Minh bạch và đánh giá tính minh bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án ở Việt Nam

VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 1-14  
Review Article  
Transparency and Evaluation of Transparency  
in the Adjudication and Exercise of the Judicial Power  
of the Court in Vietnam  
Nguyen Ngoc Chi*  
VNU School of Law, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam  
Received 15 March 2021  
Revised 20 March 2021; Accepted 26 March 2021  
Abstract: Recent studies have shown that alongside the implementation of transparency, the  
evaluation of transparency in the adjudication and exercise of the judicial power of the court is an  
objective requirement for a rule-of-law country. However, each form of organization of judicial  
power and each design of the court system have a different approach to the evaluation of the  
transparency in the adjudication and exercise of the judicial power. Therefore, aside from the  
common ground that is acknowledging the importance of the evaluation of transparency in the  
adjudication and exercise of the judicial power, the purpose, mechanism, method, and criteria for  
evaluation vary in accordance to each country, each historical period. The judicial reform in  
Vietnam requires for evaluation of transparency in the adjudication and exercise of the judicial  
power of the court. Initial steps have been made to perform evaluation to a certain extent, however  
this has proven insufficient for the goal to “build a clean, strong, just, democratic, and step-by-step  
modernized judicial system to serve the people, to serve the Socialist Republic of Vietnam”. For  
this reason, this paper aims to clarify the theoretical and practical foundation of transparency and  
evaluation of transparency in the adjudication and exercise of the judicial power in Vietnam under  
the human rights-based approach, the dialectical materialism approach, and scientific research  
methods, among which the comparative law method is emphasized.  
Keywords: Judicial transparency; open and transparent justice; adjudication and exercise of judicial  
power; court; evaluation mechanism for transparency.  
D*  
_______  
* Corresponding author.  
E-mail address: chinn1957@  
1
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 1-14  
2
Minh bạch và đánh giá tính minh bạch  
trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của  
tòa án ở Việt Nam  
Nguyễn Ngọc Chí*  
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam  
Nhận ngày 15 tháng 3 năm 2021  
Chỉnh sửa ngày 20 tháng 3 năm 2021; Chấp nhận đăng ngày 26 tháng 5 năm 2021  
Tóm tắt: Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra cùng với sự thể hiện công khai, minh bạch thì đánh giá  
tính công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án là đòi hỏi  
khách quan trong nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, mỗi hình thức tổ chức thực hiện quyền tư pháp  
và mỗi phương thức thiết kế bộ máy tòa án lại có cách thức đánh giá tính công khai, minh bạch  
trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp khác nhau nên bên cạnh việc khẳng định tính tất  
yếu của hoạt động đánh giá tính công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư  
pháp thì mục đích, cơ chế, cách thức, tiêu chí đánh giá ở mỗi nhà nước, mỗi giai đoạn lịch sử lại có  
sự khác nhau. Ở Việt Nam, trong quá trình cải cách tư pháp đã đặt ra vấn đề đánh giá tính công  
khai, minh bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án và bước đầu có các  
hoạt động đánh giá ở những phạm vi nhất định nhưng chưa đáp ứng được định hướng “xây dựng  
nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại,  
phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [1]. Do đó, bài viết này hướng  
tới việc làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về minh bạch và đánh giá tính minh bạch trong hoạt động  
xét xử, thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam trên cơ sở phương pháp tiếp cận quyền, phương pháp  
tiếp cận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và các phương pháp nghiên cứu khoa học, trong đó  
nhấn mạnh đến phương pháp luật học so sánh.  
Từ khóa: Minh bạch tư pháp; công khai, minh bạch tư pháp; xét xử, thực hiện quyền tư pháp; tòa  
án; cơ chế đánh giá tính công khai, minh bạch.  
Liên Hợp quốc: “Minh bạch xét xử là một giá  
trị quan trọng thường được nói gọn là “không  
những công lý phải được thực thi, mà công lý  
phải được nhìn thấy là đã được thực thi”. Minh  
bạch xét xử cũng được công nhận là một  
nguyên tắc quan trọng trong các tài liệu nhân  
quyền quốc tế, trong đó xác định quyền được  
xét xử công khai và thông báo công khai về bản  
án là một trong những nền tảng của quyền được  
xét xử công bằng” [2]. Tại phương Tây, các  
nghiên cứu được phát triển hàng trăm năm qua  
đã hỗ trợ đắc lực trong hoạt động và cải thiện  
hiệu quả hoạt động của tòa án cũng như tính  
minh bạch trong hoạt động của cơ quan này  
thông qua việc thiết kế hệ thống, đến giám sát  
1. Công khai, minh bạch trong hoạt động xét  
xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án *  
i) Minh bạch là một trong các thuộc tính  
làm nên bản chất tiến bộ của nền tư pháp văn  
minh; thuộc tính này không những bảo đảm  
khách quan, công bằng trong quá trình giải  
quyết vụ án mà còn tạo điều kiện để xã hội,  
người dân thực hiện quyền giám sát hoạt động  
tư pháp, thông qua đó góp phần bảo đảm công  
lý, bảo đảm quyền con người. Theo tiếp cận của  
_______  
* Tác giả liên hệ.  
Địa chỉ email: xc77vttl@gmail.com  
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 1-14  
3
của quần chúng, sự đánh giá, đo lường bởi các  
định chế độc lập.  
hiệu quả và đo lường hiệu quả trong khu vực  
công ở địa phương) của H. Harty, D. Fish [3];  
Productivity in the Local Government Sector  
(Hiệu quả trong khu vực công ở địa phương)  
của J. Ross Burkhead [4]. Các vấn đề về minh  
bạch và hiệu quả gắn với những tìm kiếm và  
xây dựng các nguyên tắc quản lý nhằm nâng  
cao chất lượng, đo lường hiệu suất làm việc của  
các thiết chế công được đặc biệt chú trọng trong  
các nghiên cứu. Những công trình này đã đề  
xuất đến sự cần thiết của việc đo lường hiệu  
quả hoạt động của các cơ quan hành chính và tư  
pháp. Các nghiên cứu tập trung vào nhiệm vụ  
bổ sung các thiếu hụt về thông tin liên quan đến  
đánh giá hiệu quả hoạt động của tổ chức hành  
chính - tư pháp bằng việc phân tích tiến trình và  
hiệu quả của quá trình đánh giá, cũng như các  
tác động mang tính kinh tế - xã hội của các  
chương trình quốc gia. Nghiên cứu hiệu quả của  
hoạt động hành chính - tư pháp trong giai đoạn  
này không chỉ nhằm mục đích nâng cao chất  
lượng quản lý hay nhằm kiểm soát chi phí, mà  
quan trọng hơn là đưa ra chính sách sử dụng  
các nguồn lực hiệu quả hơn.  
Một điểm cần nhấn mạnh là từ những thập  
niên giữa thế kỷ XX, nhờ sự hỗ trợ của Liên  
Hợp Quốc, các hội nghị quốc tế tập hợp các  
chuyên gia về hoạt động quản lý nhà nước  
thường xuyên được tổ chức. Trong khuôn khổ  
các chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc,  
nhiều công trình, đề tài nghiên cứu khoa học  
lớn về liêm chính tư pháp nói chung và đánh  
giá tính công khai, minh bạch hoạt động của tòa  
án nói riêng được thực hiện. Cùng với đó là các  
nghiên cứu so sánh về phương pháp đánh giá và  
thành tựu của các nước về tính công khai, minh  
bạch của tòa án. Trong giai đoạn này, nhiều  
công trình nghiên cứu đã bổ sung và hoàn thiện  
lý thuyết về hiệu quả và tiếp cận nghiên cứu các  
phương pháp quản lý trong khu vực tư để áp  
dụng và khu vực công, trong đó có đề cập đến  
tính minh bạch tư pháp. Ở lĩnh vực nghiên cứu  
này có thể kể đến một số công trình nghiên cứu  
như: Productivity Impovement Technique (Kỹ  
thuật nâng cao hiệu quả) do J. Matzer Chủ biên  
[5]; Partitioners Guide to Public Sector  
Productivity improvement (Cẩm nang hướng  
dẫn cho nhà hoạt động thực tiễn trong nâng cao  
Ngay từ thời kỳ cổ đại các nhà tư tưởng  
như: Plato và Aristotle, Cicero đã quan tâm tới  
quyền tư pháp dưới những nghiên cứu về nhà  
nước, phân quyền giữa lập pháp, hành pháp và  
tư pháp, về thi hành pháp luật, nhưng còn sơ  
khai. Thời kỳ tiền trung cổ Augustinus, Thomas  
von Aquin và Marsilius von Padua đã quan tâm  
nghiên cứu về tổ chức thực hiện quyền lực nhà  
nước, các tác giả cho rằng trong nhà nước tồn  
tại các nhánh quyền lực và các nhánh quyền  
này cần được tách bạch. Thời kỳ Trung cổ có  
các đại diện như: J.Bodin, Th.Hobbes và  
V.L.von Seckendorff, thời cận đại (đến khoảng  
năm 1900) có các đại diện như: John Locke,  
Montesquieu, ... Đây là thời kỳ có những cuộc  
luận chiến về tổ chức quyền lực nhà nước,  
nhiều tác giả cho rằng để hạn chế quyền lực,  
chống độc quyền nên cần áp dụng nguyên tắc  
phân quyền giữa các quyền lập pháp, hành pháp  
và tư pháp. Trong trào lưu chính thống của triết  
học Đức về vấn đề nhà nước, tư pháp phải kể  
đến I. Kant, G. W. F. Hegel và K. Marx,... Các  
công trình thể hiện tư tưởng phân quyền trong  
việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước,  
cũng như thiết kế bộ máy công quyền, về thực  
thi và chấp hành pháp luật được đề cập khá  
nhiều, nhưng việc khảo cứu sâu về tư pháp, tòa  
án, đặc biệt là đặc tính minh bạch và hiệu quả  
hoạt động của tòa án chỉ mới được quan tâm  
nhiều hơn vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.  
Đến cuối thập niên 70 của thế kỷ XX, các  
phương pháp đánh giá về hiệu quả và tác động  
của chính sách pháp luật ở các nước phương  
Tây đã được xem như là phương pháp pn tích  
trong lĩnh vực chính trị - hành chính và tư pháp.  
Do áp lực phải siết chặt chi tiêu ngân sách do  
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng dầu lửa vào  
năm 1973 và những phê phán của nhóm tự do  
mới đối với việc mở rộng nhà nước phúc lợi  
nên đã xuất hiện những nghiên cứu về việc xem  
xét, kiểm soát chi phí dành cho các chương  
trình chính sách và hướng tới đánh giá “đầu vào  
- hiệu quả” hơn là “đầu ra - hiệu lực”. Tiêu biểu  
cho khuynh hướng này, có thể kể đến các ấn  
phẩm: Impoving Productivity and Productivity  
Measurement in Local Government (Nâng cao  
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 1-14  
4
hiệu quả quản lý ở khu vực công) của E.A.  
Morley [6]; Evaluation and Effective Public  
Management (Đánh giá về hiệu quả của quản lý  
công) của J. F. Wholey [7].  
thành các vấn đề giải thích hiến pháp mà  
được quyết định bằng các văn bản, thủ tục,  
nguyên tắc mà được đa số coi là luật chứ  
không phải là chính trị.  
Nghiên cứu so sánh tương đồng sẽ là một  
bổ sung quan trọng trong quá trình áp dụng  
kinh nghiệm quốc tế vào các vấn đề quốc gia.  
Đối với Việt Nam gần đây, có lẽ mô hình Đông  
Á nhận được nhiều sự quan tâm của cả giới kỹ  
trị và khoa học. Bởi lẽ, các quốc gia tại đây vừa  
có tương đồng về văn hóa với Việt Nam, song  
lại rất phát triển về kinh tế và các thiết chế xã  
hội, đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung  
Quốc. Tòa án với vai trò là trung tâm của hệ  
thống tư pháp, có tác động mạnh mẽ đến toàn  
bộ đời sống chính trị - xã hội của quốc gia.  
Do đó, mối quan tâm nghiên cứu về tòa án  
trải rộng ra nhiều phạm vi, từ mối quan hệ  
của tòa án với các thiết chế quyền lực khác,  
đến vai trò của tòa án trong việc tiếp cận công  
lý của người dân, tính liêm chính của tòa án  
trong hoạt động xét xử.  
Giáo sư Kin Sung-ho (Đại học Yonsei),  
trong bài The Constitutional Soul of Korea’s  
democracy (Linh hồn hiến pháp của nền dân  
chủ Hàn Quốc) [8] đã phân tích về vai trò ngày  
càng gia tăng của Tòa án Hiến pháp và sự xung  
đột của chủ nghĩa lập hiến với dân chủ như là  
kết quả của khuynh hướng “tư pháp hóa chính  
trị” (judicialization of politics). Cạnh đó, TS.  
Cha Dong-wook, trong bài viết The  
Constitutional Court: Political or Legal (Tòa án  
Hiến pháp: chính trị và pháp lý) [9] sau khi  
phân tích thực tiễn xét xử của tòa án, bao gồm  
hai vụ việc nổi bật vào năm 2004 (luận tội tổng  
thống và di dời thủ đô) đi đến kết luận rằng mặc  
dù chính trị bao trùm hầu hết mọi khía cạnh của  
Tòa án Hiến pháp - phương thức lựa chọn các  
thẩm phán, các cá nhân và cơ quan có thể tiếp  
cận tòa án, các vụ việc mà tòa án đã xét xử và  
các phản ứng đối với một phán quyết. Tuy vậy,  
Tòa án Hiến pháp phải thuyết phục xã hội rằng  
các phán quyết của mình không dựa trên các  
cân nhắc chính trị đảng phái thiên lệch mà dựa  
trên luật pháp trung lập, khách quan, ngay cả  
khi các vấn đề rõ ràng là gây tranh cãi về nguồn  
gốc hoặc hậu quả chính trị. Tòa án cần phải  
chuyển cách tranh cãi về chính sách công  
Nghiên cứu so sánh tại các quốc gia Đông  
Á ngày càng nhận được sự quan tâm lớn hơn  
của các học giả trong khu vực cũng như trên thế  
giới. Tương đối nổi bật trong khu vực là Giáo  
sư Wen-chen Chang, tại Đại học Quốc gia Đài  
Loan, người có nhiều nghiên cứu so sánh về sự  
tiến triển của các chủ nghĩa lập hiến và ưu điểm  
của mô hình tư pháp ở Đông Á trong vai trò là  
một đối trọng quyền lực. Bà có một số nghiên  
cứu đăng tạp chí như East Asian Foundation  
for  
Constitutionalism:  
Three  
Models  
Reconstructed (Nền tảng Đông Á cho chủ nghĩa  
hợp hiến: tái thiết ba mô hình) [10]; The  
Emergence of East Asian Constitutionalism:  
Features in Comparison (Sự nổi lên của chủ  
nghĩa lập hiến Đông Á: so sánh các đặc điểm)  
[11, tr.805], viết chung với GS. Jiunn-Rong  
Yeh cùng ở Đại học Đài Loan; Strategic  
judicial responses in politically charged cases:  
East Asian experiences (Phản ứng mang tính  
chiến lược của cơ quan tư pháp đối với các vụ  
án hình sự về chính trị: kinh nghiệm Đông Á)  
[12], so sánh chủ yếu kinh nghiệm của Đài  
Loan và Hàn Quốc khi xét xử các chính trị gia  
cao cấp,…  
ii) Các nghiên cứu về minh bạch tư pháp,  
tuy còn có khác biệt nhưng đều chỉ ra những  
đặc điểm chung sau đây:  
Thứ nhất, minh bạch tư pháp là tất yếu  
trong nhà nước nước pháp quyền. Nhà nước  
pháp quyền đòi hỏi mọi quyền lực nhà nước  
đều thuộc về nhân dân và việc thực hiện quyền  
lực nhà nước phải công khai, minh bạch và có  
sự tham gia của dân trên cơ sở trách hiệm giải  
trình của các cơ quan nhà nước. Các nghiên cứu  
ở Việt Nam đưa ra lập luận về sự tất yếu, đòi  
hỏi của nhà nước pháp quyền XHCN đối với  
minh bạch tư pháp như sau: “Quyền lực chính  
trị, quyền lực nhà nước là công khai, hợp pháp.  
Quyền tư pháp với tư cách là một trong ba bộ  
phận, phạm vi, lĩnh vực, loại quyền lực nhà  
nước, tất yếu, là công khai, hợp pháp. Chế độ tư  
pháp là công khai, vì xét trên tất cả các phương  
diện, chế độ tư pháp ghi nhận, thể hiện việc tổ  
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 1-14  
5
chức và thực hiện quyền tư pháp, do vậy, là  
công khai, hợp pháp.”[13] Tư pháp là một trong  
những nhánh quyền lực nhà nước, do đó, xét xử  
- hoạt động quan trọng nhất của tòa án cần phải  
được minh bạch, đó là thẩm quyền được trao  
cho tòa án và các thẩm phán xem xét và quyết  
định các vụ việc và đưa ra phán quyết có giá trị  
bắt buộc thi hành đối với các vụ việc ấy; quyền  
giải thích và áp dụng pháp luật khi có tranh cãi  
phát sinh từ việc một điều gì đó có phù hợp hay  
không phù hợp với pháp luật điều chỉnh việc ấy  
[14, tr.924]. Theo tài liệu Hướng dẫn tăng  
cường năng lực và liên chính Tư pháp của Liên  
hợp quốc thì: “Minh bạch xét xử là một giá trị  
quan trọng thường được nói gọn là không  
những công lý phải được thực thi, mà công lý  
phải được nhìn thấy là đã được thực thi” [15].  
Minh bạch xét xử cũng được công nhận là một  
nguyên tắc quan trọng trong các tài liệu nhân  
quyền quốc tế, trong đó xác định quyền được  
xét xử công khai và thông báo công khai về bản  
án là một trong những nền tảng của quyền được  
xét xử công bằng [16]. Đồng thời, minh bạch tư  
pháp còn đòi hỏi “sự tiếp cận hiệu quả với  
thông tin như những cách thức để củng cố sự  
tham gia của người dân” [20; tr.85]. Như vậy,  
minh bạch tư pháp là đòi hỏi tất yếu khách quan  
trong nhà nước pháp quyền, là một bảo đảm  
quyền con người và có ý nghĩa to lớn trong đời  
sống xã hội.  
Thứ hai, minh bạch tư pháp có phạm vi  
rộng với các nội hàm sau: a) Minh bạch tư pháp  
không chỉ là sự rõ ràng của các quy định pháp  
luật mà còn bao gồm cả sự công khai kết quả  
hoạt động xét xử của tòa án và việc tiếp cận  
thông tin đối với tất cả các vấn đề về tổ chức,  
nhân sự, các điều kiện hoạt động liên quan đến  
xét xử; b) Minh bạch trong việc xây dựng, ban  
hành pháp luật, bảo đảm hệ thống pháp luật  
nhất là luật tố tụng phải phù hợp với các tiêu  
chí quốc tế về quyền con người và các chuẩn  
mực tố tụng mang tính phổ quát của nhân loại;  
c) Hoạt động xét xử của tòa án phải được minh  
bạch, bảo đảm việc xét xử được công khai trừ  
một số trường hợp đặc biệt; d) Người dân và  
giới truyền thông phải tiếp cận được với các tài  
liệu, hồ sơ và bản án của tòa án. “Để minh  
bạch, tòa án phải đảm bảo rằng người dân và  
giới truyền thông có thể tham dự phiên tòa,  
nhưng quan trọng không kém là phải luôn sẵn  
sàng để người dân tiếp cận với các tài liệu của  
tòa án, nhất là bản án và những quyết định  
khác, cũng như các thông tin hành chính liên  
quan đến tòa án” [2, tr.85]; e) Minh bạch tư  
pháp gắn liền với trách nhiệm giải trình tư  
pháp. Trong tư pháp, trách nhiệm giải trình  
thuộc về tòa án, cơ quan đã nhận quyền lực từ  
nhân dân và đặt ra mục tiêu thực thi quyền lực  
vì nhân dân thì đồng thời có nghĩa vụ trả lời, lý  
giải và chịu trách nhiệm đối với hoạt động xét  
xử của mình. Do đó, minh bạch tư pháp gắn  
liền với trách nhiệm giải trình, tòa án có trách  
nhiệm cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin  
về quyết định, bản án và các vấn đề khác có liên  
quan đến việc thực hiện chức năng xét xử và  
thực hiện quyền tư pháp của mình.  
Thứ ba, phạm vi của minh bạch tư pháp.  
Các nghiên cứu ở Việt Nam quan niệm minh  
bạch tư pháp theo nghĩa hẹp và tách bạch thành  
hai khái niệm “công khai”, “minh bạch” khác  
với “Minh bạch” theo quan niệm chung của thế  
giới, khi đề cập đến minh bạch đã bao gồm cả  
công khai. Sự khác nhau này không ảnh hưởng  
nhiều đến bản chất của minh bạch tư pháp mà  
chỉ mang tính kỹ thuật khi nghiên cứu phạm trù  
này. Theo đó: a) “Tính công khai của chế độ tư  
pháp bảo đảm để mọi người có thể biết đến,  
hiểu được, giám sát được quyền tư pháp và việc  
thực hiện quyền tư pháp, đồng thời nâng cao  
tinh thần trách nhiệm của các chủ thể quyền tư  
pháp và thực hiện quyền tư pháp và các chủ thể  
tham gia thực hiện quyền tư pháp”; và bao gồm  
công khai về chế độ pháp luật về tư pháp; công  
khai về tổ chức thực hiện quyền tư pháp - tổ  
chức của Toà án; công khai về hoạt động thực  
hiện quyền tư pháp - hoạt động của Toà án;  
công khai về kết quả hoạt động thực hiện quyền  
tư pháp - kết quả hoạt động của Toà án; công  
khai về Thẩm phán” [13]; b) “Tính minh bạch  
của chế độ tư pháp có nghĩa là tính rõ ràng,  
rành mạch, tính hiểu được của chế độ tư pháp.  
Tính minh bạch của chế độ tư pháp được thể  
hiện ở sự minh bạch của các quy định pháp luật  
thuộc chế độ pháp luật về tư pháp, tính minh  
bạch trong hoạt động của Toà án, tính rõ ràng,  
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 1-14  
6
tính hiểu được của/về các phán quyết của Toà  
án” [13].  
Trên cả hai phương diện này, khi tiến hành  
đánh giá cần phải dựa trên các căn cứ, tiêu chí  
nhất định làm cơ sở và lập luận cho việc đánh  
giá. Nói cách khác, việc đánh giá tính minh  
bạch trong hoạt động xét xử vụ án hình sự cần  
phải được tiến hành trên hai phương diện, đó là  
mức độ minh bạch được thể hiện trong các hệ  
thống pháp luật TTHS và mức độ đạt được về  
tính minh bạch trong thực tiễn hoạt động xét xử  
của tòa án.  
2. Đánh giá tính công khai, minh bạch trong  
hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp  
của tòa án  
Nếu như công khai, minh bạch là quy luật  
tất yếu đối với hoạt động xét xử, thực hiện  
quyền tư pháp của tòa án trong nhà nước pháp  
quyền thì việc đánh giá mức độ đạt được tính  
công khai, minh bạch thì việc đánh giá nó so  
với mục tiêu đặt ra cũng là đòi hỏi khách quan,  
do yêu cầu của việc kiểm soát thực hiện quyền  
lực tư pháp thông qua hoạt động xét xử của toà  
án. Nếu như tính minh bạch trong hoạt động xét  
xử vụ án hình sự đã được thể hiện trong hệ  
thống pháp luật thì sẽ đòi hỏi sự kiểm tra, đánh  
giá mức độ minh bạch được thể hiện như thế  
nào trong thực tiễn xét xử, đồng thời thông qua  
đó cũng đánh giá được mức độ thỏa mãn các  
yêu cầu về tính minh bạch trong hoạt động xét  
xử của xã hội đối với hệ thống pháp luật.  
Ở mỗi mô hình tổ chức thực hiện quyền tư  
pháp và mỗi phương thức thiết kế Bộ máy tòa  
án lại có cách thức đánh giá tính công khai,  
minh bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện  
quyền tư pháp khác nhau nên bên cạnh việc  
khẳng định tính yếu của hoạt động đánh giá tính  
công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử,  
thực hiện quyền tư pháp thì mục đích, cơ chế,  
cách thức, tiêu chí đánh giá ở mỗi nhà nước,  
mỗi giai đoạn lịch sử lại có sự khác nhau.  
Trong khuôn khổ các Chương trình phát  
triển của Liên Hợp quốc, nhiều công trình, đề  
tài nghiên cứu khoa học lớn về liêm chính tư  
pháp đã khẳng định việc đánh giá tính công  
khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của  
các cơ quan tư pháp được coi trọng trong xu thế  
cải cách hiện nay và coi đó là một trong những  
nền tảng của quyền được xét xử công bằng [2].  
Việc đánh giá tính minh bạch trong hoạt  
động xét xử vụ án hình sự cần phải được tiến  
hành trên hai phương diện, đó là mức độ minh  
bạch được thể hiện trong các hệ thống pháp luật  
TTHS và mức độ đạt được về tính minh bạch  
trong thực tiễn hoạt động xét xử của tòa án.  
3. Cơ chế đánh giá và cách tiếp cận đối với  
việc đánh giá tính công khai, minh bạch  
trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư  
pháp của tòa án  
3.1. Khái niệm cơ chế đánh giá tính công khai,  
minh bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện  
quyền tư pháp của tòa án  
Cho đến nay chưa có khái niệm cơ chế đánh  
giá tính công khai, minh bạch trong hoạt động  
xét xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án được  
đưa ra, tuy nhiên, theo ngữ nghĩa của các từ  
điển thì có thể hiểu “cơ chế đánh giá tính công  
khai, minh bạch trong hoạt động xét xử, thực  
hiện quyền tư pháp của tòa án là sự vận hành  
của các bộ phận trong hoạt động đánh giá tính  
công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử,  
thực hiện quyền tư pháp của tòa án tại thời  
điểm nhất định theo quy định của pháp luật và  
quy trình được ấn định nhằm xác định mức độ  
minh bạch được thể hiện trong các hệ thống  
pháp luật TTHS và mức độ đạt được về tính  
minh bạch trong thực tiễn hoạt động xét xử của  
tòa án. Khái niệm này phù hợp với các nghiên  
cứu gần đây, nhất là của Liên hợp quốc và đã  
chỉ ra các nội hàm của cơ chế đánh giá tính  
công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử,  
thực hiện quyền tư pháp của tòa án, theo đó, sẽ  
bao gồm:  
Thứ nhất, chủ thể đánh giá tính công khai,  
minh bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện  
quyền tư pháp của tòa án.  
Việc đánh giá tính công khai, minh bạch  
trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp  
của tòa án, ở mức độ khái quát nhất có thể  
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 1-14  
7
khẳng định bất kỳ ai, cơ quan, tổ chức nào cũng  
có thể tiến hành với những mục đích khác nhau.  
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì chỉ  
những chủ thể nhất định mới có trách nhiệm,  
nghĩa vụ đánh giá tính công khai, minh bạch  
trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp  
của tòa án và theo cách phân loại thông thường  
sẽ có đánh giá trong và đánh giá ngoài, mà mỗi  
loại đánh giá này sẽ có các chủ thể tương ứng.  
Theo đó, tòa án là chủ thể đánh giá tính công  
khai, minh bạch trong hoạt động xét xử, thực  
hiện quyền tư pháp (đánh giá trong), trước hết  
phải do từng tòa án và tòa án cấp trên tiến hành  
nhằm xác định mức độ công khai, minh bạch  
đối với các hoạt động của mình thông qua việc  
kiểm tra, thanh tra, giám đốc xét xử, kháng  
nghị...theo quy định của pháp luật. Các cơ  
quan, tổ chức, cá nhân bên ngoài hệ thống tòa  
án là chủ thể đánh giá tính công khai, minh  
bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư  
pháp của tòa án (đánh giá ngoài) trên cơ sở quy  
định của pháp luật.  
cách tiếp cận và phương thức đánh giá...làm cơ  
sở cho các hoạt động đánh giá tính công khai,  
minh bạch trong thực tiễn hoạt động xét xử của  
tòa án là một trong những nền tảng của quyền  
được xét xử công bằng [2, tr.85].  
Thứ ba, hình thành quy trình đánh giá tính  
công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử,  
thực hiện quyền tư pháp của tòa án.  
Việc đánh giá đòi hỏi khách quan, phản ánh  
trung thực mức độ công khai, minh bạch trong  
xét xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án nên  
cần có quy trình đánh khoa học với mục tiêu  
phù hợp, căn cứ, tiêu chí đánh giá cụ thể, rõ  
ràng và các điều kiện đánh giá phải bảo đảm.  
“Do vậy, việc đánh giá hoạt động phải được  
thực hiện không chỉ về phương diện pháp lý và  
quản lý mà còn phải thông qua việc tạo ra các  
kênh để lắng nghe tiếng nói từ những đối tượng  
tham gia tố tụng tại tòa án và những kỳ vọng  
chung của công chúng.”[2, tr.102] Quy trình  
đánh giá tính công khai, minh bạch trong hoạt  
động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án  
bao gồm những bước sau đây: i) Xác định mục  
tiêu của việc đánh giá tính công khai, minh  
bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư  
pháp của tòa án là quan trọng, có ý nghĩa định  
hướng cho hoạt động đánh giá. Mục tiêu phải rõ  
ràng, cụ thể, nêu rõ thời hạn và ý nghĩa của việc  
đánh giá; ii) Xây dựng các chỉ số đánh giá tính  
công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử,  
thực hiện quyền tư pháp của tòa án cần cụ thể,  
có thể so sánh được các chỉ số định tính và định  
lượng. Hình thành một bộ các biến số để đánh  
giá những thay đổi đối với minh bạch tư pháp  
trong khoảng thời gian nhất định; iii) Thu thập  
nguồn dữ liệu, lựa chọn các phương pháp và kỹ  
thuật đánh giá: Việc xây dựng các chỉ số đánh  
giá phải được xây dựng trên cơ sở tính đến các  
dữ liệu thông tin có sẵn, các dữ liệu có thể thu  
thập được và chi phí của việc thu thập và phân  
tích dữ liệu thông tin tiết giảm đến mức thấp  
nhất có thể. Với cách tiếp cận này thì nguồn dữ  
liệu thu thập cần hướng tới những dữ liệu sẵn  
có để giảm thiểu tối đa chi phí, đồng thời phải  
lựa chọn các phương pháp và biện pháp kỹ  
thuật hiệu quả, khách quan, phù hợp. Trong mọi  
trường hợp, dữ liệu thu thập được phải chuyển  
thành thông tin và kiến thức có thể góp phần  
Thứ hai, việc đánh giá tính công khai, minh  
bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư  
pháp của tòa án phải được luật hóa.  
Là một bộ phận của tính công khai, minh  
bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư  
pháp của tòa án thì việc đánh giá tính công  
khai, minh bạch trong hoạt động xét xử, thực  
hiện quyền tư pháp của tòa án cũng cần phải  
được quy phạm hóa, buộc các chủ thể liên quan  
phải thực hiện. Nếu như tính minh bạch trong  
hoạt động xét xử vụ án hình sự đã được thể hiện  
trong hệ thống pháp luật thì sẽ đòi hỏi sự kiểm  
tra, đánh giá mức độ minh bạch được thể hiện  
như thế nào trong thực tiễn xét xử, đồng thời  
thông qua đó cũng đánh giá được mức độ thỏa  
mãn các yêu cầu về tính minh bạch trong hoạt  
động xét xử của xã hội đối với hệ thống pháp  
luật. Như vậy, trên cả hai phương diện, đó là  
mức độ công khai, minh bạch được thể hiện  
trong các hệ thống pháp luật tố tụng và mức độ  
đạt được về tính công khai, minh bạch trong  
thực tiễn hoạt động xét xử của tòa án đều phải  
được pháp luật quy định. Pháp luật về đánh giá  
tính công khai, minh bạch trong thực tiễn hoạt  
động xét xử của tòa án điều chỉnh phạm vi, giới  
hạn quyền, nghĩa vụ của các chủ thể cũng như  
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 1-14  
8
nâng cao hiệu quả việc thực hiện chức năng của  
tòa án. Chất lượng dữ liệu phải luôn luôn được  
kiểm chứng dù đó là dữ liệu được thu thập từ sổ  
ghi án bằng giấy, hay đối với các dữ liệu thu  
thập được từ các hệ thống quản lý án điện tử.  
Cần có những nỗ lực để đảm bảo rằng việc  
nhập dữ liệu được đồng bộ, thống nhất ở mức  
cao nhất nhằm tránh làm cho việc so sánh giữa  
các tòa án bị sai lệch khi thu thập thông tin  
bằng các tiêu chí khác nhau. Trong nỗ lực này  
việc xây dựng một cuốn từ điển dữ liệu cũng  
như sự tham gia của các cơ quan thanh tra trong  
việc kiểm soát chất lượng dữ liệu là cần thiết [2,  
tr.102].  
- Cách tiếp cận thực nghiệm: Hướng tới giải  
quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn là cơ sở  
cho việc hình thành cơ chế và tiêu chí đánh giá  
tính công khai, minh bạch trong hoạt động xét  
xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án. Cách  
tiếp cận này, ngoài các vấn đề lý luận về tính  
công khai, minh bạch của hoạt hoạt động xét  
xử, thực hiện quyền tư pháp,... còn cũng được  
sử dụng để quan sát thực trạng cơ chế đánh giá  
tính công khai, minh bạch trong hoạt động xét  
xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án, thông  
qua đó đưa ra những nhận xét đầy đủ, khách  
quan về hoạt động đánh giá tính công khai,  
minh bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện  
quyền tư pháp của tòa án.  
3.2. Cách tiếp cận khi đánh giá tính công khai,  
minh bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện  
quyền tư pháp của tòa án  
4. Minh bạch tư pháp ở một số nước trên  
thế giới  
Khi đánh giá tính công khai, minh bạch  
trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp  
của tòa án cần phải lựa chọn cách tiếp cận phù  
hợp với thực tiễn và mục tiêu đánh giá đã xác  
định. Theo các nghiên cứu của Liên hợp quốc  
những năm gần đây thì việc đánh giá tính công  
khai, minh bạch trong hoạt động xét xử, thực  
hiện quyền tư pháp của tòa án có các cách tiếp  
cận sau:  
- Tiếp cận toàn diện: Liên Hợp quốc, Hướng  
dẫn tăng cường năng lực và liêm chính tư pháp  
của Liên hợp quốc đã chỉ ra: “Một sự đánh giá  
mang tính toàn diện đối với các hệ thống tư  
pháp đang trở thành một thách thức có tính  
chiến lược đối với các nền tư pháp trên toàn thế  
giới.” Cách tiếp cận này, đòi hỏi không chỉ  
đánh giá tính công khai, minh bạch trong hoạt  
động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án  
mà còn phải đánh giá những gì được coi là hoạt  
động pháp lý của một tòa án và về các chủ thể  
có liên quan đến hoạt động xét xử (thẩm phán,  
thư ký,…) [2].  
Trên cơ khảo cứu minh bạch tư pháp ở Anh,  
Hoa Kỳ, Trung Quốc [22] cho thấy các quốc gia  
đều nỗ lực thúc đẩy minh bạch tư pháp và thể  
hiện các đặc điểm sau:  
Thứ nhất, việc thúc đẩy minh bạch tư pháp  
gắn liền với các quy định về công bố thông tin  
của chính phủ. Luật công bố thông tin của  
chính phủ được xây dựng không chỉ là nhu cầu  
của quốc gia trong việc xây dựng nhà nước dân  
chủ và tạo điều kiện cho người dân tham gia  
xây dựng chính sách công mà còn là nhu cầu  
chống tham nhũng cũng như nhu cầu hiện  
đại hoá và phát triển thông tin. Có thể nói,  
sự tiến bộ của luật công bố thông tin không  
chỉ cải thiện tính minh bạch của các cơ quan  
chính phủ mà còn thể hiện nhu cầu công  
khai, minh bạch, là nền tảng và thúc đẩy việc  
công khai thông tin của các Toà án và các cơ  
quan công quyền khác.  
Thứ hai, các quốc gia đều quan tâm đến  
việc xây dựng hệ thống, thiết lập các quy tắc và  
quy định, làm rõ trách nhiệm của các Toà án  
trong việc thúc đẩy minh bạch tư pháp. Thúc  
đẩy minh bạch tư pháp là một phương tiện quan  
trọng để bảo vệ các bên và quyền của công  
chúng được biết và giám sát các hoạt động tư  
pháp. Để đảm bảo rằng cơ quan tư pháp công  
bố thông tin một cách kịp thời, toàn diện chính  
- Tiếp cận thường xuyên: Việc đánh giá tính  
công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử,  
thực hiện quyền tư pháp của tòa án được đa  
phần các nước tiến hành thường xuyên, có ý  
nghĩa tích cực đối với việc thực hiện chức năng  
xét xử của tòa án.  
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 1-14  
9
xác và hiệu quả, trách nhiệm của các cơ quan tư  
pháp phải được làm rõ, chẳng hạn như những gì  
Toà án các cấp phải công bố, tiết lộ ở đâu, khi  
nào cho ai,Trong quá trình thúc đẩy minh  
bạch tư pháp, các quốc gia và khu vực đã rất coi  
trọng việc xây dựng hệ thống pháp luật, nhấn  
mạnh tăng cường pháp luật về tính công khai của  
tư pháp, tập trung vào các yêu cầu cụ thể về tính  
công khai của tư pháp vào việc thực hiện các  
nhiệm vụ khác nhau của Toà án.  
đáp ứng nhu cầu tư pháp đa dạng của công  
chúng và thúc đẩy hiệu quả công bằng tư pháp,  
góp phần tạo ra uy tín tư pháp. Chung quy lại,  
các quốc gia dù mang thể chế chính trị, hệ  
thống pháp luật nào cũng được miễn mang lại  
lợi ích cho người dân.  
5. Thực trạng, thực tiễn đánh giá tính công  
khai, minh bạch trong hoạt động xét xử, thực  
hiện quyền tư pháp của tòa án ở Việt Nam  
Thứ ba, coi trọng ứng dụng công nghệ  
thông tin và internet để tăng cường minh bạch  
tư pháp. Việc phổ cập, ứng dụng công nghệ  
thông tin và internet là dấu hiệu quan trọng cho  
sự xuất hiện của xã hội thông tin, công nghệ  
thông tin không chỉ ảnh hưởng đến phương  
thức trao đổi thông tin, phương thức sản xuất và  
đời sống của người dân mà còn ảnh hưởng đến  
hoạt động của chính phủ, thúc đẩy sự phát triển  
của chính phủ điện tử, thúc đẩy mạnh mẽ sự  
minh bạch của tư pháp. Với việc sử dụng rộng  
rãi công nghệ thông tin, internet trong các hoạt  
động của chính phủ, các cơ quan chính phủ của  
các quốc gia đã liên tiếp khởi động các dự án  
internet của chính phủ, sử dụng internet để thực  
hiện công bố thông tin, sử dụng các dịch vụ  
trực tuyến và tăng cường tương tác giữa chính  
phủ và công chúng. Làn sóng này cũng ảnh  
hưởng không nhỏ tới ngành tư pháp. Toà án của  
các quốc gia cũng đã và đang tham gia làn sóng  
chính phủ điện tử, thúc đẩy các hoạt động tư  
pháp trực tuyến. Sau khi internet ra đời như một  
phương tiện, sự minh bạch tư pháp đã có một  
nền tảng công bố thông tin hiệu quả, có hệ  
thống, hiệu quả và toàn diện hơn. Các cơ quan  
tư pháp có thể công khai một lượng lớn thông  
tin tư pháp cho một số lượng lớn người dân một  
cách kịp thời, nhanh chóng, thuận tiện, tiết  
kiệm thời gian và tiền bạc.  
5.1. Chính sách và pháp luật về đánh giá tính  
công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử,  
thực hiện quyền tư pháp của tòa án ở Việt Nam  
Trên cơ sở Nghị quyết số 49-NQ/TW về  
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 [i)  
Mục tiêu] Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên xác  
định tòa án có vai trò trung tâm trong thực hiện  
quyền tư pháp (Điều 102) đã phản ánh nhu cầu  
công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử  
của tòa án Việt Nam. Điều 31 Hiến pháp  
năm 2013 quy định: “ii) Người bị buộc tội  
phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời  
hạn luật định, công bằng, công khai. Trường  
hợp xét xử kín theo quy định của luật thì  
việc tuyên án phải được công khai.”. Trên cơ  
sở Hiến pháp Luật Tổ chức Tòa án năm 2014  
(Điều 11), Luật Tổ chức điều tra hình sự  
năm 2015 (Điều 13) quy định việc công  
khai, minh bạch trong hoạt động tư pháp.  
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Bộ  
luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định thủ tục  
giải quyết vụ án hướng tới bảo đảm tính công  
khai, minh bạch trong hoạt động giải quyết vụ  
án đồng thời quy định trách nhiệm giải trình  
hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp. Các  
nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng,  
công khai (Điều 15 BLTTHDS năm 2015; Điều  
25 BLTTHS năm 2015); Nguyên tắc bảo đảm  
tranh tụng trong xét xử (Điều 26 BLTHS năm  
2015),… được quy định bảo đảm cho hoạt động  
tư pháp được tiến hành công khai, minh bạch và  
khẳng định trách nhiệm giải trình của các cơ  
quan tư pháp.  
Minh bạch tư pháp là yếu tố không thể thiếu  
trong công cuộc xây dựng một nền tư pháp văn  
minh, hiện đại mà các quốc gia Anh, Hoa Kỳ,  
Trung Quốc đều muốn hướng tới. Mặc dù còn  
nhiều sự khác biệt nhưng đều có chung mục  
đích, các quốc gia trên đều không ngừng cải  
thiện nền tảng minh bạch tư pháp, đổi mới các  
biện pháp minh bạch tư pháp, nâng cao chất  
lượng và hiệu quả của công khai minh bạch,  
Thủ tục tố tụng hiện hành ở mức độ nào đó  
đã ấn định tính công khai, minh bạch và trách  
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 1-14  
10  
nhiệm giải trình của hệ thống tư pháp Việt  
Nam, chẳng hạn các phiên xử được tổ chức  
công khai ngoại trừ trường hợp liên quan đến  
danh dự cá nhân hoặc thuần phong mỹ tục, hoặc  
các bên liên quan được quyền xuất trình chứng  
cứ và tranh luận công khai tại phiên xử.  
thông qua việc triển khai các biện pháp: Đẩy  
mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là  
công nghệ thông tin; Xây dựng hệ thống tố tụng  
điện tử thông minh - hệ thống cốt lõi để xây  
dựng Tòa án điện tử, bảo đảm hoạt động của  
Tòa án được công khai, người dân dễ tiếp cận  
và giám sát, các vụ việc phải được thụ lý và giải  
quyết nhanh chóng; Xây dựng hình ảnh Tòa án  
thân thiện, “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học  
dân”; Gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng  
cứ và cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng  
bằng phương tiện điện tử [27]. Thứ ba, thực  
hiện việc công khai bản án [28, 29], xây dựng  
và đưa Trang thông tin điện tử Công bố bản án,  
quyết định của Tòa án vào hoạt động; Thứ tư,  
kiểm tra, kiểm soát việc giải quyết đơn thư  
khiếu nại, tố cáo đối với hoạt động xét xử của  
Tòa án, trong đó có đánh giá về tính công khai,  
minh bạch trong hoạt động xét xử; Thứ năm,  
Giám đốc việc xét xử. Thời gian qua, Tòa án  
nhân dân tối cao đã đề ra nhiều giải pháp có  
tính đột phá để nâng cao kết quả giải quyết đơn  
đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, đã đổi mới  
việc tiếp nhận và thụ lý đơn đề nghị giám đốc  
thẩm, tái thẩm, quản lý chặt chẽ số đơn phải  
giải quyết, đã giải quyết, chưa giải quyết, đánh  
giá hoạt động xét xử (trong đó có tính công  
khai, minh bạch) của Tòa án thông qua công tác  
giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên trong  
những năm qua được quan tâm. Thứ sáu, đánh  
giá tính công khai, minh bạch hoạt động xét xử  
của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp thông  
qua việc xem xét báo cáo công tác của Tòa án  
nhân dân và hoạt động chất vấn trong các Kỳ  
họp của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp.  
Như vậy, Việt Nam đã có khá nhiều chính  
sách, quy định pháp luật quy định những yêu  
cầu và nguyên tắc công khai, minh bạch trong  
hoạt động xét xử của Tòa án. Những quy định  
này tập trung trên các khía cạnh sau: i) Công  
khai, minh bạch trong hoạt động tổ chức xét xử  
(chuẩn bị xét xử, xét xử tại phiên tòa); ii) Công  
khai, minh bạch trong kết quả của hoạt động xét  
xử; iii) Công khai, minh bạch trong kiểm tra,  
giám đốc việc xét xử; và quyền được tiếp cận  
các thông tin về hoạt động xét xử của tòa án.  
Tương ứng với các yêu cầu công khai, minh  
bạch, Việt Nam cũng có các cơ chế để kiểm tra,  
đánh giá kết quả thực hiện. Mặc dù các cơ chế  
đánh giá không được quy định tập trung, thành  
hệ thống trong một văn bản và cũng chưa được  
luật hóa rõ ràng với tư cách là các tiêu chí đánh  
giá tính công khai, minh bạch của Tòa án nhưng  
thông qua các quy định pháp luật về yêu cầu  
công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử có  
thể xác định thành các cơ chế đánh giá nhằm  
“đo lường” mức độ công khai, minh bạch trong  
hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của  
Tòa án ở Việt Nam hiện nay.  
5.2. Thực tiễn đánh giá tính công khai, minh  
bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư  
pháp của tòa án ở Việt Nam  
Mặc dù chưa hình thành cơ chế nhưng thực  
tiễn đã có một số hoạt động đánh giá tính công  
khai, minh bạch trong hoạt động xét xử, thực  
hiện quyền tư pháp của tòa án ở Việt Nam, cụ  
thể như sau: Thứ nhất, Tòa án thường xuyên  
kiểm tra việc bố trí phòng xử án đã thể hiện  
được sự trang nghiêm, an toàn, bảo đảm sự bình  
đẳng giữa người thực hành quyền công tố và  
luật sư, người bào chữa khác, khi tham gia  
phiên tòa, bảo đảm tính công khai của hoạt  
động xét xử và uốn nắn những sai sót, lệch lạc  
[24 - 26]; Thứ hai, tăng cường kiểm tra tính  
công khai, minh bạch của hoạt động xét xử  
6. Hoàn thiện cơ chế đánh giá tính công khai,  
minh bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện  
quyền tư pháp của tòa án góp phần cải cách  
tư pháp ở Việt Nam  
6.1. Những yêu cầu của việc hoàn thiện cơ chế  
đánh giá tính công khai, minh bạch trong hoạt  
động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án  
Đánh giá tính công khai, minh bạch trong  
hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp  
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 1-14  
11  
của tòa án là tất yếu khách quan trong quá  
trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN  
trong giai đoạn hiện nay, do đó đòi hỏi phải  
có cơ chế đánh giá khách quan, hiệu quả, phù  
hợp với điều kiện ở nước ta xuất phát từ  
những yêu cầu sau:  
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt  
động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét  
xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao  
[1, Mục tiêu] đặt ra yêu cầu cần phải hình  
thành cơ chế đánh giá tính công khai, minh  
bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền  
tư pháp của tòa án.  
i) Thực tiễn hoạt động xét xử, thực hiện  
quyền tư pháp ở nước ta những năm qua cho  
thấy, bên cạnh một số hoạt động đánh giá của  
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp thông qua  
việc thực hiện quyền giám sát và chất vấn tại  
các kỳ họp hoặc hoạt động kiểm tra, giám đốc  
xét xử của tòa án thì cơ chế đánh giá tính công  
khai, minh bạch trong hoạt động xét xử, thực  
hiện quyền tư pháp của tòa án chưa hình thành  
rõ nét. Tính công khai, minh bạch trong hoạt  
động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án  
chỉ được đề cập ở một số hoạt động đơn lẻ của  
tòa án và cơ quan quyền lực, chưa phải là yêu  
cầu bắt buộc đối với đối với hoạt động của các  
cơ quan này.  
6.2. Những vấn đề hoàn thiện cơ chế đánh giá  
tính công khai, minh bạch trong hoạt động xét  
xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án  
Những yêu cầu nêu trên cho thấy việc hoàn  
thiện cơ chế đánh giá tính công khai, minh bạch  
trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp  
của tòa án là cần thiết và hết sức cấp bách trong  
giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay. Việc hoàn  
thiện cơ chế đánh giá tính công khai, minh bạch  
trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp  
của tòa án cần xuất phát từ yêu cầu cải cách tư  
pháp, thực tiễn giải quyết vụ án và các điều kiện  
bảo đảm cho hoạt động đánh giá cũng như kinh  
nghiệm quốc tế và các kết quả nghiên cứu khoa  
học trong lĩnh vực này. Do đó, những vấn đề sau  
đây sẽ được đề cập khi hoàn thiện cơ chế đánh giá  
tính công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử,  
thực hiện quyền tư pháp của tòa án:  
ii) Mặc dù đã có những quy định của pháp  
luật về trách nhiệm của một số chủ thể đánh giá  
tính công khai, minh bạch trong hoạt động xét  
xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án nhưng  
chưa đầy đủ, nhiều nội dung của cơ chế đánh  
giá chưa được luật hóa.  
i) Luật hóa việc đánh giá tính công khai,  
minh bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện  
quyền tư pháp của tòa án. Cần phải quy định rõ  
trong luật trách nhiệm đánh giá của mỗi tòa án  
và toàn bộ hệ thống tòa án về tính công khai,  
minh bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện  
quyền tư pháp của tòa án và kết quả đánh giá  
này phải được phản ánh trong Báo cáo hằng  
tháng, quý, Báo cáo thường niên và được công  
khai để mọi thành phần trong xã hội có thể tiếp  
cận dễ dàng. Tương tự như vậy, khi Quốc hội,  
Hội đồng nhân dân các cấp tiến hành giám sát,  
chất vấn phải có nội dung đánh giá tính công  
khai, minh bạch trong hoạt động xét xử, thực  
hiện quyền tư pháp của tòa án.  
iii) Bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý  
là một trong những mục tiêu quan trọng của tố  
tụng tư pháp, do vậy cần có cơ chế đánh tính  
công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử,  
thực hiện quyền tư pháp của tòa án hiệu quả xác  
định khách quan mức độ bảo vệ quyền con  
người trong hoạt động tư pháp.  
iv) Hội nhập quốc tế là một trong những đòi  
hỏi tất yếu của quá trình toàn cầu hóa nhằm  
giúp các quốc gia có thể đạt được sự phát triển,  
trong đó tư pháp là lĩnh vực quan trọng. Do đó,  
để phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như yêu  
cầu hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay cần  
xây dựng cơ chế đánh giá tính công khai, minh  
bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư  
pháp của tòa án.  
Ngoài ra, cũng nên quy định để các cơ  
quan, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu cũng  
được quyền đánh giá tính công khai, minh bạch  
trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp  
của tòa án. Với cách tiếp cận này, các cơ  
quan, tổ chức có thể thành lập tổ chức đánh  
v) Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược  
cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đưa ra định  
hướng xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững  
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,  
từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự  
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 1-14  
12  
giá độc lập về tính công khai, minh bạch  
trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư  
pháp của tòa án.  
thực hiện quyền tư pháp của tòa án; Quy định  
về công khai, minh bạch trong thủ tục tố tụng;  
Quy định về công khai, minh bạch trong giai  
đoạn chuẩn bị xét xử; Quy định về công khai,  
minh bạch tại phiên tòa; Quy định về sự tham  
gia và tiếp cận thông tin đối với hoạt động xét  
xử của người dân, công luận và xã hội; Quy  
định về công khai bản án và các dữ liệu của vụ  
án; Quy định về các điều kiện bảo đảm về công  
khai, minh bạch trong hoạt động xét xử, thực  
hiện quyền tư pháp của tòa án...; b) Nhóm căn  
cứ thứ hai nhằm xác định mức độ công khai,  
minh bạch trên trên thực tế trong hoạt động xét  
xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án, bao  
gồm: Thực hiện qui định về công khai, minh  
bạch trong các thủ tục tố tụng; Thực hiện qui  
định về công khai, minh bạch trong giai đoạn  
chuẩn bị xét xử; Thực hiện quy định về công  
khai, minh bạch tại phiên tòa; Thực hiện quy  
định về sự tham gia và tiếp cận thông tin đối  
với hoạt động xét xử của người dân, công  
luận và xã hội; Thực hiện quy định về công  
khai bản án và các dữ liệu của vụ án,... c)  
Nhóm căn cứ thứ ba, nhằm xác định mức độ  
các điều kiện bảo đảm về công khai, minh  
bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền  
tư pháp của tòa án, đó là: Thể chế; Con người  
(thẩm phán và cán bộ tòa án); Cơ sở vật chất  
và phương tiện kỹ thuật,...  
Mỗi căn cứ nêu trên cần được cụ thể hóa  
bằng các tiêu chí (chỉ số) để đánh giá tính công  
khai, minh bạch trong hoạt động xét xử, thực  
hiện quyền tư pháp của tòa án. Khi xây dựng,  
các tiêu chí cần cụ thể, có thể so sánh được giữa  
các chỉ số định tính và định lượng; đồng thời  
phải hình thành được một bộ các biến số để  
đánh giá những thay đổi đối với minh bạch tư  
pháp trong khoảng thời gian nhất định.  
- Thu thập nguồn dữ liệu, lựa chọn các  
phương pháp và kỹ thuật đánh giá: Việc xây  
dựng các chỉ số đánh giá phải được xây dựng  
trên cơ sở tính đến các dữ liệu thông tin có sẵn,  
các dữ liệu có thể thu thập được và chi phí của  
việc thu thập và phân tích dữ liệu thông tin tiết  
giảm đến mức thấp nhất có thể. Với cách tiếp  
cận này thì nguồn dữ liệu thu thập cần hướng  
tới những dữ liệu sẵn có để giảm thiểu tối đa  
chi phí, đồng thời phải lựa chọn các phương  
Cần quy định nguyên tắc đánh giá tính  
công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử,  
thực hiện quyền tư pháp của tòa án là phương  
châm, định hướng cho hoạt động đánh giá.  
Các nguyên tắc đánh giá sau đây được luật  
hóa: Nguyên tắc khách quan; nguyên tắc toàn  
diện; nguyên tắc thường xuyên; nguyên tắc  
giải trình.  
Cần quy định kết quả đánh giá tính công  
khai, minh bạch trong hoạt động xét xử, thực  
hiện quyền tư pháp của tòa án được xã hội phản  
biện và tòa án phải có trách nhiệm giải trình,  
tiếp thu.  
ii) Xây dựng quy trình đánh giá khách quan  
về tính công khai, minh bạch trong hoạt động  
xét xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án với  
các nội dung sau:  
- Xác định mục tiêu của việc đánh giá tính  
công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử,  
thực hiện quyền tư pháp của tòa án làm định  
hướng cho hoạt động đánh giá. Định hướng này  
phụ thuộc chủ thể đánh giá, tuy nhiên với bất  
kỳ mục đích gì thì việc xác định mục tiêu đánh  
giá phải rõ ràng, cụ thể, nêu rõ thời hạn và ý  
nghĩa của việc đánh giá.  
- Xây dựng các căn cứ, tiêu chí (chỉ số)  
đánh giá tính công khai, minh bạch trong hoạt  
động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án  
với một cấu trúc hợp lý phù hợp với mục tiêu  
đặt ra. Trong cấu trúc đánh giá này sẽ bao gồm  
các căn cứ là các lĩnh vực thể hiện tính công  
khai, minh bạch của quy định pháp luật và thực  
tiễn áp dụng, thực thi nó trong hoạt động xét  
xử. Trên cơ sở các căn cứ được xác định sẽ có  
hệ thống các tiêu chí đánh giá nhằm cụ thể hóa  
thông qua các chỉ số có thể đo lường được mức  
độ công khai, minh bạch trong hoạt động xét  
xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án.  
Những căn cứ sau cần phải được thiết lập:  
a) Nhóm căn cứ thứ nhất nhằm đánh giá tính  
công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử,  
thực hiện quyền tư pháp của tòa án được quy  
định trong luật ở mức độ nào, sẽ bao gồm: Quy  
định về nguyên tắc và những bảo đảm giá tính  
công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử,  
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 1-14  
13  
(truy cập lần cuối: 22/8/2020).  
pháp và biện pháp kỹ thuật hiệu quả, khách  
quan, phù hợp. Trong mọi trường hợp, dữ liệu  
thu thập được phải chuyển thành thông tin và  
kiến thức có thể góp phần nâng cao hiệu quả  
việc thực hiện chức năng của tòa án. Chất lượng  
dữ liệu phải luôn luôn được kiểm chứng dù đó  
là dữ liệu được thu thập từ sổ ghi án bằng giấy,  
hay đối với các dữ liệu thu thập được từ các hệ  
thống quản lý án điện tử. Cần có những nỗ lực  
để đảm bảo rằng việc nhập dữ liệu được đồng  
bộ, thống nhất ở mức cao nhất nhằm tránh làm  
cho việc so sánh giữa các tòa án bị sai lệch khi  
thu thập thông tin bằng các tiêu chí khác nhau.  
Trong nỗ lực này việc xây dựng một cuốn từ  
điển dữ liệu cũng như sự tham gia của các cơ  
quan thanh tra trong việc kiểm soát chất lượng  
dữ liệu là cần thiết [1, tr.102].  
iii) Công bố kết quả đánh giá tính công  
khai, minh bạch trong hoạt động xét xử, thực  
hiện quyền tư pháp của tòa án. Công bố kết quả  
là công đoạn cuối của bất kỳ hoạt động đánh  
giá nào và đánh giá tính công khai, minh bạch  
trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp  
của tòa án không phải ngoại lệ. Tuy nhiên, việc  
công bố kết quả đánh giá tính công khai, minh  
bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư  
pháp của tòa án cần ở phạm rộng đối với toàn  
xã hội, không chỉ nên bó hẹp trong nội bộ tòa  
án và các cơ quan nhà nước có liên quan. Đồng  
thời, tòa án cũng phải có trách nhiệm giải trình  
đối với kết quả đánh giá khi có phản biện xã hội  
về việc thực hiện tính công khai, minh bạch  
trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp  
của tòa án.  
[2] Liên Hợp quốc, Hướng dẫn tăng cường năng lực  
và liêm chính tư pháp (bản tiếng Việt), New  
York, 2011.  
[3] H. Harty, D. Fish, Impoving Productivity and  
Productivity Measurement in Local Government,  
The Urban Institute: Washington, 1971.  
[4] Ross J. Burkhead, Productivity in the Local  
Government Sector, Lexington Books, 1974.  
[5] J. Matzer (Chủ biên), Productivity Impovement  
Technique, ISMA: Washington, 1986.  
[6] E.A. Morley, Partitioners Guide to Public Sector  
Productivity improvement, Van Nostrand  
Reinhold: New York, 1986.  
[7] J. F. Wholey, Evaluation and Effective Public  
Management, Little: Boston, 1983.  
[8] Kin Sung-ho, The Constitutional Soul of Korea’s  
democracy, Political change in Korea (Insight  
into Korea Series Vol.3), The Korea Herald và  
Hiệp hội Khoa học chính trị biên tập, NXB  
Jimoondang, Seoul, 2008.  
[9] Cha Dong-wook, “The Constitutional Court:  
Political or Legal”, Political change in Korea  
(Insight into Korea Series Vol.3), The Korea  
Herald và Hiệp hội Khoa học chính trị biên tập,  
NXB Jimoondang, 2008.  
[10] Wen-chen Chang, “East Asian Foundation for  
Constitutionalism: Three Models Reconstructed”,  
National Taiwan University Law Review, 2009  
Vol. 3:2, pp. 111-141.  
[11] Wen-chen Chang, The Emergence of East Asian  
Constitutionalism: Features in Comparison,  
[12] Wen-Chen Chang, Strategic judicial responses in  
politically charged cases: East Asian experiences,  
I.CON (2010), Vol. 8, No. 4, pp. 885-910.  
[13] Võ Khánh Vinh, Về quyền tư pháp và chế độ tư  
pháp ở Việt Nam, Tạp chí Tòa án Nhân dân (điện  
cập lần cuối: 10/7/2020).  
Một cơ chế đánh giá tính công khai, minh  
bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư  
pháp của tòa án khách quan, hiệu quả sẽ góp  
phần quan trọng vào quá trình cải cách tư pháp,  
bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý nên đòi  
phải được hoàn thiện theo hướng khách quan,  
khoa học.  
[14] Bryan. Garner, ed., Black’s Law Dictionary,  
9th ed, 2009.  
[15] Các nguyên tắc Bangalore về ứng xử tư pháp,  
Giá trị 3: Liêm chính, Application 3.2.  
[16] Liên Hợp quốc (1948), Tuyên bố toàn thế giới về  
Tài liệu tham khảo  
nhân  
quyền,  
Bản  
tiếng  
Việt  
tại:  
[1] Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW  
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,  
Link tham khảo:  
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 1-14  
14  
65774.aspx (truy cập lần cuối: 22/5/2020).  
cuối: 22/02/2020).  
[17] Liên Hợp quốc, Công ước Quốc tế về các quyền  
dân sự và chính trị, 1966. Bản tiếng Việt tại:  
chinh-tri-270274.aspx (truy cập lần cuối:  
22/5/2020).  
[22] Nguyễn Ngọc Chí, Nguyễn Ngọc Mai, Minh  
bạch tư pháp trong lĩnh vực hình sự ở một số  
quốc gia và kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí  
Khoa học ĐHQG Hà Nội - Chuyên san Luật học,  
2020, tập 36, Số 3, tr.16 - 28.  
[23] Hiến pháp Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013.  
[18] Council of Europe, Convention for the Protection  
of Human Rights and Fundamental Freedoms  
(ECHR), 1950, link:  
ENG.pdf (on: 24/5/2020).  
[19] Inter-American (1969), American Convention on  
Human Rights, link:  
[24] Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày  
28/7/2017 Quy định về phòng xử án.  
[25] Thông tư số 02/2017/TT-TANDTC ngày  
28/7/2017 Ban hành Quy chế tổ chức phiên toà.  
[26] Quyết định số 1738/QĐ-TANDTC ngày  
23/11/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối  
cao về Ban hành Quy chế cấp phát, sử dụng và  
quản lý trang phục, giấy chứng minh thẩm phán,  
giấy chứng minh hội thẩm, giấy chứng nhận chức  
danh tư pháp, giấy chứng nhận tòa án nhân dân.  
[27] Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP của Hội đồng  
Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao về Hướng  
dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng  
Dân sự số 92/2015/QH13, Luật Tố tụng Hành  
chính số 93/2015/QH13 về gửi, nhận đơn khởi  
kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp, tống đạt, thông  
báo văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử.  
[28] Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng  
Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao về việc  
Công bố bản án, quyết định trên Cổng thông tin  
điện tử của Tòa án.  
[29] Công văn số 144/TANDTC-PC ngày 04/7/2017  
của Tòa án nhân dân tối cao về việc thi hành  
Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP.  
24/5/2020).  
(on:  
[20] Liên Hợp quốc, Công ước của Liên Hợp Quốc về  
chống tham nhũng, 2003. Bản tiếng Việt tại:  
cuối: 22/02/2020).  
[21] Liên Hợp quốc, Hướng dẫn tăng cường năng lực và  
liêm chính tư pháp, New York, 2011. Bản tiếng  
Việt tại:  
p
pdf 14 trang Thùy Anh 8680
Bạn đang xem tài liệu "Minh bạch và đánh giá tính minh bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfminh_bach_va_danh_gia_tinh_minh_bach_trong_hoat_dong_xet_xu.pdf