Giáo trình Luật thương mại Việt Nam (Phần 3)

ĐẠI HỌC HUẾ  
KHOA LUẬT  
THS. LÊ THỊ HẢI NGỌC (Chủ biên)  
THS. CAO ĐÌNH LÀNH, THS. NGUYỄN THANH TÙNG,  
THS. ĐẶNG THỊ VŨ HƯỜNG, CN. MAI XUÂN HỢI  
TÀI LIỆU HỌC TẬP  
LUẬT THƯƠNG MẠI  
VIỆT NAM  
PHẦN 2  
(Tái bản lần thứ nhất; có chỉnh sửa, bổ sung)  
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC HUẾ  
Huế, 2013  
Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam  
Lê Thị Hải Ngọc  
Tài liệu học tập: Luật thương mại Việt Nam / Lê Thị Hải Ngọc  
(ch.b.), Cao Đình Lành, Nguyễn Thanh Tùng, Đặng Thị Vũ Hường, Mai  
Xuân Hợi. - Tái bản lần thứ 1, có chỉnh sửa, bổ sung. - Huế : Đại học  
Huế. - 21cm  
Thư mục: tr. 137-138  
Ph.2. - 2013. – 138 tr.  
1. Luật thương mại 2. Việt Nam 3. Tài liệu học tập  
343.597 - dc14  
DUF0051p-CIP  
Mã số sách: TK/98 - 2013/T1  
LỜI GIỚI THIỆU  
Luật Thương mại 2 là môn học nghiên cứu về pháp luật hợp đồng,  
pháp luật giải quyết tranh chấp trong kinh doanh – thương mại và pháp  
luật về phá sản.  
Để đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu của học viên, sinh viên  
ngành luật cũng như những người nghiên cứu về lĩnh vực chuyên sâu  
trong lĩnh vực kinh doanh - thương mại, ThS. Lê Thị Hải Ngọc cùng  
ThS. Cao Đình Lành, ThS. Nguyễn Thanh Tùng, ThS. Đặng Thị Vũ  
Hường và CN. Mai Xuân Hợi cùng trao đổi góp ý hoàn thiện và biên  
soạn tài liệu này với mục đích giúp người học nắm bắt được những kiến  
thức cơ bản về pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, giải quyết tranh chấp trong  
kinh doanh – thương mại và pháp luật phá sản.  
Trong quá trình biên soạn tài liệu này, các tác giả đã tham khảo các  
giáo trình và tài liệu giảng dạy môn học của các cơ sở đào tạo Luật khác  
trong nước và thế giới. Các tác giả đã cập nhật, bổ sung thêm một số vấn  
đề theo từng nội dung và cập nhật các văn bản pháp luật mới ban hành.  
Hy vọng cuốn sách này sẽ giúp ích cho các học viên, sinh viên trong quá  
trình học tập, nghiên cứu môn Luật thương mại 2.  
Trong quá trình biên soạn, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu  
sót, khiếm khuyết. Các tác giả mong muốn nhận được những ý kiến đóng  
góp, phê bình từ các bạn đọc để lần tái bản sau cuốn sách được hoàn  
thiện hơn.  
Xin trận trọng giới thiệu Tài liệu học tập Luật Thương mại Việt  
nam phần 2 cùng bạn đọc.  
Thay mặt các tác giả  
Chủ biên  
ThS. Lê Thị Hải Ngọc  
MỤC LỤC  
Chương1: PHÁP LUẬT TRONGKINHDOANHTHƯƠNGMẠI  
9
9
1. KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG TRONG KINH DOANH -  
THƯƠNG MẠI  
1.1. Sơ lược về sự hình thành, phát triển của hợp đồng trong  
kinh doanh - thương mại  
9
1.2. Khái niệm hợp đồng trong kinh doanh - thương mại  
1.3. Đặc điểm của hợp đồng trong kinh doanh – thương mại  
1.4. Phân loại hợp đồng thương mại  
13  
14  
15  
18  
18  
20  
21  
25  
26  
33  
33  
34  
34  
34  
35  
35  
35  
37  
2. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI  
2.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng thương mại  
2.2. Chủ thể giao kết hợp đồng thương mại  
2.3. Thủ tục giao kết hợp đồng thương mại  
2.4. Nội dung của hợp đồng kinh doanh - thương mại  
2.5. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng  
3. CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG  
3.1. Chủ thể và thẩm quyền giao kết hợp đồng  
3.2. Mục đích và nội dung của hợp đồng  
3.3. Nguyên tắc giao kết  
3.4. Hình thức hợp đồng  
4. HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU VÀ XỬ LÝ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU  
4.1. Khái niệm  
4.2. Các trường hợp vô hiệu  
4.3. Phân loại hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu  
5. TRÁCH NHIỆM VẬT CHẤT TRONG HỢP ĐỒNG KINH  
DOANH - THƯƠNG MẠI  
38  
5.1. Khái niệm  
38  
38  
5.2. Ý nghĩa của chế độ trách nhiệm vật chất  
5.3. Căn cứ áp dụng trách nhiệm vật chất  
39  
40  
43  
44  
44  
44  
5.4. Các loại trách nhiệm vật chất trong hợp đồng kinh doanh  
thương mại  
5.5. Các trường hợp miễn trách nhiệm hợp đồng  
Chương 2: MỘT SỐ HỢP ĐỒNG THÔNG DỤNG TRONG  
THƯƠNG MẠI  
1. HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ TRONG THƯƠNG MẠI  
1.1. Khái niệm chung về hợp đồng mua bán hàng hoá trong  
thương mại  
1.2. Đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hoá trong thương mại  
1.3. Phân loại hợp đồng mua bán hàng hoá trong thương mại  
1.4. Nộidungcơ bảncủa hợpđồng muabánhànghoátrongthương mại  
45  
49  
49  
2. HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HOÁ TRONG KINH  
DOANH -THƯƠNG MẠI  
55  
2.1. Khái niệm hợp đồng vận chuyển hàng hóa  
2.2. Đặc điểm hợp đồng vận chuyển hàng hóa  
2.3. Phân loại hợp đồng vận chuyển hàng hóa  
2.4. Nội dung của hợp đồng vận chuyển hàng hoá  
55  
56  
57  
57  
2.5. Những nguyên tắc cơ bản khi soạn thảo hợp đồng vận  
chuyển hàng hoá  
58  
64  
64  
66  
69  
3. HỢP ĐỒNG DỊCHVTRONG KINH DOANH-THƯƠNG MẠI  
3.1. Khái niệm hoạt động dịch vụ và hợp đồng dịch vụ trong  
kinh doanh – thương mại  
3.2. Nội dung của hợp đồng dịch vụ trong kinh doanh – thương mại  
3.3. Những điều cần lưu ý khi ký kết và thực hiện hợp đồng  
kinh doanh dịch vụ thu công  
Chương 3: PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP  
TRONG KINH DOANH – THƯƠNG MẠI  
70  
70  
1. KHÁI NIỆM TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH  
2. CÁC HÌNH THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG  
KINH DOANH  
72  
2.1. Thương lượng  
73  
74  
2.2. Hòa giải  
2.3. Giảiquyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tàithương mại  
2.4. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng tòa án  
Chương 4: PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN  
1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁ SẢN  
1.1. Khái niệm  
75  
94  
102  
102  
102  
103  
104  
106  
107  
1.2. Phá sản là hệ quả tất yếu của nền kinh tế thị trường  
1.3. Tiêu chí xác định chủ thể kinh doanh lâm vào tình trạng phá sản  
1.4. Phân loại phá sản  
1.5. Phân biệt phá sản và giải thể  
2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP  
LUẬT PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP  
LUẬT PHÁ SẢN  
109  
2.1. Quátrình hìnhthành và phát triểncủa pháp luật phá sảnViệt Nam  
2.2. Vai trò của pháp luật phá sản  
109  
111  
113  
113  
113  
113  
131  
133  
137  
3. CÁC QUY ĐỊNH VỀ PHÁ SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN 2004  
3.1. Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của Luật Phá sản  
3.2. Thẩm quyền của Tòa án  
3.3. Thủ tục phá sản  
3.4. Các biện pháp đảm bảo tài sản trong giải quyết phá sản  
MỘT SỐ CÂU HỎI VÀ TÌNH HUỐNG ÔN TẬP  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
Chương 1  
PHÁP LUẬT  
TRONG KINH DOANH – THƯƠNG MẠI  
1.KIQTVHPĐỒNGTRONGKINHDOANH-THƯƠNGMẠI  
Trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, thuật ngữ “Hợp đồng kinh  
tế” được sử dụng để chỉ các quan hệ phát sinh trong quá trình hoạt động  
sản xuất – kinh doanh của các chủ thể kinh tế. Qua các thời kỳ phát triển  
kinh tế của đất nước, để phù hợp với thông lệ quốc tế và bản chất của  
quan hệ hợp đồng, thuật ngữ “hợp đồng kinh tế ” được sử dụng bằng các  
thuật ngữ như: “hợp đồng trong kinh doanh – thương mại” hoặc “hợp  
đồng thương mại ”.  
Để hiểu rõ hơn về hợp đồng trong kinh doanh - thương mại, chúng  
ta tìm hiểu về sự hình thành, phát triển hợp đồng thương mại qua các  
thời kỳ phát triển kinh tế của đất nước.  
1.1. Sơ lược về sự hình thành, phát triển của hợp đồng trong kinh  
doanh - thương mại  
1.1.1. Thời kỳ trước khi chuyển sang vận hành theo cơ chế kinh tế thị  
trường (còn gọi là “hợp đồng kinh tế” trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung)  
Ở nước ta dưới thời kỳ Pháp thuộc, đã xuất hiện đã xuất hiện hợp  
đồng trong một số hoạt động kinh doanh của tư bản Pháp và tư bản Việt  
Nam dưới hình thức các văn bản thoả thuận căn cứ vào luật lệ cũ.  
Nhìn chung, các văn bản đề cập đến nội dung của chế độ hợp đồng,  
phục vụ cho mục tiêu hợp tác kinh tế của Nhà nước trong giai đoạn đó.  
Thuật ngữ hợp đồng kinh tế được sử dụng trong nền kinh tế kế  
hoach hoá tập trung từ những năm 1960. Chủ thể tham gia quan hệ hợp  
đồng là các tổ chức xã hội chủ nghĩa và việc ký kết, thực hiện hợp đồng  
nhằm thực hiện chỉ tiêu, kế hoạch Nhà nước.  
Thời kỳ này, kế hoạch sản xuất – kinh doanh được thực hiện thông  
qua chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước. Chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước là yếu tố  
chủ yếu làm hạn chế sự tự do, bình đẳng thoả thuận của các bên thạm gia  
9
quan hệ hợp đồng. Nhà nước đã ban hành một số văn bản pháp luật điều  
chỉnh quan hệ hợp đồng kinh tế.  
Các văn bản pháp luật về hợp đồng kinh tế trong thời kỳ này  
bao gồm:  
- Nghị định số 04/CP ngày 4/1/1960 kèm theo “Bản Điều lệ tạm  
thời về chế độ hợp đồng kinh tế”.  
- Nghị định số 54/CP ngày 10/3/1975 kèm theo Bản Điều lệ về chế  
độ hợp đồng kinh tế”.  
- Ngoài ra, còn có các các văn bản quy định về từng chủng loại hợp  
đồng kinh tế - trong các lĩnh vực, như: xây dựng cơ bản, ngoại thương,  
vận chuyển hàng hoá, xây dưng…  
Có thể nói, thời kỳ này, hợp đồng kinh tế là công cụ pháp lý chủ  
yếu để Nhà nước quản lý nền kinh tế kế hoạch xã hội chủ nghĩa. Nhà  
nước quy định rất chặt chẽ các nội dung chủ yếu của hợp đồng kinh tế và  
buộc các bên phải chấp hành mà không có quyền lựa chọn.  
Hợp đồng kinh tế thời kỳ này khác biệt với hợp đồng dân sự hình  
thành giữa các tổ chức, cá nhân không phải là đơn vị kinh tế nhằm đáp  
ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng. Hợp đồng kinh tế mang tính kế hoạch,  
bị chi phối bởi các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, còn hợp đồng dân sự  
được thiết lập trên cơ sở tự do thoả thuận, bình đẳng giữa các bên.  
Sau đó, năm 1989, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế được ban hành1, là  
văn bản trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, ghi nhận sự thay đổi  
quan niệm về hợp đồng kinh tế.  
Theo các quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, hợp đồng kinh  
tế được hình thành trên cơ sở thoả thuận tự nguyện của các bên tham gia  
quan hệ hợp đồng. Tồn tại song song với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế  
(điều chỉnh hợp đồng kinh tế) là Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991  
(điều chỉnh hợp đồng dân sự). Cả hai văn bản này cùng điều chỉnh quan  
hệ hợp đồng nhưng ở hai lĩnh vực khác nhau.  
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã  
1 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ban hành ngày 25/9/1989.  
10  
hội chủ nghĩa và quá trình hội nhập kinh tế - quốc tế, việc phân biệt hai  
loại hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự trong pháp luật Việt Nam dẫn  
đến nhiều bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật và giải quyết tranh  
chấp kinh tế. Nhiều hợp đồng ký kết giữa các doanh nghiệp nhưng lại bị  
coi là hợp đồng dân sự vì lý do là doanh nghiệp đó không có tư cách  
pháp nhân. (Ví du: hợp đồng được ký kết giữa hai doanh nghiệp tư nhân  
với nhau). Đây là một bất cập lớn trong quy định của pháp luật Việt Nam  
về hợp đồng.  
Luật thương mại được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông  
qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 (có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm  
2006) đã khắc phục được những bất cập trên. Những quan hệ trong  
kinh doanh – thương mại được ký kết giữa các chủ thể kinh doanh  
không có tư cách pháp nhân được xác định là hợp đồng thương mại.  
Việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại vẫn thuộc thẩm  
quyền của Toà kinh tế hoặc là Trọng tài kinh tế, giống như hợp đồng  
kinh tế. Như vậy, các quan hệ hợp đồng được quy định trong văn bản  
pháp luật bị chồng chéo, phức tạp gây khó khăn cho các chủ thể và cả  
cơ quan công quyền.  
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới và bối cảnh hội nhập  
quốc tế sâu rộng hơn, ngày 14 tháng 6 năm 2005, Quốc hội đã thông  
qua Bộ luật dân sự2 (còn gọi là Bộ luật Dân sự 2005) và Luật thương  
mại3 (Luật thương mại 2005).  
Hai văn bản luật này được ban hành đánh dấu bước phát triển mới  
của pháp luật về hợp đồng, đó là sự thống nhất pháp luật về hợp đồng  
Việt Nam.  
Tuy nhiên, do đặc điểm của nền kinh tế quản lý theo cơ chế kế  
2 Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2006 (thay thế Bộ luật  
Dân sự 1995).  
3 Luật Thương mại 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2006 (thay thế Luật  
Thương mại 1997).  
11  
hoạch hoá tập trung, các quan hệ kinh tế chủ yếu thiết kế theo chiều dọc;  
phương thức thực hiện chủ yếu bằng hiện vật, các hoạt động kinh tế được  
kế hoạch chủ quan, tập trung cứng nhắc; việc tính toán giá trị chỉ là hình  
thức, bị cơ chế cấp phát-giao nộp bóp méo; hợp đồng kinh tế là công cụ để  
thực hiện kế hoạch Nhà nước, ký kết là một nghĩa vụ, là kỷ luật bắt buộc  
của Nhà nước với các đơn vị kinh tế khi có quan hệ với nhau.  
Quan điểm và nhận thức về hợp đồng kinh tế chưa thật đầy đủ,  
thiếu khách quan, thậm chí còn sai lệch làm cho pháp luật về hợp đồng  
kinh tế trong giai đoạn này còn nhiều hạn chế về tính pháp lý trong việc  
xây dựng và áp dụng pháp luật chưa thật đầy đủ, chính xác; vì thế, chưa  
phát huy được vai trò và tác dụng của hợp đồng kinh tế.  
1.1.2. Thời kỳ sau khi chuyển sang vận hành theo cơ chế kinh tế thị  
trường (gọi là “hợp đồng kinh tế” trong nền kinh tế thị trường)  
Trong điều kiện của cơ chế kinh tế mới, khi quyền tự do kinh  
doanh được xem như là một nguyên tắc hiến định, thì điều chắc chắn  
rằng nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng, tính độc lập và tự chịu  
trách nhiệm về tài sản sẽ được coi là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ  
hợp đồng. Cũng chính nguyên tắc đó, cùng với nguyên tắc tự định đoạt  
của việc giải quyết tranh chấp đã chi phối quan hệ trao đổi của nền kinh  
tế thị trường và điều đó dường như đã làm mờ đi ranh giới đã được xác  
định trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung giữa hợp đồng kinh tế với hợp  
đồng dân sự.  
Ở nước ta, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã  
hội chủ nghĩa, pháp luật về hợp đồng đã thể hiện sự điều chỉnh có sự  
phân hoá của nó trên cơ sở tiếp tục phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp  
đồng dân sự. Để thích ứng với cơ chế kinh tế mới, hợp đồng kinh tế đã  
buộc phải xác định lại các tiêu chí nhận dạng là chủ thể, mục đích và  
hình thức của nó.  
Có thể nói, hợp đồng là sự tự nguyện thoả thuận và thống nhất ý  
chí giữa các chủ thể tham gia.  
12  
1.2. Khái niệm hợp đồng trong kinh doanh - thương mại  
Ở Việt Nam, khoa học pháp lý và pháp luật thực định đã sử dụng  
nhiều khái niệm để chỉ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh - thương  
mại như: hợp đồng kinh tế (được ghi nhận trong Pháp lệnh Hợp đồng  
kinh tế 1989), hợp đồng thương mại (Luật thương mại 1997, Luật  
Thương mại 2005), hợp đồng trong kinh doanh - thương mại (Bộ  
luật tố tụng dân sự 2004).  
Pháp luật hiện hành có đề cập đến khái niệm hợp đồng thương mại,  
hợp đồng trong kinh doanh – thương mại, nhưng không đưa ra định  
nghĩa cụ thể mà chỉ đưa ra khái niệm chung về hợp đồng dân sự.  
Theo quy định của Bộ luật dân sự 20054, “Hợp đồng dân sự là sự  
thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền  
và nghĩa vụ dân sự”.  
Với phạm vi áp dụng của Bộ luật Dân sự 20055, các quy định của  
hợp đồng dân sự được áp dụng cho các hợp đồng nói chung (trong các  
lĩnh vực dân sự, lao động, thương mại, đầu tư kinh doanh).  
Như vậy, có thể nói, khái niệm hợp đồng dân sự được xem là khái  
niệm chung về hợp đồng bao gồm cả hợp đồng trong lĩnh vực thương  
mại, đầu tư kinh doanh.  
Hợp đồng trong kinh doanh - thương mại là gì? Chúng ta có thể  
xác định bản chất pháp lý của hợp đồng trong kinh doanh, thương mại  
trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự về hợp đồng. Từ đó cho thấy,  
hợp đồng trong kinh doanh, thương mại là một dạng cụ thể của hợp  
đồng dân sự.  
Có thể xem xét hợp đồng thương mại trong mối liên hệ với hợp  
đồng dân sự theo nguyên lý của mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.  
Nhiều vấn đề về hợp đồng thương mại được điều chỉnh trong Bộ luật  
Dân sự, như:  
- Giao kết hợp đồng;  
4 Xem Điều 388 - Bộ luật Dân sự 2005.  
5 Xem Khoản 1 Điều 1 - Bộ luật Dân sự.  
13  
- Nguyên tắc giao kết hợp đồng;  
- Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng;  
- Hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu...  
Bên cạnh đó, xuất phát từ yêu cầu của hoạt động thương mại,  
một số vấn đề về hoạt động trong kinh doanh, thương mại được quy  
định trong pháp luật thương mại có tính chất là sự phát triển tiếp tục  
những quy định của dân luật truyền thống về hợp đồng (như chủ thể,  
hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên, chế tài và giải quyết tranh  
chấp hợp đồng...).  
Tóm lại, hợp đồng trong kinh doanh, thương mại có bản chất của  
hợp đồng nói chung, được hiểu “là sự thoả thuận của các chủ thể kinh  
doanh - thương mại nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và  
nghĩa vụ trong quan hệ kinh doanh - thương mại”.  
1.3. Đặc điểm của hợp đồng trong kinh doanh – thương mại  
Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ thương mại, hợp  
đồng kinh doanh thương mại có những đặc điểm nhất định để nhận biết  
và phân biệt với các loại hợp đồng khác.  
Thứ nhất, về chủ thể: hợp đồng thương mại được thiết lập giữa các  
chủ thể chủ yếu là thương nhân. Khái niệm thương nhân được quy định  
trong Luật Thương mại.  
Theo quy định khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005, “thương nhân  
bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động  
thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”.  
Với quy định của pháp luật hiện nay, khái niệm chủ thể kinh doanh  
đồng nghĩa với khái niệm thương nhân theo Luật Thương mại 2005.  
Thương nhân là chủ thể của hợp đồng kinh doanh, thương mại có thể là  
thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài.  
Có những quan hệ trong quan hệ hợp đồng trong kinh doanh,  
thương mại đòi hỏi các bên đều phải là thương nhân (hợp đồng đại diện  
cho thương nhân, hợp đồng đại lý thương mại); bên cạnh đó, có những  
hợp đồng kinh doanh, thương mại chỉ cần ít nhất một bên là thương nhân  
(hợp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng dịch vụ bán đấu giá hàng hoá,  
14  
hợp đồng môi giới thương mại...).  
Thứ hai, về hình thức: hợp đồng trong kinh doanh, thương mại có  
thể được thiết lập dưới hình thức văn bản, lời nói hoặc bằng hành vi cụ  
thể của các bên giao kết. Trong những trường hợp nhất định, pháp luật  
bắt buộc các bên phải thiết lập hợp đồng trong kinh doanh, thương mại  
bằng hình thức văn bản (hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, hợp đồng  
dịch vụ khuyến mãi, quảng cáo, hội chợ, triển lãm thương mại...).  
Luật Thương mại 2005 cho phép các bên hợp đồng có thể thay thế  
hình thức văn bản bằng các hình thức khác có giá trị pháp lý tương  
đương. Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo,  
telex, fax, thông điệp dữ liệu.  
Thứ ba, về mục đích: Mục đích phổ biến của các bên trong hợp  
đồng kinh doanh, thương mại là lợi nhuận.  
Có thể nói, mục đích lợi nhuận là đặc trưng của các giao dịch kinh  
doanh do các bên của hợp đồng đều nhằm thu được lợi nhuận từ việc  
thực hiện hợp đồng.  
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, một bên của hợp đồng  
trong kinh doanh không có mục đích lợi nhuận. Những hợp đồng  
này, về nguyên tắc không đương nhiên chịu sự điều chỉnh của các  
quy định về pháp luật kinh doanh.  
Luật Thương mại 2005 quy định: trường hợp có chủ thể hợp  
đồng không nhằm mục đích lợi nhuận, thì hợp đồng được áp dụng  
Luật Thương mại khi bên không nhằm mục đích lợi nhuận lựa chọn  
áp dụng Luật Thương mại.6  
1.4. Phân loại hợp đồng thương mại  
Việc phân loại hợp đồng thương mại dựa trên nhiều tiêu chí khác  
nhau và nhiều các phân loại khác nhau.  
Việc phân loại hợp đồng nhằm mục đích xác định cơ chế điều hành  
phù hợp với tính chất của từng loại hợp đồng, nâng cao hiệu quả điều  
chỉnh pháp luật đối vứi hợp đồng.  
6 Xem Khoản 3 Điều 1 Luật thương mại 2005.  
15  
1.4.1. Cách phân loại thứ nhất  
a. Căn cứ vào tính chất hàng hoá tiền tệ của quan hệ hợp đồng,  
người ta chia ra thành hai loại:  
- Hợp đồng mang tính chất đền bù;  
- Hợp đồng mang tính chất tổ chức.  
b. Căn cứ vào thời gian chia ra thành hai loại:  
- Hợp đồng dài hạn;  
- Hợp đồng ngắn hạn.  
c. Căn cứ dấu hiệu chủ thể, chia làm hai loại:  
- Hợp đồng hai bên: Là hợp đồng mà có hai bên tham gia  
quan hệ hợp đồng.  
- Hợp đồng nhiều bên: Là hợp đồng mà có nhiều bên cùng tham  
gia vào quan hệ hợp đồng  
d. Căn cứ vào tính kế hoạch: gồm hai loại:  
- Hợp đồng theo chỉ tiêu pháp lệnh;  
- Hợp đồng không theo chỉ tiêu pháp lệnh.  
đ. Căn cứ vào nội dung của mối quan hệ kinh tế: Chia làm nhiều  
hợp đồng khác nhau:  
- Hợp đồng mua bán hàng hoá;  
- Hợp đồng liên doanh liên kết;  
- Hợp đồng vận chuyển hàng hoá;  
- Hợp đồng xây dựng cơ bản;  
- Hợp đồng đấu thầu hàng hoá;  
- Hợp đồng nghiên cứu khoa học;  
- Hợp đồng mua bán với thương nhân nước ngoài…  
1.4.2. Cách phân loại thứ hai  
a. Căn cứ vào mức độ tương xứng về quyền và nghĩa vụ giữa  
các bên, hợp đồng nói chung được phân thành hợp đồng đơn vụ và  
hợp đồng song vụ.  
16  
- Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ có một bên có nghĩa vụ.  
- Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối  
với nhau. Các bên đồng thời là người có quyền và có nghĩa vụ.  
b. Căn cứ vào sự phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực giữa các quan  
hệ hợp đồng, hợp đồng được phân chia thành hợp đồng chính và hợp  
đồng phụ.  
- Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào  
hợp đồng phụ.  
- Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp  
đồng chính.  
c. Căn cứ vào chủ thể được hưởng lợi từ hợp đồng, hợp đồng được  
chia thành hợp đồng vì lợi ích của các bên và hợp đồng vì lợi ích của  
người thứ ba.  
- Hợp đồng vì lợi ích của các bên: là hợp đồng mà việc thực hiện nghĩa  
vụ của một bên nhằm mang lại lợi ích của bên kia trong quan hệ hợp đồng.  
- Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba: là hợp đồng mà các bên  
giao kết hợp đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba được  
hưởng lợi từ việc thực hiện nghĩa vụ đó.  
d. Căn cứ vào nội dung của mối quan hệ kinh tế, hợp đồng được  
chia thành các chủng loại khác nhau, như:  
- Hợp đồng mua bán hàng hoá;  
- Hợp đồng vận chuyển hàng hoá;  
- Hợp đồng trong xây dựng cơ bản;  
- Hợp đồng trong trung gian thương mại;  
- Hợp đồng đại diện cho thương nhân;  
- Hợp đồng môi giới kinh doanh;  
- Hợp đồng đại lý;  
- Hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá;  
- Hợp đồng dịch vụ trong xuác tiến thương mại;  
- Hợp đồng dịch vụ quảng cáo;  
17  
- Hợp đồng dịch vụ trưng bày;  
- Hợp đồng tín dụng;  
- Hợp đồng bảo hiểm;  
- Hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư…  
2. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI  
2.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng thương mại  
2.1.1. Khái niệm  
Nguyên tắc giao kết hợp đồng thương mại là những tư tưởng chỉ đạo  
ược quán triệt trong các quy phạm pháp luật về hợp đồng đòi hỏi các bên  
phải tuân theo khi giao kết hợp đồng thương mại.  
2.1.2. Các nguyên tắc giao kết  
Các nguyên tắc giao kết hợp đồng thương mại gồm:  
a. Thứ nhất, nguyên tắc tự nguyện  
Việc giao kết hợp đồng thương mại phải dựa trên cơ sở ý chí của  
các bên trong quan hệ hợp đồng; các cơ quan, tổ chức hay cá nhân đều  
không có quyền áp đặt ý chí của mình cho các bên tham gia quan hệ  
hợp đồng.  
Khi xác lập quan hệ hợp đồng, các chủ thể đều được quyền tự do  
bày tỏ thể hiện ý chí và thống nhất ý chí nhằm đạt được mục đích xác  
định. Các chủ thể có thể tự do lựa chọn bạn hàng, thời điểm giao kết và  
bàn bạc, thoả thuận nội dung của hợp đồng.  
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay,  
không thể không đề cập đến những trường hợp mà sự tự nguyện trong  
quá trình giao kết hợp đồng của các doanh nghiệp bị hạn chế bởi luật  
định. Đó là trường hợp giao kết các hợp đồng cung ứng các dịch vụ cơ  
bản từ các doanh nghiệp có vị trí thống trị trên thị trường (phần lớn tồn  
tại dưới hình thái độc quyền tự nhiên) như điện, nước, viễn thông, hàng  
không, bảo hiểm, tín dụng...  
Để được đánh giá là một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị  
18  
trường7, nếu:  
- Một doanh nghiệp có thị phần từ 30% trở lên;  
- Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên;  
- Ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên;  
- Bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường  
liên quan.  
Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thường là doanh  
nghiệp có quy mô rất lớn, tiềm lực tài chính mạnh và đặc biệt có một hệ  
thống khách hàng rất đông đảo. Thay vì phải đàm phán với từng khách  
hàng, các doanh nghiệp loại này đã soạn sẵn các “hợp đồng mẫu” để áp  
dụng chung cho tất cả các khách hàng.  
Trong các hợp đồng này, sự tự do khế ước của khách hàng bị hạn  
chế. Đây cũng là nguyên nhân giải thích vì sao cơ quan quản lý cạnh  
tranh phải kiểm soát các hợp đồng mẫu này trước khi chúng được phép  
thực hiện.  
b. Thứ hai, nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ  
Tính bình đẳng này không phụ thuộc vào quan hệ sở hữu và quan  
hệ quản lý của chủ thể.  
Sự bình đẳng ở đây là sự bình đẳng pháp ly, sự bình đẳng trước  
pháp luật. Mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khi ký kết  
hợp đồng kinh tế thì quyền và nghĩa vụ tương ứng giữa các bên. Không  
có hợp đồng kinh doanh – thương mại mà trong đó một bên chỉ có quyền  
còn bên kia chỉ có nghĩa vụ.  
c. Thứ ba, nguyên tắc cùng có lợi  
Trong quan hệ hợp đồng thương mại, lợi ích chính là động lực thúc  
đẩy hành động của các chủ thể. Câc bên cùng tham gia ký kết và thực  
hiện hợp đồng để tìm kiếm lợi ích kinh tế. Theo nguyên tắc này, khi ký  
kết hợp đồng các bên phải cùng nhau xác lập quan hệ hợp đồng và phải  
bảo đảm sự tương xứng về quyền và nghĩa vụ cũng như lợi ích kinh tế  
của cả hai bên.  
7 Theo Điều 11 - Luật Cạnh tranh năm 2004.  
19  
d. Thứ tư, nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm về tài sản  
Trực tiếp chịu trách nhiệm về tài sản có nghĩa là các bên tham gia  
quan hệ hợp đồng thương mại phải tự mình gánh chịu trách nhiệm về  
mặt tài sản, gồm phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại khi có hành vi vi  
phạm hợp đồng.  
Các cơ quan cấp trên hoặc các tổ chức kinh tế khác không thể  
đứng ra chịu trách nhiệm tài sản thay cho bên vi phạm.  
đ. Thứ năm, nguyên tắc không trái với pháp luật  
Nguyên tắc không trái với pháp luật đòi hỏi việc giao kết hợp đồng  
phải hợp pháp. Điều này có nghĩa là, mọi việc thoả thuận trong hợp đồng  
phải hoàn toàn phù hợp với những quy định của pháp luật, không được lợi  
dụng việc giao kết hợp đồng để hoạt động trái pháp luật.  
Đây là quy định có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ trật tự và  
kỷ cương của Nhà nước trong lĩnh vực hợp đồng thương mại.  
2.2. Chủ thể giao kết hợp đồng thương mại  
2.2.1. Khái niệm chủ thể giao kết hợp đồng kinh doanh - thương mại  
Chủ thể giao kết của hợp đồng thương mại là các bên tham gia  
quan hệ hợp đồng, đó là những người cùng nhau thỏa thuận để xác lập  
nên quan hệ hợp đồng và cùng nhau thực hiện quyền và nghĩa vụ phát  
sinh từ quan hệ hợp đồng.  
2.2.2. Chủ thể và thẩm quyền giao kết hợp đồngkinh doanh -  
thương mại  
Theo quy định của Luật Thương mại 2005, chủ thể chủ yếu của  
hợp đồng thương mại là các thương nhân hoạt động thương mại theo quy  
định của Luật thương mại.  
Khi ký kết hợp đồng thương mại, mỗi bên chỉ cần một người ký  
vào văn bản hợp đồng hoặc một người đứng ra đại diện thoả thuận  
hợp đồng.  
Nếu chủ thể hợp đồng là pháp nhân thì người có thẩm quyền giao  
kết hợp đồng là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Đó là  
người được bổ nhiệm hoặc được bầu vào chức vụ đứng đầu của pháp  
20  
nhân. Người đại diện của pháp nhân có thể ửy quyền cho người khác  
giao kết thay mình. Việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản và tuân  
theo các quy định của pháp luật. Người uỷ quyền không được uỷ quyền  
cho người thứ ba.  
Nếu chủ thể là cá nhân có đăng ký kinh doanh thì chính cá nhân đó  
có thẩm quyền giao kết hợp đồng. Họ cũng có thể uỷ quyền cho người  
khác giao kết hợp đồng và phải tuân thủ các quy định của pháp luật về  
uỷ quyền.  
2.3. Thủ tục giao kết hợp đồng thương mại  
Có hai cách giao kết hợp đồng: giao kết trực tiếp và giao kết gián tiếp.  
Dù giao kết trực tiếp hay gián tiếp hợp đồng thương mại đều có  
hiệu lực pháp lý như nhau, các bên phải nghiêm chỉnh thực hiện các điều  
khoản đã cam kết.  
Để xác lập hợp đồng thương mại cần có sự thoả thuận giữa những  
người đã giao kết. Sự thoả thuận đó thể hiện ở các yếu tố:  
(1). Đề nghị giao kết hợp đồng;  
(2). Chấp nhận đề nghị hợp đồng;  
(3). Thời điểm giao kết và hiệu lực của hợp đồng.  
Những vấn đề này không được Luật Thương mại quy định, vì vậy  
các quy định của Bộ luật Dân sự sẽ được áp dụng đối với việc giao kết  
hợp đồng thương mại.  
2.3.1. Đề nghị giao kết hợp đồng  
Đề nghị giao kết hợp đồng nói chung có bản chất là hành vi pháp  
lý đơn phương của một chủ thể, có nội dung bày tỏ ý định giao kết hợp  
đồng với chủ thể khác theo những điều kiện xác định.  
Từ quy định của Bộ luật Dân sự, có thể định nghĩa: “giao kết hợp  
đồng thương mại là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự  
ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định  
cụ thể”8.  
8 Xem Điều 390 - Bộ luật Dân sự 2005.  
21  
- Hình thức giao kết hợp đồng: Bộ luật Dân sự cũng như Luật  
Thương mại 2005 không quy định về hình thức của đề nghị hợp đồng  
thương mại, song có thể dựa vào quy định về hình thức của hợp đồng để  
xác định hình thức của đề nghị hợp đồng, theo đó đề nghị hợp đồng có  
thể được thể hiện bằng văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể hoặc kết hợp  
giữa các hình thức này9.  
- Hiệu lực giao kết hợp đồng: Đề nghị hợp đồng được gửi đến cho  
một hay nhiều chủ thể xác định. Hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng  
thông thường được bên đề nghị ấn định. (Ví dụ trong vòng một tháng).  
Trường hợp bên đề nghị không ấn định thời điểm có hiệu lực của đề nghị  
hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được  
đề nghị nhận được đề nghị đó.  
Căn cứ xác định bên được đề nghị đã nhận được đề nghị giao kết  
hợp đồng là:  
- Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú (bên được đề nghị là cá  
nhân) hoặc trụ sở của bên được đề nghị (trường hợp bên được đề nghị  
là pháp nhân);  
- Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên  
được đề nghị;  
- Bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua  
các phương thức khác.  
Bên đề nghị phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình.  
Trong thời hạn đề nghị hợp đồng có hiệu lực, nếu bên được đề nghị  
thông báo chấp nhận vô điều kiện đề nghị hợp đồng thì hợp đồng  
trong kinh doanh, thương mại hình thành và ràng buộc các bên. Nếu  
các bên không thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng thì phải chịu các  
hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng.  
Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi hoặc rút lại giao kết  
hợp đồng trong các trường hợp:  
- Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút  
lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị;  
9 Xem Điều 24 - Luật thương mại 2005.  
22  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 67 trang Thùy Anh 3300
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Luật thương mại Việt Nam (Phần 3)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_luat_thuong_mai_viet_nam_phan_3.pdf