Giao kết hợp đồng theo quy định của công ước viên 1980 trong tương quan so sánh với pháp luật Việt Nam

GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC VIÊN 1980  
TRONG TƯƠNG QUAN SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT VIỆT NAM  
NGUYN THỊ LÊ HUYN* - VŨ THỊ HƯƠNG**  
Bài viết nghiên cứu các quy định của Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế  
về đề nghị giao kết hợp đồng, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng để thấy  
điểm tương đồng và khác biệt giữa quy định của pháp luật Việt Nam và công ước Viên, từ đó đề xuất  
một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.  
Từ khóa: CISG 1980, giao kết hợp đồng, hiệu lực hợp đồng, mua bán hàng hóa, pháp luật Việt Nam.  
Ngày nhận bài: 29/3/2021; Biên tập xong: 05/4/2021; Duyệt đăng: 10 /4/2021  
The article studies the provisions of the United Nations Convention on Contracts for  
International Sale of Goods (Vienna, 1980 - CISG) 1980 on proposal for concluding a contract,  
acceptance a proposal for concluding a contract and the validity of the contract to find out the  
similarities and differences between the provisions of Vietnamese laws and CISG 1980, thereby,  
proposes solutions to improve the law.  
Keywords: CISG 1980, concluding a contract, the validity of the contract, sale of goods,  
Vietnamese laws.  
ợp đồng là một trong những chế định  
Như vậy, một đề nghị giao kết hợp đồng  
quan trọng được ghi nhận trong pháp có ba đặc điểm cơ bản sau:  
luật của các quốc gia và pháp luật  
H
Thứ nhất, đề nghị giao kết hợp đồng được gửi  
cho bên đã được xác định hoặc tới công chúng  
quốc tế. Một trong những quy định không  
thể thiếu của chế định hợp đồng là quy định  
về đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận  
đề nghị giao kết hợp đồng, hiệu lực của hợp  
đồng bởi đây là những bước đầu tiên tạo nên  
một hợp đồng hoàn chỉnh có giá trị.  
1. Đề nghị giao kết hợp đồng theo quy  
định của Công ước Viên 1980 trong tương  
quan so sánh với pháp luật Việt Nam  
Điều 14 Công ước viên 1980 quy định:  
“Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay  
nhiều người xác định được coi là một chào hàng  
nếu có đủ chính xác và nếu nó chỉ rõ ý chí của  
người chào hàng muốn tự ràng buộc mình trong  
trường hợp có sự chấp nhận chào hàng đó”.  
Theo quy định tại Điều 386 Bộ luật dân sự  
(BLDS) năm 2015: “Đề nghị giao kết hợp đồng  
là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng  
và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên  
đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới  
công chúng (sau đây gọi chung là bên được  
đề nghị).  
Theo quy định này, đề nghị giao kết hợp  
đồng là ý chí của bên đề nghị giao kết và chịu  
sự ràng buộc bởi lời đề nghị của mình đối với  
bên đã được xác định hoặc tới công chúng.  
Như vậy, ngoài trường hợp đề nghị giao kết  
hợp đồng gửi cho bên “đã được xác định” thì  
quy định tại Điều 386 này còn ghi nhận đề  
nghị được gửi tới “công chúng”1. Do đó, một  
lời đề nghị của cá nhân hoặc doanh nghiệp có  
chứa đựng dấu hiệu để xác định là lời đề nghị  
giao kết hợp đồng trên các phương tiện truyền  
thông (các kênh quảng cáo, trang mạng...),  
trong địa chỉ email cá nhân, tờ rơi quảng  
cáo… thì cá nhân, doanh nghiệp đó phải chịu  
trách nhiệm bởi lời đề nghị của mình. Với quy  
định này, lần đầu tiên pháp luật dân sự Việt  
Nam ghi nhận trường hợp đề nghị giao kết  
hợp đồng được gửi tới công chúng, quy định  
này tương đồng với pháp luật nhiều nước  
* Tiến sĩ, Trưởng bộ môn Luật dân sự, Trường Đại học  
Luật, Đại học Huế  
** Tiến sĩ, Trưởng bộ môn Tư pháp quốc tế, Trường  
Đại học Luật, Đại học Huế  
Trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu  
rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết  
hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên  
được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại  
cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp  
đồng nếu có thiệt hại phát sinh”.  
1ꢀ Đề nghị giao kết hợp đồng với công chúng đã được  
nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận, tại Anh đã ghi  
nhận thông qua án lệ Carlill (Carlill kiện công ty sản  
xuất thuốc Carbolic Smoke Ball năm 1893).  
Số Chuyên đề 01 - 2021  
Khoa học Kiểm sát 115  
GIAO KT HP ĐỒNG THEO QUY ĐNH CA CÔNG ƯỚC VIÊN 1980...  
trên thế giới. Tuy nhiên, phạm vi để phân biệt định tại khoản 2 Điều 18 Công ước Viên 19804.  
một đề nghị giao kết hợp đồng với một quảng  
Đề nghị giao kết hợp đồng có giá trị từ thời  
cáo rất khó.  
điểm bên đề nghị ấn định, trong trường hợp  
Thứ hai, đề nghị giao kết hợp đồng phải  
thể hiện ý định giao kết hợp đồng của bên  
đề nghị  
Công ước Viên 1980 quy định: Một đề  
nghị là đủ chính xác khi nó nêu rõ hàng hóa và  
ấn định số lượng về giá cả một cách trực tiếp hoặc  
gián tiếp hoặc quy định thể thức xác định những  
yếu tố này2.  
Như vậy, với quy định của Công ước Viên,  
một đề nghị được coi là đủ chính xác khi đề  
nghị nêu rõ tên hàng hoá, số lượng và giá cả  
tức là đề nghị phải có những điều khoản cơ  
bản, chủ yếu của một hợp đồng tương lai. Tuy  
nhiên, Điều 386 BLDS năm 2015 lại không có  
quy định về vấn đề này. Điều này dẫn đến rất  
khó để xác định cách thức để xác định ý định  
giao kết hợp đồng của bên đề nghị và còn gây  
khó khăn cho việc áp dụng quy định này trên  
thực tế.  
bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao  
kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được  
đề nghị nhận được đề nghị đó5. Tuy nhiên, cả  
Công ước Viên 1980 và pháp luật dân sự Việt  
Nam đều cho phép bên đề nghị giao kết hợp  
đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị6. Điều 389  
BLDS năm 2015 quy định: Bên đề nghị giao  
kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị  
giao kết hợp đồng trong trường hợp bên được  
đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi  
hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời  
điểm nhận được đề nghị; khi bên đề nghị thay  
đổi nội dung của đề nghị thì đó là đề nghị mới.  
BLDS năm 2015 còn quy định về chấm dứt  
đề nghị giao kết hợp đồng tại Điều 391. Theo  
đó, đề nghị giao kết hợp đồng sẽ chấm dứt  
trong 06 trường hợp sau: 1) Bên được đề nghị  
chấp nhận giao kết hợp đồng; 2) Bên được  
đề nghị trả lời không chấp nhận; 3) Hết thời  
hạn trả lời chấp nhận; 4) Khi thông báo về  
việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực;  
5) Khi thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có  
hiệu lực; 6) Theo thỏa thuận của bên đề nghị  
và bên được đề nghị trong thời hạn chờ bên  
được đề nghị trả lời. Tuy nhiên, với trường  
hợp đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt khi  
“bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng”  
lại không phù hợp, bởi lẽ nếu đề nghị giao kết  
hợp đồng chấm dứt trong trường hợp này thì  
sẽ không thể có hợp đồng được giao kết do đề  
nghị giao kết hợp đồng cùng với chấp nhận  
đề nghị giao kết hợp đồng mới cấu thành  
một hợp đồng hoàn chỉnh. Quy định nêu trên  
không được quy định trong Công ước Viên  
1980. Tại Điều 395 BLDS năm 2015 còn quy  
Thứ ba, bên đề nghị giao kết hợp đồng phải  
chịu sự ràng buộc của đề nghị giao kết hợp  
đồng do mình đưa ra đối với bên được đề nghị  
(bên xác định hoặc công chúng).  
Khi một đề nghị giao kết hợp đồng được  
gửi đi, về mặt nguyên tắc, bên đề nghị giao  
kết phải chịu ràng buộc trách nhiệm với lời đề  
nghị của mình. BLDS năm 2015 cũng có quy  
định rất rõ ràng về vấn đề này: “Trường hợp đề  
nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời,  
nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người  
thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời  
thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị  
mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại  
phát sinh”.  
Như vậy, nếu đề nghị giao kết hợp đồng  
là loại cố định (có ghi rõ thời hạn trả lời) thì  
bên đề nghị giao kết hợp đồng phải chịu ràng  
buộc cho đến khi hết thời hạn trả lời mà không  
được giao kết hợp đồng với người thứ ba.  
Trong trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng  
không ghi rõ thời hạn trả lời thì “việc trả lời  
chấp nhận chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện  
trong một thời hạn hợp lý”3. Quy định này của  
BLDS năm 2015 cũng được tìm thấy trong quy  
4ꢀ Chấp nhận chào hàng có hiệu lực từ khi người chào  
hàng nhận được chấp nhận. Chấp thuận chào hàng  
không phát sinh hiệu lực nếu sự chấp nhận ấy không  
được gửi tới người chào hàng trong thời hạn mà  
người này đã quy định trong chào hàng, hoặc nếu  
thời hạn đó không được quy định như vậy, thì trong  
một thời hạn hợp lý, xét theo các tình tiết của sự giao  
dịch, trong đó có xét đến tốc độ của các phương tiện  
liên lạc do người chào hàng sử dụng. Một chào hàng  
bằng miệng phải được chấp nhận ngay trừ phi các  
2ꢀ Xem: Khoản 1 Ðiều 14 Công ước Viên 1980 về hợp tình tiết bắt buộc ngược lại.  
đồng mua bán hàng hoá quốc tế.  
5ꢀ Xem: Điều 388 BLDS năm 2015.  
6ꢀ Xem: Điều 16 Công ước Viên 1980.  
3ꢀ Xem: Điều 394 BLDS năm 2015.  
116 Khoa học Kiểm sát  
Số Chuyên đề 01 - 2021  
NGUYN THỊ LÊ HUYN - VŨ THỊ HƯƠNG  
định: “Trường hợp bên đề nghị chết, mất năng từ chối chào hàng và cấu thành một hoàn giá.  
lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận  
2. Tuy nhiên một sự phúc đáp có khuynh  
thức, làm chủ hành vi sau khi bên được đề nghị trả  
hướng chấp nhận chào hàng nhưng có chứa đựng  
lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết  
các điều khoản bổ sung hay những điều khoản  
hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội dung  
khác mà không làm biến đổi một cách cơ bản nội  
giao kết gắn liền với nhân thân bên đề nghị”. Quy  
dung của chào hàng thì được coi là chấp nhận chào  
định này của BLDS năm 2015 không được ghi  
hàng, trừ phi người chào hàng ngay lập tức không  
nhận trong Công ước Viên 1980. Thêm vào  
biểu hiện bằng miệng để phản đối những điểm  
đó, điều này có vẻ vô lý, không cần thiết và  
khác biệt đó hoặc gửi thông báo về sự phản đối của  
mâu thuẫn với Điều 391 BLDS năm 2015, bởi  
mình cho người được chào hàng. Nếu người chào  
Điều 391 quy định: Đề nghị giao kết hợp đồng  
hàng không làm như vậy, thì nội dung của hợp  
chấm dứt khi bên được đề nghị chấp nhận  
đồng sẽ là nội dung của chào hàng với những sự  
giao kết hợp đồng.  
sửa đổi nêu trong chấp nhận chào hàng…”.  
Tiếp thu kinh nghiệm từ pháp luật quốc  
Theo đó, Công ước Viên có 02 trường hợp  
tế, đặc biệt là Bộ nguyên tắc chung về Luật  
được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp  
Hợp đồng Châu Âu (PCEL), Điều 387 BLDS  
đồng: Một là, chấp nhận toàn bộ nội dung của  
năm 2015 quy định về thông tin trong giao kết  
đề nghị giao kết hợp đồng; hai là, chấp nhận  
hợp đồng như sau:  
một sự phúc đáp có khuynh hướng chấp nhận  
“1. Trường hợp một bên có thông tin ảnh  
hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của  
bên kia thì phải thông báo cho bên kia biết.  
2. Trường hợp một bên nhận được thông tin bí  
mật của bên kia trong quá trình giao kết hợp đồng  
thì có trách nhiệm bảo mật thông tin và không  
được sử dụng thông tin đó cho mục đích riêng của  
mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác.  
đề nghị giao kết hợp đồng nhưng có chứa  
đựng các điều khoản bổ sung hay những điều  
khoản khác mà không làm biến đổi một cách  
cơ bản nội dung của đề nghị giao kết hợp  
đồng.  
Do đó, nếu chấp nhận đề nghị giao kết  
hợp đồng có sửa đổi, bổ sung điều khoản cơ  
bản trong nội dung của đề nghị giao kết hợp  
đồng thì mới được coi là một đề nghị giao kết  
hợp đồng mới. Công ước Viên 1980 coi “các  
yếu tố bổ sung hay sửa đổi liên quan đến các điều  
kiện giá cả, thanh toán, đến phẩm chất và số lượng  
hàng hóa, địa điểm và thời hạn giao hàng, đến  
phạm vi trách nhiệm của các bên hay đến sự giải  
quyết tranh chấp được coi là những điều kiện làm  
biến đổi một cách cơ bản nội dung của đề nghị giao  
kết hợp đồng”8.  
Theo khoản 1 Điều 393 BLDS năm 2015,  
“Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời  
của bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội  
dung của đề nghị”.  
Như vậy, sự trả lời của bên được đề nghị  
đối với đề nghị giao kết hợp đồng của bên  
đề nghị là phải “chấp nhận toàn bộ nội dung  
của đề nghị”. Do đó, khi bên được đề nghị đã  
chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng có nêu  
điều kiện hoặc sửa đổi, bổ sung đề nghị thì  
khi đó sẽ cấu thành một đề nghị mới9. Tuy  
nhiên, quy định này của pháp luật Việt Nam  
so với Công ước Viên 1980 thì quy định của  
Công ước Viên mang tính chất mềm dẻo hơn.  
3. Bên vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 2  
Điều này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.  
Quy định này là hoàn toàn thuyết phục,  
phù hợp với pháp luật quốc tế. Theo đó,  
những thông tin ảnh hưởng đến việc chấp  
nhận đề nghị giao kết hợp đồng của bên kia  
thì bắt buộc phải thông báo. Những thông  
tin đối với quá trình sản xuất hàng hóa, về  
khả năng sử dụng hàng hóa,… trong sản xuất  
kinh doanh ảnh hưởng đến hậu quả của việc  
giao kết hợp đồng rất quan trọng7.  
2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng  
và hiệu lực của hợp đồng theo quy định của  
Công ước Viên 1980 trong tương quan so  
sánh với pháp luật Việt Nam  
2.1. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng  
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng  
được quy định tại Điều 19 Công ước Viên  
1980: “1. Một sự phúc đáp có khuynh hướng chấp  
nhận chào hàng nhưng có chứa đựng những điểm  
bổ sung, bớt đi hay các sửa đổi khác thì được coi là  
7ꢀ Nguyễn Minh Tuấn (Chủ biên), Bình luận khoa học  
những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb Tư 8ꢀ Xem: Khoản 3 Điều 19 Công ước Viên 1980.  
pháp, Hà Nội (2016), tr.225.  
9ꢀ Xem: Điều 392 BLDS năm 2015  
Số Chuyên đề 01 - 2021  
Khoa học Kiểm sát 117  
GIAO KT HP ĐỒNG THEO QUY ĐNH CA CÔNG ƯỚC VIÊN 1980...  
Về mặt nguyên tắc, một chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng13. Tại khoản 3 Điều 18  
Công ước Viên 1980 cũng có quy định: “Nếu  
do hiệu lực của chào hàng hoặc do thực tiễn đã có  
giữa hai bên trong mối quan hệ tương hỗ hoặc tập  
quán thì người được chào hàng có thể chứng tỏ sự  
chấp thuận của mình bằng cách làm một hành vi  
nào đó như hành vi liên quan đến việc gửi hàng  
hay trả tiền chẳng hạn dù họ không thông báo cho  
người chào hàng thì chấp nhận chào hàng chỉ có  
hiệu lực từ khi những hành vi đó được thực hiện  
với điều kiện là những hành vi đó phải được thực  
hiện trong thời hạn đã quy định tại điểm trên”.  
giao kết hợp đồng có giá trị pháp lý khi chấp  
nhận là “vô điều kiện” và bên đề nghị giao  
kết hợp đồng nhận được chấp nhận trong  
thời gian hiệu lực của đề nghị giao kết hợp  
đồng hoặc trong thời gian hợp lý nếu trong  
đề nghị giao kết hợp đồng không quy định  
thời hạn trả lời10. Khoản 2 Điều 394 BLDS  
năm 2015 quy định: Trong trường hợp đã  
hết thời hạn trả lời mà bên đề nghị mới nhận  
được chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng  
vì lý do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc  
phải biết về lý do khách quan này thì thông  
báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng vẫn  
có hiệu lực (trừ trường hợp bên đề nghị trả  
lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó của  
bên được đề nghị giao kết hợp đồng)11. Quy  
định này có xu hướng nghiêng về việc bảo vệ  
lợi ích của bên đề nghị bởi rất nhiều trường  
Ngoài ra, Điều 396 BLDS năm 2015 còn  
có nội dung: Trường hợp bên được đề nghị  
đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng sau  
đó chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có  
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi  
thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng  
vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội dung giao  
hợp bên được đề nghị giao kết hợp đồng gửi kết gắn liền với nhân thân bên được đề nghị14.  
thông báo chấp nhận trong thời gian hiệu lực Quy định này của BLDS năm 2015 hoàn toàn  
không tìm thấy trong pháp luật nhiều quốc  
gia cũng như không tìm thấy trong Công ước  
Viên 1980.  
của đề nghị nhưng thông báo lại không đến  
tay người nhận. Bên được đề nghị tin tưởng  
rằng thông báo của mình đã đến tay người  
nhận và hợp đồng đã được ký kết nên đã làm  
các thủ tục cần thiết và đến nhận hàng. Tuy  
nhiên, khi đến nhận hàng bên đề nghị giao  
kết đã bán hết hàng cho đối tác khác, trong  
trường hợp này rõ ràng thiệt hại sẽ thuộc về  
bên được đề nghị giao kết hợp đồng do hành  
vi trung thực và thiện chí của mình12.  
Cũng giống như Công ước Viên 1980,  
pháp luật Việt Nam không coi sự im lặng của  
người được đề nghị là chấp nhận đề nghị giao  
kết hợp đồng. Khoản 2 Điều 393 BLDS năm  
2015 quy định: “Sự im lặng của bên được đề nghị  
không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp  
đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói  
quen đã được xác lập giữa các bên”. Như vậy,  
2.2. Hiệu lực của hợp đồng  
Theo Điều 23 và Điều 24 Công ước Viên  
1980, hợp đồng được coi là đã ký kết kể từ lúc  
sự chấp nhận chào hàng có hiệu lực (Một chào  
hàng, một thông báo chấp nhận chào hàng  
hoặc bất cứ một sự thể hiện ý chí nào cũng  
được coi là “tới nơi” người được chào hàng khi  
được thông tin bằng lời nói với người này, hoặc  
được giao bằng bất cứ phương tiện nào cho  
chính người được chào hàng tại trụ sở thương  
mại của họ, tại trụ sở bưu chính hoặc nếu họ  
không có trụ sở thương mại hay địa chỉ bưu  
chính thì gửi tới nơi thường trú của họ). Tinh  
thần này của Công ước Viên 1980 cho thấy thời  
điểm hợp đồng được giao kết theo quy định  
nếu các bên có thoả thuận im lặng hoặc theo của Công ước được xác định là thời điểm bên  
chào hàng (đề nghị giao kết hợp đồng) nhận  
thói quen đã được xác lập giữa các bên thì im  
lặng vẫn được coi là chấp nhận đề nghị giao  
kết hợp đồng. Nếu bên cạnh sự im lặng mà  
bên im lặng lại thực hiện hành vi như giao  
hàng, trả tiền,… thì vẫn có chấp nhận đề nghị  
13ꢀ Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học, Những điểm mới của  
Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb Hồng Đức - Hội luật gia  
Việt Nam (2016), tr. 352.  
14ꢀ Điều 395 BLDS năm 2015 quy định tương tự đối với  
10ꢀ Xem: Điều 21 Công ước Viên 1980; Điều 394 BLDS trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng “Trường  
năm 2015.  
hợp bên đề nghị chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc  
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi sau khi bên  
11ꢀ Xem: Khoản 2 Điều 21 Công ước Viên 1980.  
12ꢀ Nguyễn Văn Luyện, Lê Thị Bích Thọ, Dương Anh được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề  
Sơn, Giáo trình Luật Hợp đồng Thương mại quốc tế, Nxb nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội  
Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh (2011), tr. 66. dung giao kết gắn liền với nhân thân bên đề nghị”.  
118 Khoa học Kiểm sát  
Số Chuyên đề 01 - 2021  
NGUYN THỊ LÊ HUYN - VŨ THỊ HƯƠNG  
được chấp nhận chào hàng (chấp nhận đề nghị kết hợp đồng cần phải có những nội dung chủ  
giao kết hợp đồng) vô điều kiện.  
yếu như: Tên hàng, số lượng, cách thức xác  
định giá giống như trong Công ước Viên 1980.  
Pháp luật Việt Nam quy định thời điểm  
giao kết hợp đồng tại Điều 400 và hiệu lực của  
hợp đồng tại Điều 401 của BLDS năm 201515.  
Có thể thấy, quy định của pháp luật Việt Nam  
về hiệu lực của hợp đồng đã có sự tương thích  
với quy định của Công ước Viên 1980. Cả Công  
ước Viên 1980 và pháp luật Việt Nam đều theo  
“thuyết tiếp thu”, tức là quy định hợp đồng  
được giao kết ở thời điểm bên chào hàng nhận  
được chấp nhận chào hàng vô điều kiện.  
Thứ hai, khoản 1 Điều 391 BLDS năm 2015  
quy định đề nghị giao kết hợp đồng chấm  
dứt khi “bên được đề nghị chấp nhận đề  
nghị giao kết hợp đồng”. Như đã phân tích,  
nội dung này là không phù hợp bởi nó cùng  
với chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mới  
cấu thành một hợp đồng hoàn chỉnh. Do đó,  
cần bỏ quy định nêu trên ra khỏi Điều 391 về  
chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng.  
Thứ ba, Điều 393 BLDS năm 2015 quy  
định một trường hợp duy nhất được coi là  
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng “vô điều  
kiện”. Theo đó, chấp nhận không được đưa  
ra nếu có bất cứ sửa đổi, bổ sung nào của đơn  
đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, trong  
tiến trình giao lưu thương mại và hội nhập  
ngày càng sâu rộng như hiện nay, một sửa  
đổi, bổ sung không đáng kể trong chấp nhận  
đề nghị giao kết hợp đồng lại cấu thành một  
đề nghị giao kết hợp đồng mới sẽ làm cho quá  
trình đàm phán, ký kết hợp đồng bị kéo dài,  
thiếu sự linh hoạt trong hoạt động thương  
mại, đặc biệt là thương mại quốc tế. Do đó,  
pháp luật Việt Nam nên quy định giống  
như Công ước Viên 1980. Khi đó, chỉ đối với  
những chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng  
có đưa ra những sửa đổi, bổ sung nội dung  
cơ bản của đề nghị giao kết hợp đồng mới coi  
là một đề nghị giao kết hợp đồng mới, còn  
đối với những sửa đổi, bổ sung không cơ bản  
cần được coi là chấp nhận đề nghị giao kết  
hợp đồng, trừ trường hợp bên đề nghị giao  
kết hợp đồng phản đối ngay lập tức.  
3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt  
Nam  
Với việc học hỏi kinh nghiệm của nước  
ngoài cũng như thông qua thực tiễn, pháp  
luật dân sự Việt Nam đã có những ghi nhận  
mới, tiến bộ phù hợp với thông lệ và tương  
thích với pháp luật quốc tế về hợp đồng,  
trong đó có các quy định về đề nghị và chấp  
nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên,  
như đã phân tích ở trên, các quy định này vẫn  
còn một số bất cập cần sửa đổi, bổ sung để  
pháp luật Việt Nam tương thích hoàn toàn  
với pháp luật quốc tế, tạo một hành lang pháp  
lý vững chắc và phù hợp với tiến trình hợp  
tác, giao lưu thương mại trong quá trình hội  
nhập quốc tế. Từ đó, tác giả đưa ra một số  
kiến nghị như sau:  
Thứ nhất, một đề nghị giao kết hợp đồng  
phải thể hiện rõ ý định của bên đề nghị giao  
kết. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam lại không  
quy định cách thức để xác định ý định của  
bên đề nghị giao kết hợp đồng. Theo đó, nên  
chăng khi quy định nội dung của đề nghị giao  
Qua phân tích quy định của Công ước  
Viên 1980 trong tương quan so sánh với pháp  
luật Việt Nam cho thấy: BLDS năm 2015 đã  
có những bước tiến bộ vượt bậc so với quy  
định của BLDS năm 2005 về hợp đồng. Trong  
đó, BLDS năm 2015 đã ghi nhận nhiều vấn đề  
mới, phù hợp với pháp luật quốc tế như đưa  
thêm quy định về đề nghị giao kết hợp đồng  
gửi tới công chúng, thông tin trong giao kết  
hợp đồng,… Tuy nhiên, với một số bất cập  
và chưa tương thích trong BLDS năm 2015 về  
giao kết hợp đồng với quy định của Công ước  
Viên 1980, cần thiết phải xem xét sửa đổi, bổ  
sung pháp luật Việt Nam để phù hợp hơn với  
pháp luật quốc tế, tạo ra một hành lang pháp  
lý vững mạnh và đạt hiệu quả cao, đủ sâu, đủ  
rộng để hội nhập vào sân chơi quốc tế./.  
15Xem: Điều 400. Thời điểm giao kết hợp đồng,  
BLDS năm 2015:  
“1. Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị  
nhận được chấp nhận giao kết.  
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả  
lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn thì  
thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của  
thời hạn đó.  
3. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm  
các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng.  
4. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời  
điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức  
chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.  
Trường hợp hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó  
được xác lập bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp  
đồng được xác định theo khoản 3 Điều này.”  
Số Chuyên đề 01 - 2021  
Khoa học Kiểm sát 119  
pdf 5 trang Thùy Anh 7520
Bạn đang xem tài liệu "Giao kết hợp đồng theo quy định của công ước viên 1980 trong tương quan so sánh với pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiao_ket_hop_dong_theo_quy_dinh_cua_cong_uoc_vien_1980_trong.pdf