân kỳ lịch sử. Do đó, nó chi phối đến việc hình thành tập quán, văn hóa, tư
tưởng và ghi đậm dấu ấn vào bản sắc văn hóa dân tộc.
Thứ ba, dân tộc ta từ khi hình thành quốc gia - luôn nêu cao tinh thần đấu tranh
chống giặc ngoại xâm. Trải qua thời gian nó đã được hun đꢁc, kết tinh và tạo nên trong
đời sống của người Việt Nam một bản sắc riêng in đậm dấu ấn vꢀi những giá trị tinh
thần của dân tộc được tạo nên nhằm bảo vệ sự sống còn của dân tộc, bảo vệ độc lập tự
chủ của quốc gia.
Thứ tư, vị trí địa chính trị - kinh tế hết sức thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế - xã
hội và đặc biệt là giao lưu văn hóa. Dân tộc Việt Nam ngay từ sꢀm đã biết mở rộng,
tiếp thu, chắt lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại. Xét đến cùng, yếu tố chính để
quyết định nội dung và bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam chính là cuộc sinh tồn
lịch sử của dân tộc ta.
Xét về mặt lịch sử và đặc trưng văn hóa, văn hóa Việt Nam không hề xa lạ vꢀi sự
giao lưu, tiếp nhận, tác động lẫn nhau của văn hóa các nưꢀc và văn hóa khu vực. Quá
trình này diễn ra không ngừng, theo cả chiều dài lịch sử và theo cả không gian, địa -
văn hóa. Nhờ hội tụ tinh hoa các nền văn hóa thế giꢀi mà Việt Nam, một đất nưꢀc
nghèo nàn, lạc hậu dần dần có được tiếng nói chung vꢀi nền văn hóa nhiều dân tộc.
Nền văn minh Hy Lạp-La mã cổ đại vꢀi các tư tưởng triết học về tự nhiên, về xã hội;
nền nghệ thuật nhân đạo thời Phục hưng; kho tàng tư tưởng xã hội tiến bộ thời khai
sáng của các nưꢀc Châu Âu; nền văn minh Ai Cập vꢀi những tri thức toán học, các hệ
thống tôn giáo nổi tiếng của Ấn Độ và Trung Hoa; nền kỹ thuật hiện đại của Nhật Bản,
của Hoa Kỳ và các nưꢀc phương Tây… tất cả bằng nhiều cách thức khác nhau đã đi
-525-
Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII
Trường Đại học Giao thông vận tải
vào Việt Nam, làm cho văn hóa Việt Nam ngày càng trở nên sâu rộng. Trí tuệ và kinh
nghiệm loài người đꢁc kết trong các bộ sử kinh tế, triết học, tôn giáo, đạo đức, pháp lý;
các sáng chế, phát minh khoa học, kỹ thuật, công nghệ; các kho tàng nghệ thuật về các
loại hình kiến trꢁc, hội họa, âm nhạc, văn chương…vꢀi các sắc thái riêng của các dân
tộc châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, châu Á…đem lại nguồn lực dồi dào cho nền văn hóa
Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-Lenin như đỉnh cao của văn hóa nhân loại, hệ tư tưởng của
một xứ sở có điều kiện khác xa Việt Nam, nhưng vꢀi tính khoa học, tính nhân văn và
tính nhân loại của nó khi vào Việt Nam đã làm nên một cuộc cách mạng sâu sắc về thế
giꢀi quan và nhân sinh quan trong con người Việt Nam, cùng vꢀi văn hóa dân tộc, góp
phần tạo thành đặc điểm nổi bật đầy sức sống của văn hóa Việt Nam hiện đại-nền văn
hóa khoa học, nhân văn và tiến bộ.
Như vậy, có thể thấy cũng như tất cả các nền văn hóa khác, văn hóa Việt Nam là
kết tinh văn hóa truyền thống Việt Nam vꢀi tinh hoa của nhiều nền văn hóa khác trên
thế giꢀi, đặc biệt là tinh hoa văn hóa hiện đại. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, các
nền văn hóa vꢀi các bản sắc riêng lại càng xích gần nhau, trên cơ sở đó hình thành nên
một sự đồng cảm, sự thống nhất trong suy nghĩ và hành động mang tính toàn cầu,
những giá trị chung của nhân loại.
Trong những năm gần đây, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày
càng mạnh mẽ, sâu sắc trong thế giꢀi hiện đại, không chỉ dừng lại trong lĩnh vực kinh
tế, mà còn mở rộng, lan tỏa, thâm nhập các lĩnh vực khác của đời sống, từ xã hội, môi
trường đến khoa học, công nghệ, văn hóa, pháp luật, giáo dục,... Toàn cầu hóa vừa là
thời cơ cho sự hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng là những thách
thức to lꢀn, nhiều khi hoàn toàn mꢀi mẻ, đối vꢀi vấn đề giữ gìn, bảo vệ, phát huy và
phát triển các giá trị văn hóa riêng biệt, độc đáo, có tính truyền thống của mỗi dân tộc,
quốc gia trong bối cảnh và đặc điểm mꢀi của thế giꢀi.
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế giúp văn hóa Việt Nam có được cơ
hội quảng bá rộng rãi trên thế giới. Văn hóa Việt Nam phát triển trong bối cảnh công
nghệ thông tin có những bưꢀc phát triển như vũ bão, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
cũng mở ra khả năng giao lưu, hợp tác và phát triển toàn diện về văn hóa, nâng cao cơ
hội quảng bá văn hóa Việt Nam ra toàn thế giꢀi. Khoa học - công nghệ, truyền thông
đại chꢁng phát triển mang đến cho người dân khả năng sáng tạo và thụ hưởng các sản
phẩm văn hóa mꢀi nhanh chóng, hiệu quả và có tính tương tác cao.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và nền kinh tế số tạo ra những thuận lợi
cho sự phát triển văn hóa Việt Nam, giúp chúng ta khai thác tiềm năng kinh tế của văn
hóa trên môi trường số. Công nghệ số phát triển kéo theo khả năng tiếp cận các nội
dung văn hóa trở nên dễ dàng và không bị giꢀi hạn bởi các đường biên giꢀi quốc gia.
Điều này cũng đòi hỏi sự khác biệt, độc đáo trong nội dung, ý tưởng của các sản phẩm
văn hóa như là một ưu thế cạnh tranh quan trọng. Các nưꢀc phát triển trên thế giꢀi
đang chuyển nhanh sang nền kinh tế tri thức, kinh tế sáng tạo, công nghệ số hóa và sự
số hóa các nội dung văn hóa. Những thay đổi này đã đem lại những cơ hội lꢀn về khả
năng giảm thiểu chi phí sản xuất, góp phần tạo ra các kênh phân phối, quảng bá sản
phẩm mꢀi, đòi hỏi những hành động nhạy bén và sự thích ứng liên tục vꢀi sự thay đổi
của môi trường. Sự chuyển đổi kỹ thuật số và tinh thần kinh doanh đưa ra những cơ
hội, khả năng và thách thức mꢀi cho ngành văn hóa về phương thức hoạt động.
-526-
Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII
Trường Đại học Giao thông vận tải
Chủ trương hội nhập quốc tế chủ động, tích cực, toàn diện của Đảng và Nhà
nước tạo điều kiện cho văn hóa Việt Nam hội nhập và phát triển. Trong bối cảnh toàn
cầu hóa, vꢀi đường lối đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, văn hóa Việt
Nam có cơ hội thuận lợi để tiếp thu tri thức, các nguồn lực và kinh nghiệm quản lý tiên
tiến, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và sáng tạo những giá trị văn hóa mꢀi. Đặc
biệt, công nghiệp văn hóa đang được định hưꢀng là một trong những ngành trụ cột của
kinh tế. Kinh tế đang trên đà phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện đã hình
thành nên một thị trường tiêu dùng/hưởng thụ văn hóa vꢀi nhu cầu ngày càng lꢀn, là
cơ sở quan trọng thꢁc đẩy văn hóa phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực của toàn cầu hóa, trong quá trình hội
nhập, chꢁng ta đã và đang phải đối mặt vꢀi những thách thức, đó là cuộc đấu tranh quyết
liệt giữa việc giữ gìn bản sắc và tinh hoa văn hóa dân tộc vꢀi những văn hóa ngoại lai không
lành mạnh; giữa giá trị đạo đức tốt đꢂp mang tính truyền thống của người Việt Nam vꢀi
những biểu hiện tiêu cực, vꢀi mặt trái của cơ chế thị trường... Thực tế thời gian qua chứng
tỏ, mặc dù đã cố gắng nhiều, nhưng chꢁng ta vẫn còn sự non kém trong quản lý các hoạt
động văn hóa, trong hội nhập quốc tế về văn hóa. Tác động của mặt trái cơ chế thị trường
cộng vꢀi sự non kém trong quản lý, có thể coi là một trong những nguyên nhân của tình
trạng xuống cấp về văn hóa, đạo đức, sự thiếu tôn trọng các chuẩn mực xã hội... Việc cân
bằng giữa bảo tồn văn hóa dân tộc và phát triển đất nưꢀc ngày càng trở nên khó khăn. Đặc
biệt, một số giá trị đạo đức tốt đꢂp, thiêng liêng vốn có vị trí quan trọng trong hệ giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam ta đang có nguy cơ bị mai một và tha hóa. Nhiều giá
trị và tập quán truyền thống tốt đꢂp bị coi nhꢂ; lấy lý do “đổi mꢀi”, “hiện đại hóa” để làm
thay đổi, biến dạng về văn hóa truyền thống. Trong khi những giá trị đạo đức, lối sống
truyền thống chưa kịp thích ứng vꢀi điều kiện mꢀi; những giá trị mꢀi của cuộc sống chưa
kịp hình thành thì những tác động của văn hóa từ thế giꢀi bên ngoài đã nhanh chóng được
nhiều người đón nhận mà không có chꢁt chọn lọc. Đó chính là tình trạng “sính ngoại”, lai
căng về văn hóa..., nhất là trong một bộ phận giꢀi trẻ. Những biểu hiện trên đây là một thực
trạng nhức nhối khó có thể giải quyết, khắc phục. Mặt khác, trong khi hội nhập đưa đến
những chuyển biến rất nhanh về kinh tế, xã hội thì văn hóa lại hầu như “không theo kịp”
nên đã xuất hiện những “khoảng trống văn hóa”. Điều này góp phần tạo ra sự suy thoái về
phẩm chất đạo đức và lối sống..., gây nên những hệ lụy không nhỏ trong đời sống xã hội,
làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào chế độ xã hội.
Toàn cầu hóa như một cơn lốc mạnh. Mặc dầu đã có sự chuẩn bị, song chꢁng ta
chưa lường hết được tác động phức tạp của quá trình đó, vì vậy, nền văn hóa nưꢀc nhà
đang chịu những sức ép, sự va đập mạnh và sâu, đang đứng trưꢀc những thử thách gay
gắt chưa từng có.
Nhận thức sâu sắc đặc điểm, thách thức và quy luật đó của quá trình toàn cầu
hóa, cần phải khẳng định rằng, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa, trưꢀc những thách thức và tác động
phức tạp của mặt trái toàn cầu hóa trên lĩnh vực văn hóa, chꢁng ta sẵn sàng và chủ
động mở cửa, hội nhập, hòa mình vào xu thế chung của thế giꢀi hiện đại, đồng thời
đứng vững trên những nguyên tắc quan trọng, làm cơ sở cho việc tranh thủ thời cơ,
vượt qua trở ngại, thách thức và tự lực, chủ động xây dựng văn hóa dân tộc bằng sức
mạnh, bản lĩnh, cốt cách của chính dân tộc ta.
-527-
Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII
Trường Đại học Giao thông vận tải
2.3. Một số giải pháp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong quá trình
hội nhập.
Để có thể tiếp thu những thành tựu, tinh hoa, các giá trị văn hóa của bên ngoài
mà vẫn giữ được chủ quyền và bản sắc văn hóa dân tộc, làm đậm đà hơn cốt cách, tâm
hồn dân tộc trong quá trình, giao lưu, tiếp nhận, kinh nghiệm lịch sử lâu dài của dân
tộc Việt Nam đã chỉ ra rằng, các yếu tố nội sinh về văn hóa của chꢁng ta phải giữ vai
trò quyết định. Nội lực của chꢁng ta càng mạnh, chꢁng ta càng có nhiều cơ hội và khả
năng để tiếp nhận, chọn lọc và hợp tác, có nghĩa là nội lực đó sẽ chi phối các quan hệ
vꢀi các yếu tố ngoại sinh, quyết định chọn lọc và tiếp nhận các yếu tố đó, đồng thời có
đủ trình độ, bản lĩnh để "đồng hoá" các yếu tố đến từ bên ngoài trở thành nhân tố của
chính nền văn hóa dân tộc, thành chất xꢁc tác cho sự phát triển hiện đại hơn nền văn
hóa đó.
Bản chất thực sự tốt đꢂp của giao lưu văn hóa quốc tế, giữa các nền văn hóa vꢀi
nhau thể hiện ở sự đối thoại bình đẳng và rộng mở. Nhận thức sâu sắc và vận dụng
một cách chủ động tính quy luật đặc thù đó của hội nhập và giao lưu văn hóa, chꢁng ta
cần kiên trì xác định nguyên tắc hợp tác bình đẳng, đối thoại cởi mở để vừa cho và vừa
nhận văn hóa. Nguyên tắc này được đꢁc kết từ bản thân quy luật đặc thù của sự tồn tại
và phát triển văn hóa nưꢀc ta, như các Nghị quyết của Đảng đã xác định văn hóa Việt
Nam là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giꢀi để
“không ngừng hoàn thiện mình”. Trên cơ sở nguyên tắc đó, chꢁng ta hoàn toàn không
chấp nhận một mưu đồ lợi dụng toàn cầu hòa để áp đặt những giá trị của các nưꢀc lꢀn,
của các thế lực cường quyền vào nưꢀc ta. Đồng thời, trong quá trình hợp tác và giao
lưu, chꢁng ta chủ trương loại bỏ những yếu tố văn hóa ngoại lai, không phù hợp và trái
vꢀi văn hóa dân tộc, vꢀi khát vọng vì sự phát triển của con người Việt Nam thời kỳ
hiện đại, từ đó, chꢁng ta kiên quyết "ngăn ngừa sự xâm nhập các sản phẩm văn hóa
phản động, đồi trụy" từ bên ngoài vào nưꢀc ta.
Vậy để hội nhập quốc tế về văn hóa đáp ứng được những mục tiêu, yêu cầu đꢁng đắn
đặt ra, rất cần phải hoàn thiện và tổ chức thực hiện một cách thực chất những giải pháp cụ
thể trong quản lý và điều hành các hoạt động văn hóa. Trong đó, có những vấn đề cơ bản
không thể xem nhꢂ và không nên chậm trễ.
Trưꢀc hết, phải không ngừng tăng cường giáo dục truyền thống dân tộc, truyền thống
lịch sử và truyền thống cách mạng của dân tộc ta cho mọi tầng lꢀp nhân dân, đặc biệt là cho
các thế hệ trẻ. Qua đó, vun đắp và nâng cao niềm tự hào dân tộc để mọi người có ý thức và
tinh thần hưꢀng đến các giá trị truyền thống tốt đꢂp của dân tộc vốn là cội nguồn tạo nên
bản sắc văn hóa, tạo nên cốt cách và sức mạnh của con người Việt Nam. Cần tìm cách tạo
cho giꢀi trẻ có được sức “đề kháng” trưꢀc những loại văn hóa phẩm xấu, độc hại để tự họ
biết suy nghĩ và hành động đꢁng. Hội nhập đương nhiên là phải xem xét cả hai mặt: giống
và không thể giống. Chẳng hạn, sự giống nhau là những giá trị nhân bản, tình yêu thương
con người, yêu hòa bình... Nhưng, những gì là văn hóa dân tộc, là sự khác biệt để người ta
nhận ra đó là người Việt Nam vꢀi phẩm chất tốt, thì phải giữ.
Cùng vꢀi đó, công tác giáo dục pháp luật phải được tăng cường và đi vào thực chất
đảm bảo tính thường xuyên vꢀi những phương thức sinh động, hiệu quả, làm cho mọi người
-528-
Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII
Trường Đại học Giao thông vận tải
không những hiểu biết về pháp luật, mà còn có ý thức tự giác “sống và làm việc theo pháp
luật”. Bởi vì, sống có văn hóa trưꢀc hết phải biết sống và làm việc theo pháp luật.
Bên cạnh việc kiên trì vꢀi đường lối phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, các cấp quản lý văn hóa cũng cần phải đổi mꢀi, xây dựng những thiết chế
văn hóa phù hợp vꢀi thời đại, những chính sách, định hưꢀng đꢁng đắn để xử lý hài hòa mối
quan hệ tương tác giữa sức ép của toàn cầu hóa trên lĩnh vực văn hóa và nhu cầu bảo tồn
văn hóa dân tộc theo hưꢀng vừa tăng cường giao lưu vừa giữ được bản sắc văn hóa Việt
Nam.
Một vấn đề cũng không kém quan trọng là cần phải xác lập tính bản lĩnh của văn hóa
Việt Nam. Vì trong quá trình hội nhập, bên cạnh thuận lợi và cơ hội cho sự phát triển thì
cũng có rất nhiều thách thức, khó khăn, mà nếu không có bản lĩnh, không có những giải
pháp thực thi đꢁng đắn, phù hợp thì văn hóa sẽ rất dễ trở nên lai căng, kéo theo sự suy giảm
và mất dần văn hóa dân tộc. Ngược lại, nếu xác lập được bản lĩnh văn hóa Việt Nam thì sẽ
còn có thể làm giàu thêm, làm phong phꢁ thêm nội dung các giá trị truyền thống, tạo nên
nền tảng văn hóa tinh thần cho sự phát triển bền vững của đất nưꢀc. Ở đây, bản lĩnh văn hóa
có thể hiểu là tổng hợp những nhân tố thể hiện cốt cách, khí phách, tư chất và sức mạnh
khẳng định bản sắc dân tộc trưꢀc tác động của các nền văn hóa khác trong quá trình hội
nhập, giao lưu. Có được bản lĩnh văn hóa sẽ giꢁp tăng cường sức đề kháng vꢀi những tác
động văn hóa ngoại lai không phù hợp vꢀi bản sắc và truyền thống văn hóa dân tộc, làm cho
cơ thể văn hóa Việt Nam được “miễn dịch” vꢀi mọi tác động của các phản giá trị có thể làm
băng hoại văn hóa.
3. KẾT LUẬN
Như vậy, hội nhập và giao lưu văn hóa không phải là phép cộng các yếu tố văn
hóa bên trong và các yếu tố văn hóa bên ngoài, mà phải là quá trình tích hợp biện
chứng, sinh động, nhuần nhuyễn để tạo ra một nền văn hóa thuần Việt Nam. Ở đây, tư
cách chủ động hội nhập và giao lưu văn hóa là một đòi hỏi cao đối vꢀi quá trình chỉ
đạo hợp tác quốc tế về văn hóa. Đó là một cuộc đấu tranh không hề đơn giản để một
mặt, chống lại sự áp đặt văn hóa của các thế lực cường quyền, và mặt khác, phê phán
và khắc phục căn bệnh tự ti, bắt chưꢀc, lai căng, hoa mắt trưꢀc một số sản phẩm văn
hóa của nưꢀc ngoài; đồng thời phải bảo vệ và giữ gìn những tinh hoa văn hóa của dân
tộc. Những định hưꢀng và yêu cầu trên là cơ sở để chꢁng ta thực hiện nhiệm vụ xây
dựng và phát triển văn hóa, thực hiện nhiệm vụ hợp tác và giao lưu văn hóa trong quá
trình hội nhập, toàn cầu hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương khoá VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr 46.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương khoá VIII. Sđd., tr 56, 67.
[3]. Lê Hữu Nghĩa, Lê Ngọc Tòng. Toàn cầu hoá - Những vấn đề lý luận và thực tiễn.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.514.
[4]. UNESCO: Thập kỷ toàn thế giꢀi phát triển văn hóa, 1980, phụ lục 4, tr1)
-529-
Bạn đang xem tài liệu "Hội nhập văn hóa và vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- hoi_nhap_van_hoa_va_van_de_giu_gin_ban_sac_dan_toc_viet_nam.pdf