Giáo trình môn Giải phẫu học ở người

Bài 1  
GIỚI THIỆU MÔN GIẢI PHẪU HỌC Ở NGƯỜI  
Số tiết LT: 01  
Đối tượng: Cao đẳng điều dưỡng đa khoa  
I. Giải phẫu học và các phân môn của giải phẫu học  
Giải phẫu học người (Human Anatomy) là ngành khoa học nghiên cứu cấu trúc cơ  
thể người. Tuỳ thuộc vào phương tiện quan sát, giải phẫu học được chia thành hai phân  
môn: giải phẫu đại thể (Gross Anatomy hay Macroseopic Anatomy) nghiên cứu các cấu  
trúc có thể quan sát bằng mắt thường và giải phẫu vi thể (Microscopic Anatomy hay  
Histology) nghiên cứu các cấu trúc nhỏ chỉ có thể nhìn thấy qua kính hiển vi.  
II. Các phương thức mô tả giải phẫu  
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, có nhiều cách mô tả giải phẫu khác nhau. Ba cách  
tiếp cận chính trong nghiên cứu giải phẫu là giải phẫu hệ thống, giải phẫu vùng và giải phẫu  
bề mặt.  
1. Giải phẫu hệ thống (Systemic Anatomy) là cách mô tả mà ở đó cấu trúc của từng  
hệ cơ quan (thực hệin một chức năng nào đó của cơ thể) được trình bày riêng biệt. Giải  
phẫu hệ thống thích hợp với mục đích giúp người học hiểu được chức năng của từng hệ cơ  
quan. Các hệ cơ quan của cơ thế có: hệ da, hệ xương, hệ khớp, hệ cơ, hệ thần kinh, hệ tuần  
hoàn, hệ tiêu hoá, hệ hô hấp, hệ tiết niệu, hệ sinh dục và hệ nội tiết. Các giác quan là một  
phần của hệ thần kinh.  
2. Giải phẫu vùng (Regional Anatomy) hay giải phẫu định khu (Topographical  
Anatony) là nghiên cứu và mô tả giải phẫu của tất cả các cấu trúc (thuộc các hệ cơ quan  
khác nhau) trong một vùng, bao gồm cả những liên quan của chúng với nhau. Cơ thể được  
chia thành những vùng lớn sau đây: ngực, bụng, đáy chậu và chậu hông, chi dưới, chi trên,  
lưng, đầu và cổ. Mỗi vùng này lại được chia thành những vùng nhỏ hơn.  
3. Giải phẫu bề mặt (Surface Anatamy) là mô tả hình dáng bề mặt cơ thể người, đặc  
biệt là những liên quan của bề mặt cơ thể với những cấu trúc ở sâu hơn như các xương và  
các cơ. Mục đích chính của giải phẫu bề mặt là giúp người học hình dung ra những cấu trúc  
nằm dưới da. Ví dụ, ở những người bị vết thương do dao đâm, thầy thuốc phải hình dung  
ra những cấu trúc bên dưới vết thương có thể bị tổn thương.  
III. Vị trí của môn giải phẫu học trong y học  
Trong y học, giải phẫu đóng vai trò của một môn học cơ sở. Kiến thức giải phẫu học  
người là kiến thức nền tảng, giúp ta hiểu được hoạt động của cơ thể người (sinh lý học).  
Fernel nói rằng “Giải phẫu học cần cho sinh lý học giống như môn địa lý cần cho môn lịch  
sử”. Giải phẫu học cũng là nền tảng kiến thức căn bản của tất cả các chuyên ngành lâm  
sàng.  
1
1. Tư thế giải phẫu  
Tất cả các mô tả giải phẫu được trình bày trong mối liên quan với tư tế giải phẫu để  
đảm bảo rằng các mô tả đó được rõ ràng và chính xác. Một người ở tư thế giải phẫu là một  
người đứng thẳng với: đầu, mặt và các ngón chân hướng ra trước, các gót chân và các ngón  
chân áp sát nhau, và hai tay buông thõng ở hai bên với các gan bàn tay hướng ra trước.  
2. Các mặt phẳng giải phẫu  
Nhưng mô tả giải phải được dựa trên bốn loại mặt phẳng giải phẫu cắt qua cơ thể ở  
tư thế giải phẫu. Có nhiều mặt phẳng đứng dọc, đứng ngang và nằm ngang nhưng chỉ có  
một mặt phẳng đứng dọc giữa. Tác dụng chính của các mặt phẳng giải phẫu là để mô tả các  
mặt cắt và các hình ảnh của cơ thể.  
Mặt phẳng đứng dọc giữa (Medial Sagittal Plane) là mặt phẳng thẳng đứng đi dọc  
qua trung tâm của cơ thể, chia cơ thể thành các nửa phải và trái.  
Các mặt phẳng đứng dọc (Sagittal Planes) là những mặt phẳng thẳng đứng đi qua  
cơ thể song song với mặt phẳng đứng dọc giữa.  
Các mặt phẳng đứng ngang (Coronal/ Frontal Planes) là những mặt phẳng thẳng  
đứng đi qua cơ thể vuông góc với mặt phẳng đứng dọc giữa, chia cơ thể thành các phần  
trước và sau.  
Các mặt phẳng nằm ngang (Horizontal Planes) là các mặt phẳng đi qua cơ thể  
vuông góc với mặt phẳng đứng dọc giữa và đứng ngang. Một mặt phẳng nằm ngang chia  
cơ thể thành các phần trên và dưới.  
3. Các từ chỉ mối quan hệ vị trí và so sánh:  
Có nhiều tính từ được sử dụng để mô tả mối liên hệ về vị trí của các phần cơ thể ở  
tư thế giải phẫu bằng cách so sánh vị trí tương đối của hai cấu trúc với nhau, một cấu trúc  
đơn lẻ với bề mặt hoặc đường giữa, hay một cấu trúc với các cực cơ thể. Dưới đây là những  
từ thường được sử dụng:  
Trên (Superior/cranial/cephalic) là nằm gần hơn về phía đầu; ví dụ nói “Tim nằm  
trên cơ hoành” nghĩa là nói tim nằm gần đầu hơn cơ hoành, nói cái gì đó đi về phía đầu tức  
là nói đi về phía trên.  
Dưới (Inferior/cauda) là nằm gần hơn về phía bàn chân; ví dụ nói “Dạ dày nằm dưới  
tim” nghĩa là nói dạ dày nằm gần bàn chân hơn so với tim.  
Trước (Anterior) là ở gần mặt trước cơ thể hơn.  
Sau (Posterior) là nằm ở gần mặt sau cơ thể hơn.  
Bên (Lateral) và giữa (Medial). Bên là nằm xa mặt phẳng dọc giữa hơn, giữa thì  
ngược lại. Gần nghĩa là nằm gần thân hoặc là điểm nguyên uỷ (điểm gốc) của một mạch  
máu, thần kinh, chi hoặc cơ quan.......hơn; xa có nghĩa ngược lại.  
2
Nông (Superficial) là nằm gần bề mặt hơn và sâu (deep) là nằm xa bề mặt hơn.  
Bên trong (Internal) là ở gần về phía trung tâm của một cơ quan hay khoang rỗng,  
bên ngoài (External) thì ngược lại.  
3
Bài 2  
HỆ XƯƠNG  
Số tiết LT: 04; TH: 05  
Đối tượng: Cao đẳng điều dưỡng đa khoa  
MỤC TIÊU  
1. Trình bày được những kiến thức chung nhất về hệ xương: sự phân chia, đặc điểm  
cấu tạo của mỗi loại xương, sự hình thành và phát triển của các xương.  
2. Mô tả được những đặc điểm hình thể chính của các xương: các mặt khớp, các chỗ  
bám của cơ, các mốc bề mặt.  
3. Gọi đúng được tên của các chi tiết chính trên các phương tiện thực hành giải  
phẫu hệ xương.  
1. Đại cương:  
Xương là những cơ quan được cấu tạo chủ yếu bằng mô xương, một loại nhỏ liên  
kết rắn. Bộ xương đảm nhiệm các chức năng: nâng đỡ cơ thể, bảo vệ và làm chỗ dựa cho  
các cơ quan, và vận động (cùng hệ - khớp); bộ xương cũng là nơi sản sinh ra các tế bào  
máu và là kho dự trữ chất khoáng và chất béo (Hình 2.1).  
4
1.1. Hình thể ngoài:  
Dựa vào hình thể ngoài và cấu tạo có thể chia xương thành các loại như xương dài  
(Long Bone), xương ngắn (Short bone), xương dẹt (Flat bone), xương không đều (Irregular  
bone), xương có hốc khí (Pneumatized bone) và xương vừng (Sesamoid bone). Các loại  
xương với những hìnhthể khác nhau kể trên thích ứng với các chức năng riêng biệt, ví dụ  
như xương dài có khả năng vận động với động tác rộng rãi, xương dẹt thiên về chức năng  
bảo vệ ...........Các xương dài có một thân xương và hai đầu xương. ở xương chưa trưởng  
thành, thân và mỗi đầu xương dài được ngăn cách nhau bằng một sụn xương.  
1.2. Cấu tạo:  
1.2.1. Cấu tạo chung của các loại xương:  
Bất kỳ một xương nào cũng được cấu tạo bằng các phần sau đây, kể từ ngoài vào  
trong: màng ngoài xương, mô xương đặc, mô xương xốp và ổ tuỷ. Mô xương thuộc loại mô  
liên kết, bao gồm các tế bào bị vây quanh bởi chất căn bản rắn đặc. Chất căn bản của xương  
bao gồm 25% nước, 25% sợi Protein và 50% muối khoáng. Các loại tế bào của mô xương  
là tạo cốt bào, huỷ cốt bào và tế bào xương.  
Màng ngoài xương (Periosteum) là một màng mô liên kết dai giàu mạch máu bọc  
quanh bề mặt xương (trừ nơi có sụn khớp). Màng này gồm hai lớp: lớp ngoài là mô sợi, lớp  
trong chứa các tế bào sinh xương (Osteogenic cells). Màng ngoài xương giúp xương phát  
triển về chiều rộng. Nó cũng có tác dụng bảo vệ và nuôi dưỡng xương, giúp liền xương gãy  
và là nơi bám cho các dây chằng và gân. Sụn khớp là một lớp sụn trong bao phủ mặt khớp  
của các xương. Nó làm giảm ma sát và làm giảm sự va chạm tại những khớp hoạt dịch.  
Xương đặc (Compact bone) là thành phần đóng vai trò chính trong chức năng bảo  
bệ, nâng đỡ và kháng lại lực nén ép của trọng lực hay sự vận động. Mô xương đặc được tổ  
chức thành những đơn vị được gọi là các hệ thống Havers. Mỗi hệ thống Havers bao gồm  
một ống Havers ở trung tâm chứa các mạch máu, mạch bạch huyết và thần kinh. Bao quanh  
ống này là các lá xương đồng tâm. Giữa các lá xương là những khoang nhỏ (gọi là các hồ)  
chứa các tế bào xương và dịch ngoại bào. ống Havers và các hồ được nối liền bằng những  
kênh nhỏ gọi là các tiểu quản xương. Vùng nằm giữa các hệ thống Havers chứa các lá  
xương kẽ. Các lá xương bao quanh xương ở ngay dưới màng xương là các lá chu vi ngoài.  
Xương xốp (Spongy bone) do nhiều bè xương bắt chéo nhau chằng chịt tạo nên một  
mạng lưới vây quanh các khoang nhỏ, trông như bọt biển. Khoang nằm giữa các bè xương  
chứa tuỷ đỏ (Red bone marrow), nơi sản xuất các tế bào máu. Mỗi bè của xương xốp cũng  
được cấu tạo bằng các lá xương, các hồ chứa các tế bào xương và các tiểu quản nhưng  
không có các hệ thống Havers thực sự.  
Ổ tuỷ (Medullary cavity) là khoang rỗng bên trong thân xương dài chứa tuỷ vàng  
(Yellow bone marrow). Thành ổ tuỷ được lót bằng nội cốt mạc (Endosteum). Tuỷ vàng  
chứa nhiều tế bào mỡ.  
1.2.2. Đặc điểm cấu tạo riêng của mỗi loại xuương (Hình 2.2):  
5
Xương dài. ở thân xương (Diaphysis), lớp xương đặc dày ở giữa và mỏng dần về  
phía hai đầu; lớp xương xốp thì ngược lại. ở hai đầu xương (Epiphysis), lớp xương đặc chỉ  
còn là một lớp mỏng, bên trong là khối xương xốp chứa tủy đỏ.  
Xương ngắn có cấu tạo giống như đầu xương dài. Xương dẹt gồm hai bản xương  
đặc kẹp ở giữa là một lớp xương xốp.  
1.3. Các mạch máu của xương:  
Xương được cấp máu tốt nhờ hai loại động mạch: các động mạch nuôi xương và các  
động mạch mạch màng xương.  
Với một xương dài, các động mạch nuôi xương thường gồm một động mạch lớn  
chạy chếch qua xương đặc qua một lỗ nuôi xương (Nutrient Foramen) ở gần giữa thân  
xương đến ổ tuỷ xương và một số động mạch nhỏ đi vào đầu xương. Trong ổ tuỷ xương  
động mạch lớn chia thành các nhánh gần và xa chạy dọc theo chiều dài của ổ tuỷ và phân  
chia thành các nhánh nhỏ dần đi vào mô xương của thân xương, các động mạch còn lại nuôi  
dưỡng cho mô xương và tuỷ đỏ của đầu xương.  
Hình 2.2. Cấu trúc của các loại xương  
Các động mạch màng xương cấp máu cho màng ngoài xương (trừ các mặt khớp); một số  
nhánh mạch rất nhỏ chui qua màng ngoài xương tới phần ngoài xương đặc và nối tiếp với  
các nhánh của động mạch nuôi xương từ phía ổ tuỷ đi ra.  
6
1.4. Sự hình thành và phát triển của xương:  
Xương được hình thành trong thời kỳ phôi thai (vào cuối tháng thứ nhất của phôi)  
và tiếp tục phát triển cho tới tuổi trưởng thành. Có hai giai đoạn hình thành xương.  
ở giai đoạn thứ nhất, mô liên kết lỏng lẻo của phôi (thuộc trung mô, mà trung mô  
bắt nguồn từ trung bì) biến thành thể đặc dưới dạng một màng dai; xương được hình thành  
trên màng dai này.  
Giai đoạn thứ hai diễn ra khi các tế bào của thể đặc (màng dai) biến thành xương,  
theo hai cách:  
Một số ít xương (gồm các xương vòm sọ, xương hàm dưới và xương đòn) được hình  
thành bằng cách chuyển trực tiếp màng thành xương. Ví dụ, vòm sọ của phôi trước hai  
tháng chỉ là một màng; từ tháng thứ hai trên màng dày xuất hiện những điểm cốt hoá lan  
rộng dần ra tạo nên những xương dẹt của vòm sọ. Quá trình biến màng thành xương được  
gọi là màng cốt hoá và xương được hình thành theo cách này là xương màng.  
Các xương còn lại (chiếm hầu hết các xương) được hình thành từ sụn. Trước hết thể  
đặc trung mô tạo ra mô hình xương bằng sụn (ở đầu tháng thứ hai). Tới cuối tháng thứ hai,  
khi sụn phát triển, nó lại bị mạch máu xâm lấn. Các tế bào do mạch máu mang tới phá huỷ  
sụn và chỗ sụn bị phá huỷ được thay thế bằng mô xương. Quá trình này được gọi là sụn cốt  
hoá và xương được hình thành theo cách này được gọi là xương sụn. Với xương dài, thường  
thì mô hình sụn bị mạch xâm lấn ở trung tâm (ứng với giữa thân xương). Các tạo cốt bào  
do mạch máu mang tới tạo ra xương bằng cách: tế bào tạo xương tiết ra chất cốt giao; chất  
này ngầm muối Calci biến thành xương; điểm tạo xương ban đầu này là trung tâm cốt hoá  
nguyên phát (Primary Ossification centre). Khi trung tâm cốt hoá này phát triển rộng ra tới  
duới màng ngoài xương, xương được tiếp tục được sinh ra bởi màng ngoài xương. Sự to ra  
về đường kính của xương sụn là do màng ngoài xương xây đắp thêm các lá xương đồng  
tâm kế tiếp nhau (về cơ bản giống xương màng). Với xương sụn ngắn và nhỏ (xương cổ  
tay, cổ chân), sụn được thay thế dần chỉ bằng một trung tâm cốt hoá nguyên phát. Xương  
cột sống và xương dài của chi được hình thành từ nhiều trung tâm cốt hoá gồm: trung tâm  
cốt hoá nguyên phát (chính) tạo ra thân xương và các trung tâm cốt hoá thứ phát (Secondary  
Ossification centre) hay các trung tâm cốt hoá đầu xương tạo ra các đầu (Epiphyses) hay  
mỏm xương. Các trung tâm cốt hoá đầu xương phần lớn xuất hiện sau khi sinh. Trong quá  
trình phát triển, các trung tâm cốt hoá đầu xương ngăn cách với trung tâm cốt hoá chính  
bằng một tấm sụn đầu xương (Epiphysial Cartilage). Sụn này giúp xương phát triển về  
chiều dài. Tấm sụn đầu xương tăng sinh về phía thân xương và phần tăng sinh này được  
chuyển thành xương. Khi tốc độ cốt hóa sụn lớn hơn tốc độ tăng sinh sụn thì sụn dần được  
thay thế hết bằng xương và xương ngừng tăng trưởng về chiều dài.  
Sự tăng trưởng của xương màng về cơ bản là bằng một bồi đắp thêm xương trên bề  
mặt và các bờ xương. Ví dụ như sự đóng dần của các thóp (vùng nằm giữa các bờ và góc  
xương vòm sọ): xương tiến dần vào màng thóp bằng cách bồi đắp thêm xương vào các bờ  
xương; đồng thời, màng xương bồi đắp thêm xương lên bề mặt xương.  
7
Thực ra quá trình cốt hóa bao gồm hai công việc diễn ra đồng thời: quá trình kiến  
thiết nhờ các tạo cốt bào và quá trình phá huỷ nhờ các hủy cốt bào. Sự phá huỷ xương giúp  
tạo nên các hốc huỷ ở xương xốp, ổ tuỷ xương dài và các ống Haver của mô xương.  
1.5. Số lượng và phân chia:  
206 xương của bộ xương người (H.2.1) được xắp xếp thành phần: 80 xương của bộ  
xương trục và 126 xương của bộ xương treo. Bộ xương trục(axial skeleton) gồm 22 xương  
xọ,1 xương móng, 6 xương nhỏ của tai và 51 xương thân (gồm 26 xương cột sống, 24  
xương sườn và 1 xương ức). Bộ xương teo hay xương chi (appendicular skeleton) gồm 64  
xương chi trên và 62 xương chi dưới.  
2.Xương sọ (bones of cranium) (các H.2.3 - 2.8)  
Xương sọ là một khối gồm 22 xương nằm ở đầu trên của cột sống.  
Phân chia. Sọ do hai nhóm xương hợp thành: các xương hộp sọ và các xương mặt.  
Hộp sọ là hộp xương bảo vệ cho não do tám xương tạo nên: hai xương đỉnh, một xương  
trán, một xương chẩm, một xương bướm, một xương sàng và hai xương thái dương. Các  
xương mặt tạo nên kkhung xương của mặt, gồm mười ba xương dính thành một khối và  
dính với hộp sọ, và một xương liên kết với hộp sọ, và một xương liên kết với khối xương  
sọ bằng khớp hoạt dịch, Mười bốc xương mặt là: hai xương lệ, hai xương xoăn mũi dưới,  
hai xương mũi, hai xương hàm trên, hai xương khẩu cái, hai xương gò má, một xương hàm  
dưới và một xương lá mía.  
Những đặc điểm chung. Ngoài việc tạo nên hộp sọ, các xương sọ cũng tạo nên một  
số khoang nhỏ khác, bao gồm ổ mũi và các ổ mắt mở ra phía trước. Một số xương sọ chứa  
những khoang được lót bằng niêm mạc và thông với mũi; chúng được gọi là những xoang  
cạnh mũi. Trong xương thái dương có những khoang nhỏ chứa các cấu trúc liên quan tới  
thính giác và thăng bằng.  
Trong các xương sọ, chỉ có xương hàm dưới là có thể chuyển động được, các xương  
còn lại dính chặt với nhau thành một khối bằng các đường khớp bất động.  
Hộp sọ có một nền để não nằm trên và một vòm bao quanh và đậy trên não. Các  
xương của vòm sọ được tại nên từ hai bản xương đặc (bản ngoài bản trong) ngăn cách  
nhau bằng một lớp xương xốp gọi là lõi xốp. Mặt trong hộp sọ dính với màng não cứng,  
mặt ngoài tạo nên chỗ bám cho các cơ đầu mặt. Ngoài việc tạo khung xương của mặt, các  
xương mặt còn bảo vệ cho đường vào của các hệ hô hấp và tiêu hoá. Cả khối xương sọ bảo  
vệ và nâng đỡ cho các giác quan chuyên biệt về nhìn, nếm, ngửi, nghe và thăng bằng.  
2.1.Các xương hộp sọ (brain box)  
xương trán (frontal bone). Xương trán gồm hâi phần chính: một phần tạo nên trán  
(phần trước của hộp sọ) là trai trán, một phần nằm ngang tạo nên trần ổ mắt và hầu hết  
phần trước của nền sọ (hố sọ trước). ở mặt ngoài, hai phần của xương trán gặp nhau tại bờ  
trên ổ mắt. Ngay trên bờ này, bên trong trai trán co hai xoang trán.  
Các xương đỉnh (parietal bone). Hai xương đỉnh tạo nên phần lớn của các mặt bên  
và đỉnh sọ. Chúng tiếp khớp với nhau tại đường khớp dọc, với xương trán tại đường khớp  
8
vành, với xương chẩm tại đường khớp lambda và với các xương thái dương tại các đường  
khớp trai. Mặt trong của xương đỉnh lõm và có những rãnh để các mạch máu đi qua.  
Hình 2.3. Xương sọ: nhìn trước  
Các xương thái dương (temporal bone). Mỗi xương thái dương tạo nên một mặt  
dưới - bên của hộp sọ và một phần của nền sọ. Nó tiếp khớp với các xương đỉnh, chẩm,  
bướm và gò má bằng các khớp bất động. Xương thái dương do ba phần tạo nên: phần đá,  
phần trai và phần nhĩ.  
Phần đá có hình tháp tam giác nằm ngang qua nền sọ, giữa xương bướm và xương  
chẩm. Phần này chứa tai giữa và tai trong, và những ống cho động mạch cảnh trong và thần  
kinh mặt đi qua. ống động mạch cảnh có một lỗ ngoài mở ra ở mặt dưới phần đá và một lỗ  
trong mở ra ở đỉnh phần đá. Mỏm nhọn từ mặt dưới phần đá nhô xuống dưới là mỏm trâm.  
Nền phần đá hướng ra ngoài và ra sau. Mỏm lồi trên nền phần đá, ở ngay sau lỗ tai ngoài,  
được goi là mỏm chũm. Trong mỏm chũm có nhiều xoang nhỏ. ở giữa mỏm trâm và mỏm  
9
chũm có lỗ trâm - chũm, nơi ra khỏi sọ của thần kinh mặt. Trên mặt sau phần đá có lỗ và  
ống tai trong, nơi các thần kinh sọ VII và VIII đi qua. Bờ sau phần đá cùng với xương  
chẩm giới hạn nên lỗ tĩnh mạch, nơi đi qua của tĩnh mạch cảch trong.  
Hình 2.4. Xương sọ: nhìn bên  
Phần trai là mảng xương mỏng hình quạt. Phần dưới của trai thái dương tách  
ra mỏm gò má chạy ra trước tiếp khớp với mỏm thái dương của xương gò má; mỏm  
của hai xương cùng nhau tạo nên cung gò má. Hố lõm nằm ở mặt sau dưới mỏm gò  
má là hố hàm dưới và chỗ lồi tròn ờ trước hố này là củ khớp. Hố và củ tiếp khớp với  
chỏm xương hàm dưới tạo nên khớp thái dương hàm dưới.  
Phần nhĩ là mảnh xương mỏng vây quanh lỗ ống tai ngoài.  
Xương chẩm (Occipital Bone). Xương chẩm tạo nên phần sau của vòm và nền sọ.  
Xương chẩm gồm ba phần vây quanh lỗ lớn xương chẩm. Lỗ lớn là nơi hành não liên tiếp  
với tuỷ sống. Trước lỗ lớn là phần nền, hai bên là các phần bên và ở sau là trai chẩm. Mặt  
trên phần nền dốc đứng với được gọi là dốc. Trên mỗi phần bên có một lồi cầu chẩm tiếp  
khớp với mặt trên của khối bên đốt đội và một ống thần kinh hạ nhiệt, nơi đi qua của thần  
10  
kinh sọ XII. Mặt sau trai chẩm có ụ chẩm ngoài ở giữa và các đường gáy ở mỗi bên. Giữa  
mặt trước (hay mặt trong) trai chẩm có ụ chẩm trong. Gờ xương từ ụ này đi tới lỗ chẩm là  
mào chẩm trong, còn hai rãnh kế tiếp nhau từ ụ chạy sang hai bên là rãnh xoang ngang và  
rãnh xoang Sigma. Rãnh xoang ngang ngăn cách hai hố ở mặt trong trai chẩm: hố đại não  
ở trên và hố tiểu não ở dưới.  
Xương bướm (Sphenoid/ sphenoidal bone). Xương bướm nằm ở giữa nền sọ và tiếp  
khớp với tất cả các xương khác của hộp sọ. Ngoài hộp sọ, nó còn góp phần tạo nên trần ổ  
mũi và các thành ổ mắt. Các phần của xương bướm là thân, cánh nhỏ, cánh lớn và các mỏm  
chân bướm. Thân nằm giữa xương bướm, tiếp giáp với xương sàng ở trước và xương chẩm  
ở sau. Mặt trên của thân xương bướm có rãnh trước giao thoa và hố tuyến trên. Mỗi cánh  
nhỏ dính vào phần trước của thân bướm bằng hai rễ và cùng thân bướm giới hạn nên ống  
thị giác, nơi đi qua của thần kinh sọ II. ở phía sau, mỗi cánh lớn cũng từ một bên thân bướm  
chạy sang bên, tạo nên phần giữa của nền sọ. Hai cánh cùng với thân bướm giới hạn nên  
khe ổ mắt trên, nơi đi qua của các thần kinh V1, III, IV và VI. Trên các cánh lớn có lỗ tròn  
lỗ bầu dục, lần lượt là nơi đi qua của thần kinh V2 và V3. Các mỏm chân bướm từ thân  
chạy xuống các thành bên ổ mũi. Trong thân xương bướm có các xoang bướm thông với ổ  
mũi.  
Xương sàng (Ethmoid/Ethmoidal bone). Xương sàng nằm trên đường giữa, ở phần  
trước nền sọ. Nó còn góp phần tạo nên vách mũi, trần ổ mũi, thành ngoài ổ mũi và thành  
trong ổ mắt. Các phần của xương sàng gồm mảnh sàng, mảnh thẳng đứng và các mê đạo  
sàng. Mảnh sàng lắp vào chỗ khuyết của phần ổ mắt xương trán, ngăn cách hố sọ trước với  
ổ mũi; giữa mặt trên của mảnh sàng nhô lên một mỏm hình tam giác gọi là mào gà, hai bên  
mào có các lỗ sàng. Mảnh thẳng đứng chạy vào vách mũi. Mỗi mê đạo sàng là một khối  
xương xốp nằm ở giữa ổ mắt và ổ mũi. Khối này chứa các xoang sàng thông với ổ mũi. Hai  
mảnh xương từ mặt trong mỗi mê đạo sàng nhô vào ổ mũi được gọi là các xoăn mũi trên  
và dưới.  
2.2. Các xương mặt (Facia Skeleton):  
11  
Hình 2.5. Xương sọ: nhìn từ sau  
Xương hàm trên (Maxilla). Hai xương hàm trên (đã dính lại) tạo nên hàm trên và  
tiếp khớp với tất cả các xương mặt khác, trừ xương hàm dười. Nó tạo nên một phần của sàn  
ổ mắt, một phần của thành bên và sàn ổ mũi, và hầu hết khẩu cái cứng. Xương hàm trên  
gồm thân và các mỏm. Thân có các mặt hướng về ổ mắt, ổ mũi, hố dưới thái dương (được  
gọi lần lượt là mặt ổ mắt, mặt mũi mặt dưới thái dương) và về phía trước (mặt trước).  
Những chi tiết quan trọng trên các mặt này là: rãnh dưới ổ mắt ở mặt ổ mắt, lỗ dưới ổ mắt  
khuyết mũi ở mặt trước, củ hàm ở mặt dưới thái dương, rãnh lệ lỗ xoang hàm trên ở  
mặt mũi. Thân xương chứa moọt xoang lớn mở vào ổ mũi, xoang hàm trên. có bốn mỏm  
từ thân xương nhô ra: mỏm trán chạy lên tiếp khớp với xương trán; mỏm gò má tiếp khớp  
với xương gò má; mỏm huyệt răng là một cung mang các huyệt răng của các răng hàm trên;  
mỏm khẩu cái tạo nên 3/4 trước khẩu cái cứng. Xương hàm trên cùng cánh lớn xương  
bướm giới hạn nên khe ổ mắt dưới.  
Xương hàm dưới (Mandibula). Xương hàm dưới gồm một thân và hai ngành hàm.  
Thân xương hàm dưới cong hình móng ngựa, gồm một nền dày ở dưới và phần huyệt răng  
12  
ở trên. Giữa mặt trước nền hàm dưới lồi ra ở thành lồi cằm và mỗi bên có một lỗ cằm. Phần  
huyệt răng cong thành cung huyệt răng và mang các lỗ huyệt chân răng hàm dưới. Mỗi  
ngành hàm dưới liên tiếp với thân hàm dưới tại góc hàm dưới. Từ đây, ngành hàm chạy lên  
trên gần như vuông góc với thân hàm. Đầu trên của ngành hàm tách ra thành mỏm vẹt ở  
trước và mỏm lồi cầu ở sau; giữa hai mỏm này là khuyết hàm dưới. Mỏm lồi cầu có một  
chỏm tiếp khớp với hố hàm dưới và củ khớp của xương thái dương. Trên mặt trong của  
ngành hàm có một lỗ cho thần kinh huyệt răng dưới đi vào xương hàm, lỗ hàm dưới. Lỗ  
này là cửa vào của ống hàm dưới. Miệng lỗ được chắn bằng một mảnh xương gọi là lưỡi  
hàm dưới.  
Xương mũi (Nasal bone). Các xương mũi gặp nhau trên đường giữa và tạo nên một  
phần của cầu mũi.  
Xương lệ (Lacrimal bone). Hai xương lệ là những xương nhỏ nằm ở sau và ngoài  
các xương mũi và tạo nên một phần thành trong ổ mắt. Xương lệ cùng với mỏm trán xương  
hàm trên giới hạn nên hố lệ, nơi mà túi lệ nằm.  
Xương gò má (Zygomatic bone). Xương gò má làm cho gò má lồi lên thành gò và  
tạo nên một phần của thành ngoài và sàn ổ mắt. Nó tiếp khớp với các xương trán, hàm trên,  
bướm và thái dương.  
Hình 2.6. Xương sọ (Nhìn từ bên)  
Xương khẩu cái (Palatine bone). Xương này gồm mảnh nằm ngang và mảnh thẳng  
đứng hợp thành hình chữ L. Mảnh nằm ngang cùng với mảnh nằm ngang của xương bên  
13  
đối diện tạo thành phần sau của khẩu cái cứng. Mảnh thẳng đứng nhô lên trên để tạo nên  
một phần của thành ngoài ổ mũi và một phần sàn ổ mắt.  
Xương xoăn mũi dưới (Inferior nasal concha). Mỗi xương này là một xương mỏng  
cuộn lại và nhô vào ổ mũi ở dưới xương xoăn mũi giữa.  
Xương lá mía (Vomer). Đây là một xương mỏng hình tam giác tạo nên một phần  
vách mũi. Nó tiếp khớp ở dưới với các xương của khẩu cái cứng tại đường giữa và ở trên  
với mảnh thẳng đứng của xương sàng và xương bướm.  
Xương móng (Hyoid bone). Xương này không thuộc xương sọ nhưng được mô tả  
cùng xương sọ cho tiện. Nó là một xương rời hình móng ngựa nằm trong các mô mềm của  
vùng cổ, ở ngay trên thanh quản và dưới xương hàm dưới. Xương móng gồm một thân nằm  
ngang và hai sừng ở mỗi bên: sừng lớn và sừng nhỏ.  
Hình 2.7. Mặt ngoài nền sọ  
14  
3. Xương thân:  
Xương của thân bao gồm cột sống và các xương ngực.  
3.1. Cột sống (Vertebral column) (H.2.9)  
Cột sống là một cấu trúc vừa mềm dẻo vừa vững chắc. Nó vừa có thẻ vận động linh  
hoạt vừa bao bọc và bảo vệ tuỷ sống, nâng đỡ cho đầu, và tạo chỗ bám cho các xương sườn,  
đai chậu và các cơ lưng. Cột sống tạo nên khoảng 2/5 chiều cao cơ thể và do 26 xương tạo  
nên, bao gồm xương cùng, xương cụt và 24 đốt sống rời. Các đốt sống rời gồm 7 đốt sống  
cổ, 12 đốt sống ngực và 5 đốt sống thắt lưng. Xương cùng do 5 đốt sống cùng dính liền  
nhau mà thành; xương cụt thường do 4 đốt sống cụt dính lại. Cột sống sẵn có hai đường  
cong lồi ra sau ngay từ lúc sinh ra và không mất đi: cong ngực cong cùng. Khi trẻ lớn  
lên và có thể đứng thẳng, cột sống xuất hiện thêm hai đường cong mới (đường cong thứ  
phát): cong cổ cong thắt lưng (đều lồi ra trước).  
15  
Hình 2.9. Cột sống nhìn trước (A) và bên (B)  
3.1.1. Các phần của một đốt sống điển hình (H.2.10):  
Mỗi đốt sống (Vertebra) gồm có thân đốt sống và cung đốt sống vây quanh lỗ đốt  
sống.  
Thân đốt sống (Vertebral body) có hình trụ dẹt, mặt trên và mặt dưới là các mặt  
gian đốt sống tiếp khớp với đốt sống kế cận qua đĩa gian đốt sống.  
Cung đốt sống (Vertebral arch) ở phía sau thân đốt sống, cùng với thân đốt sống  
giới hạn nên lỗ đốt sống. Cung gồm mảnh cung đốt sống (Lamina of vertebral arch) rộng  
và dẹt, nằm ở sau; các cuống cung đốt sống (Pedicle of vertebral arch) ở trước mảnh, dính  
với thân; và các mỏm từ cung mọc ra. Các bờ trên và dưới của cuống đều lõm và được gọi  
là các khuyết sống (Trên và dưới). Khuyết sống dưới của đốt sống trên cùng khuyết sống  
trên của đốt sống dưới liền kề giới hạn nên lỗ gian đốt sống (Intervertebral Foramen), nơi  
mà các dây thần kinh sống và các mạch máu đi qua. Cung đốt sống tách ra các mỏm:  
Một mỏm vai (Spinous Process) từ giữa mặt sau của mảnh cung đốt sống chạy ra sau  
và xuống dưới, sờ thấy được ở dưới da lưng:  
Hai mỏm ngang (Transverse process) từ chố nối giữa cuống và mảnh chạy ngang ra  
hai bên; và 4 mỏm khớp, gồm 2 mỏm khớp trên và 2 mỏm khớp dưới (Superior and inferior  
16  
articular process) mang các mặt khớp, cũng tách ra từ khoảng chỗ nối giữa cuống và mảnh;  
khi các đốt sống tiếp khớp với nhau thì 2 mỏm khớp dưới của đốt sống trên tiếp khớp với  
2 mỏm khớp trên của đốt sống dưới.  
Hình 2.10. Các phần của một đốt sống điển hình  
Lỗ đốt sống (Vertebral foramen) nằm giữa thân đốt sống và cung đốt sống. Khi các  
đốt sống chồng lên nhau tạo thành cột sống thì các lỗ này hợp thành ống sống (Vertebral  
canal) chứa tủy sống.  
3.1.2. Đặc điểm hình thể riêng của đốt sống từng đoạn:  
Các đốt sống cổ (Cervical vertebrae) (H.2.11)  
17  
Các đốt sống cổ có chung đặc điểm là: mỏm ngang dính vào thân và cuống cung đốt  
sống bằng 2 rễ, giới hạn nên lỗ ngang (Foramen tranversarium), nơi có các mạch đốt sống  
đi qua. Một số đốt sống cổ lại có thêm các đặc điểm riêng.  
Đốt cổ I hay đốt đội (Atlas) (H.2.11) không có thân mà có cung trước, cung sau và  
hai khối bên. Mỗi khối bên có mặt khớp trên tiếp khớp lồi cầu xương chẩm và mặt khớp  
dưới tiếp khớp với đốt cổ II.  
Đốt cổ II hay đốt trục (Axis) (H.2.11) có một mỏm từ mặt trên của thân nhô lên gọi  
răng đốt trục (Dens of axis). Răng có một đỉnh và hai mặt khớp; mặt khớp trước tiếp  
khớp với cung trước đột đội, mặt khớp sau tiếp khớp với dây chằng ngang.  
Đốt cổ VII hay đốt lồi (Vertebra Prominens) có mỏm gai dài nhất tỏng số các mỏm  
gai đốt sống cổ.  
Các đốt sống ngực (Thoracic Vertebrae) (H.2.12).  
Đặc điểm của các đốt sống ngực là chúng có hõm sườn ngang trên mỏm ngang để  
tiếp khớp với củ sườn và các hõm sườn trên và dưới trên thân đốt để tiếp khớp với chỏm  
sườn.  
Hình 2.12. Đốt sống ngực nhìn từ trên (A) và nhìn bên (B)  
Các đốt sống thắt lưng (Lumbar vertebrae) (H.2.13)  
Đặc điểm giúp phân biệt các đốt sống thắt lưng là chúng không có lỗ ngang như đốt  
sống cổ và không có các hõm sườn trên mỏm ngang và thân như đốt sống ngực.  
18  
Xương cùng (Sacrum) (H.2.14)  
Xương cùng là một khối của năm đốt sống cùng dính với nhau. Nó có hình tam  
giác, gồm một nền, hai phần bên, một mặt lưng và một đỉnh.  
Nền xương cùng hướng lên trên, tiếp khớp với đốt sống thắt lưng V tại khớp thắt  
lưng - cùng. Bờ trước của nền nhô ra ở giữa thành ụ nhô, mỗi bên của nền có một cánh  
và một mỏm khớp trên.  
Mỗi phần bên xương cùng có một mặt loa tai tiếp khớp với xương chậu, mỗi lồi  
ccùng và một mặt chậu hông hướng ra trước. Trên mặt chậu hông lõm và có bốn đường  
ngang đánh dấu những nơi dính nhau giữa các thân xương cùng; đầu ngoài của mỗi  
đường ngang có một lỗ gian đốt sống thông với một lỗ cùng trước.  
Mặt lưng lồi, hướng ra sau, có các mào cùng và bốn lỗ cùng sau. Các mào cùng là  
kết quả của sự dính lại với nhau của các mỏm gai, mỏm khớp và mỏm ngang của các đốt  
sống cùng. Phần dưới của mặt sau có hai sừng cùng nằm ở hai bên lỗ cùng; lỗ này là đầu  
dưới của ống cùng.  
Đỉnh xương cùng hướng xuống dưới, khớp với xương cụt.  
Xương cụt (Coccyx) (H.2.14) do 4 – 6 đốt sống cụt dính liền nhau tạo nên.  
19  
Hình 2.14. Xương cùng và xương cụt  
3.2. Các xương ngực (Thoracic skeleton) và lồng ngực (Thracic cage)  
Hình 2.15. Lồng ngực  
Các xương ngực bao gồm xương ức, các xương sườn và các đốt sống ngực. Chúng  
tiếp khớp với nhau tạo nên lồng ngực (H.2.15). Các xương lồng ngực giới hạn nên khoang  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 202 trang Thùy Anh 05/05/2022 4720
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình môn Giải phẫu học ở người", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_mon_giai_phau_hoc_o_nguoi.pdf